Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Mặt chủ quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.46 KB, 112 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







VŨ THÙY LÂN





MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM
VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










Hà Nội – 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





VŨ THÙY LÂN




MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM
VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60 38 40





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ






Hà Nội - 2010


MỤC LỤC

Lời cam đoan
Tr.
Mục lục

Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các đồ thị
1
2
3
MỞ ĐẦU

4
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM
7
1.1. Khái niệm cấu thành tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm
7
1.2. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
14
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ MẶT
CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM
36
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về lỗi
36
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về động cơ, mục đích phạm tội
48
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM
73
3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định về lỗi
73
3.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định về động cơ, mục đích
phạm tội
88
KẾT LUẬN
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102


1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



BLHS
: Bộ luật hình sự

BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm

NNPQ
: Nhà nước pháp quyền

PLHS
: Pháp luật hình sự

THAHS
: Thi hành án hình sự

TAND
: Tòa án nhân dân

TTHS
: Tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân

VPPL

: Vi phạm pháp luật
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa









2
DANH MỤC CÁC BẢNG



Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Số lượng tội có quy định dấu hiệu động cơ trong CTTP theo
quy định của Bộ luật hình sự (năm 1999) và Luật sử đổi, bổ

sung một số điều của Bộ luật hình sự (năm 2009)

51
2.2
Phân loại số lượng tội có quy định dấu hiệu động cơ trong
CTTP

52
2.3
Số lượng tội có quy định dấu hiệu mục đích trong CTTP
theo quy định của Bộ luật hình sự (năm 1999) và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (năm 2009)

59
2.4
Phân loại số lượng tội có quy định dấu hiệu mục đích trong
CTTP

60
3.1
Số lượng tội danh có quy định dấu hiệu lỗi trong CTTP
80










3
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ



Số hiệu đồ thị
Tên đồ thị
Trang
2.1
Tỷ lệ phần trăm số tội có dấu hiệu động cơ được quy định
trong CTTP

51
2.2
Tỷ lệ phần trăm giữa các tội có quy định dấu hiệu động cơ
trong CTTP

52
2.3
Tỷ lệ phần trăm số tội có dấu hiệu mục đích được quy định
trong CTTP

59
2.4
Tỷ lệ phần trăm giữa các tội có quy định dấu hiệu mục đích
trong CTTP

60
3.1

Tỷ lệ số CTTP có hoặc không có quy định dấu hiệu lỗi
80



4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật hình sự là một trong những ngành luật ra đời sớm nhất trong hệ
thống pháp luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Ngay từ
khi Nhà nước ta mới được thành lập cho đến nay, luật hình sự vẫn luôn nhận
được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân bởi pháp luật hình sự là
một trong những công cụ quan trọng và hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người
ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để luật
hình sự ngày càng thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình, việc hoàn thiện Bộ
luật hình sự là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Bộ luật hình sự Việt Nam tuy đã có những bước phát triển cùng với sự
thay đổi của kinh tế - xã hội, sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đòi hỏi gắt gao
của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền nên không tránh khỏi
những bất cập, hạn chế, thiếu sót cần sớm được hoàn thiện. Một trong những
bất cập, hạn chế, thiếu sót đó chính là các quy định về mặt chủ quan của tội
phạm, mà cụ thể là còn thiếu quy định hoặc quy định chưa rõ về: khái niệm
lỗi, động cơ, mục đích phạm tội; khái niệm lỗi cố ý, vô ý; dấu hiệu lỗi trong
Bộ luật hình sự Điều này dẫn đến hiểu sai, hiểu không thống nhất về lỗi,
động cơ và mục đích phạm tội; áp dụng sai hoặc không thống nhất tội danh;

bỏ lọt tội phạm hoặc xử oan người vô tội v.v.
Xuất phát từ những lý do như đã nêu trên, tôi đã chọn đề tài “Mặt chủ
quan của tội phạm với tƣ cách là một yếu tố cấu thành tội phạm” với


