Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 103 trang )


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ NGỌC DUY






MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ NGỌC DUY






MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng


HÀ NỘI - 2012



4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI
7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định trách nhiệm hình
sự và miễn trách nhiệm hình sự
7
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm của chế định trách nhiệm hình sự
7
1.1.2.
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định miễn trách nhiệm
hình sự
11
1.2.
Khái niệm người chưa thành niên phạm tội và chính sách hình
sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội
19
1.2.1.
Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
19
1.2.2.
Chính sách hình sự của nhà nước ta đối với người chưa thành
niên phạm tội

21
1.3.
Khái niệm, đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội
23
1.3.1.
Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội
23
1.3.2.
Đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa
23

5
thành niên phạm tội
1.4.
Khái quát lịch sử các quy phạm pháp luật về miễn trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong pháp
luật hình sự Việt Nam trước khi có Bộ luật Hình sự năm 1999
25
1.4.1.
Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến pháp điển
hóa lần thứ nhất - Bộ luật Hình sự Việt Nam 1985
25
1.4.2.
Giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa lần thứ nhất (Bộ luật Hình
sự Việt Nam năm 1985) đến khi pháp điển hóa lần thứ hai
(Bộ luật Hình sự 1999)
28
1.5.

Khái quát các quy phạm pháp luật về miễn trách nhiệm hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới
29
1.5.1.
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga
29
1.5.2.
Bộ luật Hình sự Tây Ban Nha năm 1995
31
1.5.3.
Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
32

Chương 2: CÁC TRƯỜNG HỢP VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ MIỄN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG CẢ NƯỚC GIAI
ĐOẠN TỪ NĂM 2004 ĐẾN NĂM 2010
33
2.1.
Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người đối
với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự
Việt Nam hiện hành
33
2.1.1
Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự áp dụng đối với
mọi trường hợp phạm tội nói chung trong đó có miễn trách

nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên trong Bộ luật
Hình sự hiện hành
33

6
2.1.2
Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự áp dụng riêng đối với
người chưa thành niên phạm tội
54
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định về miễn trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội từ năm 2004 đến
năm 2010
60
2.2.1.
Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện
60
2.2.2.
Thực trạng việc áp dụng biện pháp miễn trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội
66

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI
75
3.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội
75
3.2.
Đẩy mạnh công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc
áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về miễn trách
nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
83
3.3.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp trong
công tác giải quyết các vụ án đối với người chưa thành niên
phạm tội, trong đó có việc áp dụng các biện pháp miễn trách
nhiệm hình sự
84
3.4.
Tăng cường vai trò của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
gia đình, nhà trường trong việc giám sát, giáo dục người chưa
thành niên phạm tội khi họ được miễn trách nhiệm hình sự
87
3.5.
Nghiên cứu thành lập tòa án chuyên xét xử các vụ án có
người chưa thành niên phạm tội
91

7

KẾT LUẬN
102


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103


8



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
NCTN
: Người chưa thành niên
PLHS
: Phát luật hình sự
TNHS
: Trách nhiệm hình sự


9

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang

2.1
Số liệu NCTN bị khởi tố giai đoạn 2004 - 2010
61
2.2
Cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện giai đoạn 2004 - 2010
63
2.3
Các bị can là NCTN được đình chỉ do miễn TNHS ở các
loại tội giai đoạn 2004 - 2010
69
2.4
Thống kê số bị can được miễn TNHS giai đoạn 2004 - 2010
70



10
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thanh thiếu niên là hạnh phúc của mỗi gia đình, là thế hệ tương lai
của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, có vai trò xung
kích quan trọng trong các cuộc cách mạng của dân tộc ta. Chính vì thế, vấn đề
chăm sóc, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ và đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn
người chưa thành niên (NCTN) có hành vi vi phạm pháp luật từ lâu đã được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ,
thông qua hoạt động của nhiều cấp ngành nhằm giáo dục, ngăn chặn và hạn
chế tình trạng NCTN phạm tội và luôn có sự quan tâm đặc biệt đến việc
hoạch định chính sách hình sự. Pháp luật hình sự (PLHS) nước ta thể hiện

chính sách nhân đạo đối với NCTN phạm tội. Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999
đã kế thừa và phát triển BLHS 1985, là bước phát triển mới trong việc giải
quyết vấn đề miễn trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội. Nhiều quy
phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với NCTN phạm tội
đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ
quan áp dụng pháp luật đấu tranh và phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Tuy
nhiên, một số quy định vẫn còn bất cập, công tác giải thích, hướng dẫn áp
dụng PLHS trong thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức nên một số
quy phạm pháp luật của chế định miễn TNHS còn có nhận thức không đúng,
gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn. Thời gian
qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến chế
định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội. Nhưng cho đến nay, một số nội
dung của chế định này còn có những quan điểm khác nhau và chưa thống
nhất. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập cũng với sự phát triển trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nhiều vấn đề của luật hình sự, trong đó