5
mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam,
nhằm đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của thực tiễn.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là mặt chủ quan của tội phạm với tư cách là
một yếu tố cấu thành tội phạm.
- Phạm vi nghiên cứu là các quy định về mặt chủ quan của tội phạm
trong Bộ luật hình sự năm 1999 dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực
tiễn áp dụng ở Việt Nam, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra những điểm bất cập, chưa
hợp lý trong các quy định về mặt chủ quan của tội phạm, trên cơ sở đó đưa ra
những đề xuất thiết thực nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về
mặt chủ quan của tội phạm.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: 1) Đưa ra được khái niệm cấu thành tội phạm
và mặt chủ quan của tội phạm; khái niệm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội;
vị trí, vai trò, ý nghĩa của mặt chủ quan trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm,
trong việc định tội danh cũng như trong việc phân biệt tội phạm với vi phạm
pháp luật khác. 2) Làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định về lỗi, động cơ và
mục đích phạm tội; đặc biệt là chỉ ra được những bất cập, hạn chế, thiếu sót
trong các quy định về mặt chủ quan của tội phạm - nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến hiểu sai, hiểu không thống nhất về lỗi, động cơ và mục đích phạm tội; áp
dụng sai hoặc không thống nhất tội danh; bỏ lọt tội phạm hoặc xử oan người
vô tội 3) Đưa ra được những giải pháp sát đúng, khả thi nhằm hoàn thiện
các quy định về mặt chủ quan của tội phạm, mà cụ thể là các quy định về lỗi,

động cơ và mục đích phạm tội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận của Luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư


6
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt; những thành tựu của các
ngành khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Tội phạm học…
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng các phương pháp hệ thống, lịch sử,
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn … qua đó rút ra
những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định về mặt chủ
quan của tội phạm.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục và 3 chương:
Chương 1: Lý luận về mặt chủ quan của tội phạm.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về mặt chủ quan của tội
phạm.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định về mặt chủ quan của
tội phạm.













7
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM

1.1. KHÁI NIỆM CẤU THÀNH TỘI PHẠM VÀ MẶT CHỦ
QUAN CỦA TỘI PHẠM
1.1.1. Khái niệm cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là khái niệm được xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ
XVI ở Đức và sau này ngày càng được phát triển sâu rộng về cả mặt lý luận
và thực tiễn áp dụng vào pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Cấu thành
tội phạm được coi là khái niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả
khái quát loại tội phạm nhất định trong luật hình sự. Tuy vậy, hiện nay trong
khoa học luật hình sự vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này và
việc vận dụng khái niệm này vào trong pháp luật hình sự của mỗi quốc gia
cũng khác nhau. Trong quá trình hình thành và phát triển của quy phạm pháp
luật hình sự thực định của Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945
đến nay đến trước pháp điển hóa pháp luật hình sự lần thứ 2 năm 1999 trong
luật về mặt thuật ngữ “cấu thành tội phạm” đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều
89 Bộ luật TTHS năm 1988 và tại khoản 2 Điều 107 Bộ luật TTHS năm 2003
được coi là một trong bảy căn cứ mà nếu thiếu nó thì không được khởi tố vụ
án hình sự. Trong luật nội dung - luật hình sự thì thuật ngữ cấu thành tội
phạm với nội dung đầy đủ của nó chưa bao giờ được sử dụng trong pháp luật
hình sự đã và đang hiện hành của nước ta. Trong BLHS năm 1999 hiện hành
lần đầu tiên thuật ngữ “cấu thành tội phạm” được quy định tại Điều 19 BLHS
về tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm “…nếu hành vi thực tế đã thực hiện có
đủ yếu tố cấu thành của một tội khác…”.[22,334]



8
Cấu thành tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng của luật hình
sự và là vấn đề lý luận có ý nghĩa trong lập pháp và áp dụng pháp luật hình
sự. Về bản chất, tội phạm là hiện tượng xã hội có tính giai cấp, tính lịch sử,
được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật của hành
vi. Về mặt cấu trúc, tội phạm được hợp thành bởi những yếu tố nhất định tồn
tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia được trong tư duy. Những yếu
tố đó là mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, khách thể
của tội phạm và chủ thể của tội phạm. Bất cứ hành vi phạm tội nào, không
phụ thuộc vào mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội đều là một thể thống
nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan, giữa biểu hiện bên ngoài và biểu
hiện tâm lý bên trong, tất cả đều là hoạt động của con người cụ thể xâm hại
hoặc nhằm xâm hại quan hệ xã hội nhất định. Sự thống nhất của bốn yếu tố
này là hình thức cấu trúc thể hiện nội dung chính trị, xã hội của tội phạm. Nếu
về mặt nội dung chính trị - xã hội các hành vi phạm tội có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì về mặt hình thức cấu trúc bốn yếu tố cấu
thành tội phạm có những nội dung thể hiện khác nhau. Chính sự khác nhau
này quyết định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Hành
vi phạm tội của một loại tội phạm cụ thể trong mỗi trường hợp thực tế tuy có
những điểm khác nhau ở các yếu tố cấu thành tội phạm nhưng đều có những
nội dung biểu hiện gần giống nhau có tính đặc trưng và quyết định tính nguy
hiểm của loại tội phạm đó. Khái quát hóa những nội dung biểu hiện giống
nhau của bốn yếu tố của mỗi loại tội phạm qua các dấu hiệu đặc trưng để mô
tả tội phạm và sự mô tả này trong luật là phương thức quy định tội phạm
trong luật hình sự. Khái niệm cấu thành tội phạm trong luật hình sự được
dùng để chỉ sự mô tả này.
Cấu thành tội phạm là bộ phận của quy phạm pháp luật hình sự, trong
đó xác định nghĩa vụ không được làm hoặc nghĩa vụ phải làm một công việc



9
của công dân để không gây ra thiệt hại cho xã hội nói chung cũng như công
dân nói riêng. Quy phạm pháp luật hình sự còn có bộ phận khác là chế tài,
trong đó quy định khung hình phạt cho phép áp dụng đối với người thực hiện
hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm cũng không
đồng nhất với phần quy định của điều luật về tội phạm trong Phần riêng của Bộ
luật hình sự. Phần quy định của điều luật Phần riêng của BLHS chỉ là bộ phận
chính của cấu thành tội phạm. Bộ phận còn lại là nội dung được quy định
chung trong các điều luật Phần chung của BLHS. Ví dụ cấu thành tội phạm giết
người không chỉ bao gồm phần quy định của Điều 93 BLHS 1999 mà còn bao
gồm cả các quy định thuộc phần chung của BLHS về lỗi, về chủ thể, về độ
tuổi, …Như vậy, có sự khác nhau giữa điều luật với quy phạm pháp luật và cấu
thành tội phạm. Ba khái niệm này không đồng nhất với nhau nhưng có quan hệ
chặt chẽ và thống nhất với nhau. Với tính chất là khái niệm pháp lý về hình
thức cấu trúc và phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội của một loại tội phạm, cấu
thành tội phạm trong luật hình sự được coi là cơ sở pháp lý và sự thỏa mãn cấu
thành tội phạm là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự.
Việc xác định một người có tội hay không? và nếu phạm tội thì phạm
tội gì? chính là quá trình xác định hành vi của họ có thỏa mãn các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm hay không. Một hành vi khi đã thỏa mãn các dấu
hiệu của một cấu thành tội phạm thì có nghĩa về mặt nội dung có tính nguy
hiểm cho xã hội của loại tội phạm mà cấu thành tội phạm nó thỏa mãn phản
ánh và về mặt hình thức có tính trái pháp luật hình sự. Như vậy, có sự đồng
nhất giữa tính trái pháp luật hình sự và sự thỏa mãn cấu thành tội phạm. Có
cách hiểu khác cho rằng sự thỏa mãn cấu thành tội phạm không đồng nhất với
tính trái pháp luật hình sự của hành vi. Theo đó thỏa mãn các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm vẫn có thể không có tính trái pháp luật hình sự. Ví dụ:
Hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội giết người không có



10
tính trái pháp luật hình sự trong trường hợp thỏa mãn dấu hiệu của chế định
phòng vệ chính đáng, tình thể cấp thiết……[45,10]. Quy phạm pháp luật hình
sự là quy phạm cấm đoán, cấm công dân làm hoặc không làm một việc nhất
định. Ví dụ: Cấm giết người, cấm gây thương tích cho người khác, …; cấm
không tố giác tội phạm tức yêu cầu phải tố giác tội phạm. Về nguyên tắc công
dân không được phép có xử sự bị Pháp luật hình sự cấm, tuy nhiên trong
trường hợp nhất định họ vẫn có thể được luật hình sự cho phép thực hiện xử
sự bị cấm đó. Những trường hợp này được quy định trong chế định “các tình
tiết loại trừ tính trái pháp luật của hành vi” hay “các tình tiết loại trừ tính chất
phạm tội của hành vi”: Phòng vệ chính đáng, sự hiện bất ngờ, tình thế cấp
thiết, gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự nhưng chưa đủ tuổi chịu TNHS,
gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự,…Khi thỏa mãn tình tiết này thì việc thực hiện hành vi bị cấm
được coi là hợp pháp. Tình tiết này có thể được gọi ngắn gọn là “có căn cứ
hợp pháp” hay “tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”. Việc hành vi
thỏa mãn cấu thành tội phạm không thuộc trường hợp “có căn cứ hợp pháp”
hay “có tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” cũng có nghĩa hành
vi có tính trái pháp luật hình sự, tức là trong cấu thành tội phạm có dấu hiệu
này thì hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm vẫn không trái pháp luật hình
sự.[45,11]
Từ phân tích trên đây, ta có thể đưa ra khái niệm về cấu thành tội phạm
như sau: Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý có tính chất
đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình
sự[76,66].
1.1.2. Khái niệm mặt chủ quan của tội phạm
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội, các quan hệ xã hội của con người được biểu