11
có chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội cũng luôn vận động và phát
triển đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chế định miễn TNHS đối với
NCTN phạm tội, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện
BLHS hiện hành và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng PLHS
là việc làm cần thiết, không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà
còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
hiện nay ở Việt Nam. Với những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài: "Miễn
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình
sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Miễn TNHS đối với NCTN phạm tội là một trong những vấn đề cơ

bản và cần thiết, khá phức tạp của luật hình sự nên được các nhà nghiên cứu
luật hình sự quan tâm và nghiên cứu. Ở nước ta, cho đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan đến chế định miễn TNHS nói
chung, miễn TNHS đối với NCTN phạm tội nói riêng. Đáng chú ý là những
công trình sau:
- Lê Cảm, Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2001.
- Lê Cảm, Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngoài Điều 25)
trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2001.
- Lê Cảm, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự,
(Tập III), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.
- Lê Cảm, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam, trong sách: "Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI",
Tập thể tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.

12
- Nguyễn Ngọc Chí, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Luật
hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học (KHXH), số 4/1997.
- Thái Quế Dung, Những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự
theo Điều 48 Bộ luật Hình sự, Tạp chí Kiểm sát, Chuyên đề về BLHS, số 4/1999.
- Phạm Hồng Hải, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
Hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2001.
- Phạm Mạnh Hùng, Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 2/1993.
- Phạm Mạnh Hùng, Chế định trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
- Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999
(Phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.
- Võ Khánh Vinh, Chương XVIII - Miễn trách nhiệm hình sự, trong
sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung)", Tập thể tác giả do

PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Giáo dục, 2001.
- Trịnh Tiến Việt, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách
nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2008.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra và giải quyết nhiều
vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng PLHS đặt ra. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện
các khía cạnh, chuyên sâu ở mức độ luận văn thạc sĩ luật học về miễn TNHS
đối với NCTN phạm tội
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý
luận nội dung cơ bản của những quy định về miễn TNHS đối với NCTN

13
phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, xác định những bất cập để đề xuất
những giải pháp cụ thể, góp phần tiếp tục hoàn thiện những quy định này
trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn cũng nhằm giải quyết một số vướng
mắc trong việc áp dụng các quy phạm của chế định miễn TNHS đối với
NCTN phạm tội góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng và tội phạm nói chung ở nước
ta hiện nay.
- Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu như đã đề cập ở trên, luận văn tập trung vào
việc giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của chế định này
trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, đồng thời so sánh chế định miễn
TNHS đối với NCTN phạm tội theo luật hình sự Việt Nam với chế định này
của một số nước trên thế giới, từ đó làm sáng tỏ bản chất pháp lý của những
quy định về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội theo luật hình sự Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm pháp luật

của chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội trong thực tiễn áp dụng
PLHS nước ta. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu thống kê trên
thực tế, những thiếu sót, khuyết điểm và những vướng mắc của việc áp dụng
PLHS liên quan đến chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội tác giả đề
xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần tạo sự nhận thức và áp dụng pháp
luật được thống nhất.
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội
theo luật hình sự Việt Nam. Cụ thể nghiên cứu các vấn đề như: Khái niệm
NCTN phạm tội; khái niệm, đặc điểm miễn TNHS đối với NCTN phạm tội.
Luận văn cũng đi vào đánh giá, nhận xét số liệu từ thực tiễn việc áp dụng

14
PLHS về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội. Từ đó đưa ra các giải pháp
hoàn thiện PLHS và nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định PLHS về
miễn TNHS đối với NCTN phạm tội.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội
theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của luật hình sự và nghiên cứu thực
tiễn áp dụng các quy định của PLHS về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội
trên địa bàn cả nước trong thời gian từ 2004 - 2010.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về Nhà nước và pháp
luật. Luận văn được trình bày trên cơ sở nghiên cứu các văn bản PLHS, tố
tụng hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, các văn bản pháp lý khác, những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp hệ

thống, lịch sử, lôgic, phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp để chọn lọc kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là luận văn thạc sỹ luật học đầu tiên trong khoa học luật hình sự
đề cập đến việc nghiên cứu một cách có hệ thống chế định miễn TNHS đối
với NCTN phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, luận văn đã có một số đóng
góp sau:
- Phân tích một cách có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản
của chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội như: Khái niệm NCTN
phạm tội, khái niệm miễn trách nhiệm đối với NCTN phạm tội theo luật hình