11
hiện thông qua hành vi. Hành vi của con người bao giờ cũng là sự thống nhất
giữa những biểu hiện cụ thể bên ngoài thế giới khách quan và những nội dung
tâm lý bên trong. Tội phạm cũng được biểu hiện bởi hành vi, do đó nó cũng là
sự thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những
biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là những hoạt động tâm lý
bên trong của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại một
cách độc lập mà luôn luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Hoạt
động tâm lý bên trong của tội phạm luôn gắn liền với các biểu hiện bên ngoài
của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là tội phạm nếu
hành vi đó được thực hiện trong một thái độ tâm lý nhất định của con người
đối với hành vi đó và hậu quả do hành vi đó gây ra hay đối với khả năng phát
sinh hậu quả từ hành vi đó. Do vậy, nếu thiếu mặt chủ quan của tội phạm
hành vi sẽ không cấu thành tội phạm. Hành vi vi phạm pháp luật dù được thể
hiện gây ra thiệt hại nhưng không có sự thống nhất với mặt chủ quan của
người gây thiệt hại sẽ không phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý nói chung và
trách nhiệm hình sự nói riêng.
Con người tồn tại trong thế giới bị chi phối bởi những quy luật khách
quan và hoạt động của con người bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử xã
hội cụ thể. Tất cả những động cơ thúc đẩy con người hành động không phải
bộc phát một cách ngẫu nhiên trong ý thức của con người mà được hình thành
một cách có quy luật, đó chính là sự giao tiếp giữa con người với nhau, sự
phát triển tâm lý của con người, sự phản ánh những sự vật hiện tượng tác
động trực tiếp đến con người. Thông qua hoạt động tâm lý, con người hoạt
động có ý thức từ đó quyết định sự hình thành và phát triển xã hội. Xử sự của
con người có tính quy luật nhưng không phải mang tính tuyệt đối. Sống trong
cùng một xã hội, cùng điều kiện nhưng có người vi phạm các chuẩn mực xã
hội, có người thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với xã hội, có người



12
phạm tội, có người không phạm tội, có người phạm tội một lần, có người
phạm tội nhiều lần. Hoạt động của con người bị chi phối bởi các quy luật
khách quan nhưng nhờ hoạt động ý thức con người đã nhận thức và vận dụng
các quy luật đó vào việc thực hiện các mục đích của mình. Đó chính là sự tự
do ý chí, tuy nhiên sự tự do ý chí của con người không phải là sự suy nghĩ
tuyệt đối độc lập mà nó bị chi phối bởi các quy luật, tự do ý chí là năng lực
quyết định của một người khi nhận thức được nó. Hê-ghen nói “Tự do là nhận
thức được cái tất yếu, tất yếu sẽ mù quáng khi con người chưa nhận thức
được nó”. Hoạt động của con người không phải là kết quả tác động trực tiếp
của các điều kiện lịch sử mà chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động tâm lý
bên trong con người. Con người có sự tự do của mình tức là có quyền lựa
chọn một xử sự phù hợp với các quy luật, đó là sự tự do thực sự. Ngược lại,
con người sẽ bị tước bỏ sự tự do tương đối trong khuôn khổ các điều kiện lịch
sử, xã hội cụ thể và phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội. Mỗi cá nhân
trong xã hội dựa trên cơ sở sự tự do của mình phải đáp ứng những đòi hỏi có
tính quy luật của xã hội đó là pháp luật và đạo đức xã hội, đó là trách nhiệm
của cá nhân trong xã hội, phù hợp với sự tự do của cá nhân nhằm đảm bảo tôn
trọng sự tự do của cá nhân khác. Như vậy, con người có khả năng nhận thức
và vận dụng tốt các quy luật của xã hội để giành lấy tự do cá nhân. Đôi khi
con người nhận thức những quy luật đó nhưng không phải họ vận dụng nó để
thực hiện một hành vi phù hợp với tự do của người khác mà họ lại hành động
sai với quy luật. Do đó, ý chí cá nhân muốn tước bỏ tự do của người khác và
hậu quả cũng tự tước bỏ tự do của mình (pháp luật buộc họ phải chịu trách
nhiệm về hành vi đó của họ).
Pháp luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan
(truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi
nguy hiểm cho xã hội không kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý



13
của người thực hiện hành vị đó ra sao). Hoạt động định tội phải là sự kết hợp
giữa mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện và thái độ bên trong
của người thực hiện hành vi. Mặt chủ quan của tội phạm được biểu hiện thông
qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Trong đó yếu tố
lỗi được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm và là dấu hiệu không
thể thiếu của bất cứ cấu thành tội phạm nào. Động cơ phạm tội và mục đích
phạm tội chỉ được phản ánh trong một số cấu thành tội phạm cơ bản là dấu
hiệu bắt buộc và được quy định là tình tiết định khung ở một số cấu thành tội
phạm.
Từ các phân tích trên đây ta có thể đưa ra khái niệm mặt chủ quan của
tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại đáng kể đến khách thể được luật
hình sự bảo vệ bằng PLHS.[22,344]
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra và được thể hiện dưới
hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý.[76,128]
Động cơ phạm tội là động lực (nhân tố) bên trong thúc đẩy người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý.[76,144]
Mục đích phạm tội là cái mốc (kết quả cuối cùng) mà người phạm tội
muốn đạt được khi thực hiện tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của cấu thành tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm giúp phân biệt hành vi phạm tội với hành vi
không phải là tội phạm. Ví dụ một người thực hiện một hành vi nguy hiểm
cho xã hội nhưng người thực hiện hành vi đó không có lỗi thì hành vi đó cũng
không bị coi là tội phạm.


14

Mặt chủ quan của tội phạm là dấu hiệu để phân biệt các cấu thành tội
phạm có mặt khách quan giống nhau. Ví dụ: một người thực hiện hành vi
tước đoạt tính mạng của người khác một cách cố ý thì cấu thành tội phạm của
tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự), nếu là vô ý thì có thể là tội vô ý làm
chết người (Điều 98 Bộ luật hình sự) hoặc cố ý gây thương tích (Điều 104 Bộ
luật hình sự) tùy thuộc vào biểu hiện cụ thể.
Nội dung của mặt chủ quan của tội phạm ở mức độ nào đó giúp xác
định tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến trách
nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội.
1.2. CÁC DẤU HIỆU THUỘC MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI
PHẠM
1.2.1. Dấu hiệu lỗi
a. Khái niệm lỗi
Lỗi là một khái niệm được biết đến và được sử dụng rất nhiều trong
khoa học luật Hình sự. Lý luận về lỗi được xác định trên những cơ sở lý luận
khác nhau nên đã có các quản điểm khac nhau:
Theo khái niệm lỗi về mặt thần học trong khoa học luật hình sự Đức
ngay từ năm 70 của thế kỷ XVII, thì người đã thực hiện tội phạm có dự mưu
phải chịu trách nhiệm về tội ác của mình
Thế kỷ XVII ở Tây Âu mà tiêu biểu là nhà luật học nổi tiếng người
Italia Tr.Beccaria đã nêu lên quan điểm pháp lý hình sự có liên quan ở một
mức độ nhất định đến cơ sở phương pháp luận của lỗi là:
- TNHS và hình phạt không thể gắn liền với sự khái niệm lỗi về mặt đạo
đức và không thể thước đo duy nhất và đích thực của tội phạm là sự thiệt hại;


15
- Hình phạt cần được áp dụng chỉ khi nào có sự cần thiết tuyệt đối chứ
không phải là sự chịu trách nhiệm vì lỗi.[22,419]
Theo quan điểm triết học duy tâm chủ quan của nhà triết học người

Đức Kant I. thì: Tự do ý chí là ở chỗ - trong tất cả các hành vi của chủ thể
chính nó là pháp luật và sự buộc tội về hình sự là một dạng của trách nhiệm
đạo đức, mà cơ sở của nó là coi chủ thể là nguyên nhân tự do của một hành vi
được thực hiện.
Theo quan điểm chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen thì: Sự hiện
diện của lý trí và ý chí chính là điều kiện chung của sự buộc tội và lỗi là ở trong
sự khẳng định rằng, chủ thể là người biết suy nghĩ đã nhận thức và đã mong
muốn hành vi đó được thực hiện cũng như mong muốn hậu quả đó xảy ra
Theo quan điểm của trường phái cổ điển trong khoa học luật hình sự thì
lỗi và trách nhiệm hoàn toàn dựa trên ý chí tự do tuyệt đối của con người, mà
người này trong những điều kiện hoàn toàn như nhau có thể lựa chọn bất kỳ
quyết định nào không trái với mình. Đặc biệt Bernher A nhà hình sự học
người Đức đã coi cơ sở của việc buộc tội về hình sự là ý chí hoặc tự do của
con người, được thể hiện trong sự hành động tuỳ tiện của cá nhân và phù hợp
với động cơ, quyết định và ý định bên trong của người đó. Còn nhà hình sự
học người Đức Phơbách trong thời kì đầu đã coi lỗi là sự buộc tội không phụ
thuộc vào tự do ý chí, nhưng sau đó đã thay đổi quan điểm và thừa nhân tự do
ý chí là điều kiện của sự bắt buộc tội do lỗi.[22,420]
Trường phái xã hội học trong khoa học luật hình sự đưa ra nguyên tắc
về sự hợp lý của việc áp dụng các biện pháp tự vệ xã hội để thay thế cho
nguyên tắc buộc tội chủ quan cho rằng: Lỗi của chủ thể được coi là tình trạng
nguy hiểm của người đó và ba phạm trù: lỗi, tình trạng năng lực, và tình trạng


16
không có năng lực chính là các tiêu chí đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội
của một hành vi
Cho đến nay trong khoa học luật hình sự về cơ bản tồn tại ba trường
phái lý luận chủ yếu về lỗi sau đây:
Lý luận về tình trạng nguy hiểm - khi lỗi của người phạm tội được hiểu

là tính nguy hiểm của nhân thân người đó, còn hành vi thì lại được coi là sự
biểu hiện của chính tình trạng nguy hiểm ấy (các tác giả theo trường phái xã
hội học).[22,421]
Lý luận về đánh giá lỗi - khi lỗi của chủ thể được xác định bằng sự
phán xét có tính chất đánh giá của riêng Toà án mà không cần tính đến thái độ
tâm lý của người đó khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm (các nhà hình sự học nổi tiếng của Liên Xô cũ như: Đurmanôv N.Đ.,
Gertxenzon A.A.,, v.v…).
Lý luận lỗi về mặt tâm lý - khi lỗi của một người được hiểu là thái độ
tâm lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó thực hiện và hậu
quả do hành vi đó gây nên (đại đa số các nhà hình sự học của Liên Xô cũ như:
Vlađimirôv V.A., Nhikiforov A.X, Kritrenko V.F., v.v…, cũng như của Liên
bang Nga hiện nay).[22,419,420,421]
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam vẫn còn các quan điểm khác
nhau coi lỗi là:
- Thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưói hình thức cố ý
hoặc vô ý.


17
- Dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm phản ánh chủ thể có đủ
điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội khi
quyết định thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
Theo quan điểm của GS.TSKH. Lê Cảm thì “Lỗi hình sự là mặt chủ
quan của tội phạm và là một trong những điều kiện bắt buộc của TNHS, đồng
thời là thái độ tâm lý của người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm mà người đó thực hiện
và hậu quả do hành vi ấy gây nên dưói hình thức cố ý hoặc vô ý”.[22,422]
Bản chất xã hội - pháp lý của lỗi hình sự. Việc phân tích khái niệm

khoa học của khái niệm lỗi hình sự đã được nêu trên và thực tiễn áp dụng các
quy phạm PLHS có liên quan đến chế định lỗi cho phép chỉ ra bản chất xã hội
- pháp lý của nó nêu trên các bình diện chủ yếu duới đây.
- Đạo luật hình sự trong NNPQ không bao giờ ràng buộc TNHS với bất
kỳ thái độ tâm lý nào của con người đối với hành vi do người đó thực hiện và
đối với các hậu quả do hành vi ấy gây nên, mà chỉ với thái độ tâm lý nhất định
- dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
- Hai hình thức đã nêu của thái độ tâm lý phản ánh cách xử sự trái xã
hội trong các tội cố ý hoặc thiếu thận trọng trong các tội do vô ý của chính
người phạm tội đối với các giá trị xã hội - các lợi ích của con người, của xã
hội và của Nhà nước được bảo vệ bằng PLHS.
Xuất phát từ bản chất xã hội - pháp lý và nội dung của khái niệm lỗi
hình sự chúng ta có thể khẳng định rằng, một người bị coi là có lỗi trong tội
phạm (và phải chịu TNHS) chỉ khi nào có tổng hợp đầy đủ năm dấu hiệu của
một chủ thể của tội phạm (tương ứng với năm điều kiện của TNHS), tức là
người đó phải: Có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS, cố ý hoặc vô ý thực


18
hiện một hành vi, hành vi ấy phải nguy hiểm cho xã hội và phải bị luật hình
sự cấm - bị BLHS coi là tội phạm.[22,424]
Từ tất cả sự phân tích trên đây, có thể khẳng định: Chỉ người nào có lỗi
trong tội phạm mới có thể bị Toà án coi là người có tội và phải chịu biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước về mặt pháp lý hình sự do PLHS quy định.
Từ phân tích trên đây ta có thể đưa ra khái niệm về lỗi như sau: Lỗi là
thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra và được thể hiện
dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý.
Trong luật hình sự Việt Nam nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản, một
người phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ đơn thuần vì họ có hành vi

khách quan đã gây ra thiệt hại cho xã hội mà còn vì họ có lỗi trong việc thực
hiện hành vi khách quan đó. Một người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ
bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự lựa chọn và quyết định của
chủ thể trong khi chủ thể có điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn
hoặc quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Việc thừa
nhận nguyên tắc lỗi trong luật hình sự Việt Nam chính là sự thừa nhận và tôn
trọng tự do ý chí của con người. Đó là cơ sở đảm bảo cho trách nhiệm hình sự
được khách quan và thực hiện được mục đích của việc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Chúng ta chỉ có thể đạt được mục đích cải tạo, giáo dục người phạm
tội, giúp họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật,
ngăn ngừa họ phạm tội mới nếu việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội trên cơ sở lỗi của họ trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Theo quy định của pháp luật hình sự, một hành vi bị xem là có tính có
lỗi khi có đủ hai điều kiện sau: Hành vi trái pháp luật hình sự và hành vi đó là


19
kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của người thực hiện hành vi trong
khi có khả năng và điều kiện để lựa chon và quyết định xử sự khác không trái
pháp luật hình sự. Ví dụ: A bị B ép phải uống hết chai rượu mạnh và khi uống
hết chai rượu đó A không còn kiểm soát được hành vi của mình nên đã thực
hiện hành vi giao cấu với em C (12 tuổi), như vậy trong trường hợp này A
không có lỗi vì đã bị B ép buộc và không có sự lựa chọn khác. Nếu trong
trường hợp này A tự uống rượu say và thực hiện hành vi trên thì A là người
có lỗi và phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị xem là có lỗi khi
họ có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ thực hiện hành vi đó. Tức là khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người này không mắc bệnh tâm thần
hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và đạt độ

tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự
hiện hành.
b. Các hình thức lỗi và các dạng lỗi trong luật hình sự
Nội dung cơ bản của lỗi được hợp thành bởi hai yếu tố cơ bản là lý trí
và ý chí. Sự kết hợp giữa lý trí và ý chí tạo nên hình thức lỗi khác nhau. Một
người phạm tội với lỗi cố ý thể hiện sự chống đối xã hội cao hơn trường hợp
lỗi vô ý và do đó hình phạt áp dụng đối với họ sẽ nghiêm khắc hơn. Không
thể buộc hai người cùng phạm một loại tội nhưng mức độ lỗi khác nhau phải
chịu chung một hình phạt. Điều này sẽ dẫn đến sự không công bằng và mục
đích của hình phạt sẽ không đạt được.
Các hình thức lỗi được thừa nhận chung của luật hình sự Việt Nam bao
gồm hai hình thức lỗi - cố ý và vô ý. Ngoài hai hình thức lỗi này ra không thể
có hình thức lỗi thứ ba nào khác, còn nếu có chăng thì đó chỉ có thể coi là
trường hợp lỗi hỗn hợp (Hai hình thức lỗi tồn tại trong một CTTP) , tức là khi


20
một tội phạm được chủ thể thực hiện với hai hình thức lỗi: 1) Lỗi cố ý đối với
hành vi (được quy định trong CTTP cơ bản) và; 2) Lỗi vô ý đối với hậu quả
nghiêm trọng được quy định trong CTTP tăng nặng do hành vi đó gây ra.
* Căn cứ cơ sở 3 căn cứ dưới đây hình thức lỗi được phân chia thành
sáu dạng như sau: [22,425]
- Căn cứ vào các yếu tố lý trí và ý chí của sự cố ý, hình thức lỗi này
được PLHS thực định phân chia thành hai dạng: Cố ý trực tiếp và cố ý gián
tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp là dạng nguy hiểm hơn lỗi cố ý gián tiếp vì chủ thể
thấy trước khả năng gây nên hoặc tính tất yếu gây nên (xảy ra) hậu quả của
hành vi do mình thực hiện.
Trong lỗi cố ý gián tiếp thì chủ thể tỏ ra bàng quan (thờ ơ) đối với hậu
quả xảy ra.

Mặc dù không ghi nhận rõ và riêng biệt các thuật ngữ “cố ý trực tiếp”
và “cố ý gián tiếp” trong BLHS tuy nhiên nội dung của hai dạng lỗi này cũng
đã được ghi nhận tại Điều 9 BLHS năm 1999. Trong hình thức lỗi cố ý dấu
hiệu bắt buộc chung về mặt lý trí của cả hai dạng cố ý trực tiếp và cố ý gián
tiếp đó là đều thấy trước khả năng xảy ra hậu quả của hành vi. Về mặt ý chí ở
lỗi cố ý trực tiếp thì người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra, ở lỗi cố ý
gián tiếp người phạm tội có thái độ bàng quan (dửng dưng) đối với hậu quả
phạm tội xảy ra.
- Căn cứ vào thời điểm xuất hiện và hình thành sự cố ý, hình thức lỗi
này được khoa học luật hình sự phân chia thành hai dạng: Cố ý có dự mưu và
cố ý đột xuất


21
Cố ý có dự mưu là trường hợp chủ thể có sự tính toán cụ thể, suy ngẫm
kỹ càng và cân nhắc thận trọng trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
Cố ý đột xuất thì ngược lại với dạng cố ý dự mưu, tức là khi ý định
phạm tội vừa mới xuất hiện mà chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội (chứ
chưa hề có sự tính toán cụ thể, suy ngẫm kỹ càng và cân nhắc thận trọng trước
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội).
- Căn cứ vào mức độ cụ thể của sự nhận thức (hình dung) được hậu quả
nguy hại do hành vi của chủ thể sẽ xảy ra, hình thức lỗi này được khoa học
luật hình sự chia thành hai dạng: Cố ý xác định và cố ý không xác định
Cố ý xác định là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi phạm tội mà
hình dung được một cách tương đối chắc chắn, rõ ràng và cụ thể hậu quả nguy
hại sẽ xảy ra;
Cố ý không xác định là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi phạm tội
tuy thấy trước (nhưng chưa hình dung được) một cách tương đối chắc chắn, rõ
ràng và cụ thể hậu quả nguy hại sẽ xảy ra.
* Hình thức lỗi vô ý được phân chia thành hai dạng là: vô ý vì quá tự

tin (chủ quan) và vô ý do cẩu thả.
Đối với lỗi vô ý vì quá tự tin thì về mặt lý trí người phạm tội cũng nhận
thức được khả năng sẽ xảy ra hậu quả nhưng về mặt ý chí thì người phạm tội
bao giờ cũng cho rằng ngăn ngừa được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù
không có đủ cơ sở mà quá tự tin vào việc ngăn ngừa đó.
Đối với lỗi vô ý do cẩu thả thì về mặt lý trí người phạm tội không thấy
trước được khả năng sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, về mặt ý chí và
về mặt ý chí người phạm tội cũng không mong muốn hậu quả xảy ra tuy


22
nhiên pháp luật buộc họ trong trường hợp đó phải thấy trước hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội.
Mặc dù không ghi nhận rõ và riêng biệt các thuật ngữ “vô ý vì quá tự
tin” và “vô ý do cẩu thả” trong BLHS tuy nhiên nội dung của hai dạng lỗi này
cũng đã được ghi nhận tại Điều 10 BLHS năm 1999.
* Trường hợp lỗi phức tạp hay lỗi hỗn hợp (tức là trong cùng một
CTTP có hai hình thức lỗi cùng tồn tại song song - lỗi cố ý đối với hành vi và
lỗi vô ý đối với hậu quả nghiệm trọng hơn do với hành vi đó gây nên). Trong
lần pháp điển hoá thứ hai luật hình sự Việt Nam 1999, trường hợp lỗi phức
tạp (cũng như trong BLHS năm 1985 trước đây) vẫn chưa được điều chỉnh
chính thức về mặt lập pháp bằng các quy phạm nào đó trong Phần chung
BLHS năm 1999. Tuy nhiên, nếu như so sánh những trường hợp lỗi phức tạp
do hậu quả xảy ra nghiêm trọng hơn so với hậu quả tại CTTP cơ bản, mà mặc
dù hình thức lỗi đối với hậu quả nghiêm trọng ấy (dẫn đến cái chết của một
hoặc nhiều người) rõ ràng là do vô ý, nhưng cũng như trong lần pháp điển hoá
lần thứ nhất trước đây - hình thức lỗi này vẫn chưa được nhà làm luật quy
định với tính chất là dấu hiệu bắt buộc của các CTTP tăng nặng (hoặc CTTP
đặc biệt tăng nặng tương ứng), mặc dù số lượng những trường hợp này trong
PLHS sau lần pháp điển hoá thứ hai có sự tăng lên so với PLHS đã hiện hành

trước đây - 12 trường hợp trong Phần các tội phạm BLHS năm 1985 so với 15
trường hợp trong Phần các tội phạm BLHS năm 1999.
Theo quan điểm của ThS. Lô Văn Lý - Khoa luật hình sự trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì “không có sự tồn tại của hình thức hỗn
hợp lỗi mà là trường hợp các hình thức lỗi cố ý và vô ý cùng tồn tại độc lập
với nhau trong cùng một loại tội phạm. Sự tồn tại độc lập của hai hình thức lỗi
trong cùng một loại tội phạm chỉ có thể có ở những loại tội phạm có hình thức

×