15
sự Việt Nam, những quy định của PLHS một số nước trên thế giới về miễn
TNHS đối với NCTN phạm tội.Với việc phân tích lý giải, luận văn góp phần
xác định cơ sở khoa học cho việc nhận thức chế định này được thống nhất.
- Luận văn nghiên cứu khái quát việc áp dụng các quy định PLHS về
miễn TNHS đối với NCTN phạm tội trong hoạt động thực tiễn ở nước ta, phân
tích một số điểm chưa phù hợp của BLHS và một số vướng mắc trong quá
trình áp dụng PLHS liên quan đến việc giải quyết vấn đề miễn TNHS đối với
NCTN phạm tội. Từ đó, luận văn cũng đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm góp
phần giải thích, hướng dẫn áp dụng PLHS được thống nhất, nhằm đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về miễn trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Chương 2: Các trường hợp về miễn trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực
tiễn áp dụng các quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa

thành niên phạm tội trong cả nước giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2010.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội.

16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ VÀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chế định trách nhiệm hình sự
a. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trong khoa học luật hình sự từ trước đến nay, xung quanh vấn đề khái
niệm TNHS giữa các nhà hình sự học vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau
dưới đây:
- Trong khoa học luật hình sự của Liên Xô trước đây và Liên bang
Nga hiện nay có một số quan điểm chính về TNHS như sau:
+ "Trách nhiệm hình sự là một giai đoạn nhất định của việc thực hiện
các quyền và các nghĩa vụ bởi các chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự khi
mà người phạm tội bị cưỡng chế đối với việc phải những sự tước bỏ nhất
định" [Dẫn theo 7, tr. 605].
+ "Trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ của người phạm tội phải chịu các
biện pháp cưỡng chế Nhà nước" [Dẫn theo 7, tr. 606].
+ "Trách nhiệm hình sự là tác động có tính chất cưỡng chế - Nhà nước
do quy phạm pháp luật hình sự quy định và được áp dụng đối với người phạm
tội bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án" [Dẫn theo 7, tr. 607].
+ "Trách nhiệm hình sự là hậu quả bất lợi do luật quy định đối với
người phạm tội được tuyên bằng bản án của Tòa án đối với người phạm tội,

được thể hiện chính trong việc kết án hoặc kết án có kèm theo hình phạt và án
tích" [Dẫn theo 7, tr. 607]

17
- Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay có bốn quan
điểm chủ yếu về TNHS như sau:
+ GS.TSKH Đào Trí Úc: "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của
việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình trước nhà nước" [35, tr. 41].
+ GS. TS Đỗ Ngọc Quang: “Trách nhiệm hình sự là một dạng trách
nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa
án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà ng-
ười đó đã thực hiện”[22, tr. 14].
+ GS. TSKH Lê Cảm: "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của
việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người
phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự
quy định" [1, tr. 122].
+ GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị Sơn: “Trách nhiệm
hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự
tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện
pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và
chịu mang án tích [13, tr. 126].
Như vậy, từ các quan điểm khác nhau, trên cơ sở phân tích khoa học
khái niệm TNHS, chúng tôi đưa ra khái niệm TNHS như sau: TNHS là hậu
quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự
quy định là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa án
nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự
theo một trình tự tố tụng riêng [7, tr. 610]

b. Các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự

18
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khoa học về khái niệm TNHS,
đồng thời căn cứ vào các quy phạm PLHS Việt Nam liên quan đến việc giải
quyết vấn đề TNHS và thực tiễn áp dụng các quy phạm ấy, chúng ta có thể rút
ra được các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sau đây:
- Đặc điểm thứ nhất: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc
thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm.
Trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng đối với người thực hiện
hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm, nghĩa là việc thực hiện hành vi thỏa
mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự.
Như vậy, không có việc thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm thì
không thể có trách nhiệm hình sự
- Đặc điểm thứ hai: Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của cá nhân
người phạm tội.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, pháp luật hình sự nước ta mới chỉ
thừa nhận trách nhiệm hình sự của cá nhân mà chưa coi pháp nhân là chủ thể
của tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Đặc điểm thứ ba: Trách nhiệm hình sự được thể hiện ở bản án kết
tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật và một số biện pháp cưỡng chế hình sự
khác do luật hình sự quy định.
Trách nhiệm hình sự thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước (thông qua các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền) và người phạm tội. Nếu không có bản án kết tội
của Tòa án thì không thể nói đến trách nhiệm hình sự đối với một người. Điều
72 Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã khẳng định một trong những nguyên tắc
quan trọng nhằm bảo vệ các quyền của con người trong hoạt động tư pháp hình
sự - nguyên tắc suy đoán vô tội, với nội dung như sau: "Không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp


19
luật". Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tương tự tại Điều 9 Bộ luật tố tụng
hình sự.
TNHS được thực hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định, có thể là hình phạt
hoặc biện pháp tư pháp.
- Đặc điểm thứ tư: Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm trước Nhà nước, kết
quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được xác định và
thực hiện theo một trình tự, thủ tục đặc biệt do pháp luật tố tụng hình sự
quy định. [16, tr. 29]
TNHS được thực hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa Nhà nước và
người phạm tội với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất
định. Hơn nữa, TNHS được xác định theo một trình tự, thủ tục đặc biệt do
pháp luật tố tụng hình sự quy định được thực hiện bởi cơ quan tư pháp hình
sự có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án)
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế định miễn trách nhiệm
hình sự
a. Khái niệm của miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự là hai chế định của
luật hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
là việc thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được
quy định trong luật hình sự, song không phải cứ hành vi thỏa mãn các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm thì người thực hiện hành vi đều phải chịu trách
nhiệm hình sự. Trong trường hợp một người thực hiện hành vi thỏa mãn các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự, nhưng xét
thấy trường hợp đó không cần phải áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người
đó vẫn có thể đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, thì nhà
làm luật sẽ quy định trường hợp đó được miễn trách nhiệm hình sự. Khái

20

niệm miễn trách nhiệm hình sự xuất phát từ khái niệm trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, trong BLHS 1985 và BLHS năm 1999, đều không ghi nhận khái
niệm miễn TNHS. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, có một số quan điểm
khác nhau về miễn TNHS, cụ thể là:
- Miễn TNHS là "một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và
được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong
việc thực hiện hành vi đó" [2, tr. 7];
- Miễn TNHS là "không truy cứu trách nhiệm hình sự một người về
việc đã thực hiện một tội phạm được quy định trong luật hình sự, thể hiện
trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền" [31, tr. 238];
- Miễn TNHS là "miễn những hậu quả pháp lý đối với một tội phạm do
pháp luật quy định" [35, tr. 269];
- Miễn TNHS là "không buộc tội một người chịu trách nhiệm hình sự
về tội mà họ đã thực hiện" [34, tr. 321];
- Miễn TNHS là "miễn kết tội cũng như áp dụng hình phạt đối với
người thực hiện tội phạm và do vậy họ không bị coi là có tội" [9, tr. 14];
Như vậy, từ những quan điểm nêu trên theo chúng tôi, miễn TNHS
được hiểu là việc cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai
đoạn tố tụng hình sự tương ứng không buộc một người đáp ứng những điều
kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do phạm tội, nếu xét
thấy việc truy cứu TNHS người đó là không cần thiết mà vẫn bảo đảm yêu
cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người
phạm tội. [7, tr. 753]
b. Các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự

21
Từ khái niệm nêu trên kết hợp với việc nghiên cứu những quy định
của PLHS Việt Nam hiện hành về miễn TNHS, chúng ta có thể rút ra một số
đặc điểm cơ bản sau đây:

Một là, miễn TNHS là một trong những chế định phản ánh rõ nét
nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh các chế định khác
như: Các trường hợp loại trừ TNHS, các tình tiết giảm nhẹ TNHS, miễn hình
phạt, thời hiệu truy cứu TNHS…thì miễn TNHS thể hiện nguyên tắc nhân đạo
đối với người phạm tội, bởi pháp luật hình sự không chỉ có biện pháp trừng
phạt mà còn kết hợp biện pháp giáo dục, cải tạo, khoan hồng với người phạm
tội chưa đến mức phải truy cứu TNHS.
Hai là, miễn TNHS là một trong những chế định phản ánh sự lên án
của Nhà nước và xã hội đối với người có hành vi phạm tội, nhưng người được
miễn TNHS thì việc truy cứu TNHS với người đó là không cần thiết mà vẫn
đáp ứng các yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, khi họ có đầy đủ
những điều kiện nhất định. Mặc dù được miễn TNHS nhưng người này vẫn có
thể chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự thuộc các ngành
luật khác.
Ba là, miễn TNHS là một trong những biện pháp của Nhà nước để
thực hiện chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội và thể hiện
phương châm trong đường lối đấu tranh phòng và chống tội phạm - "nghiêm
trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải
tạo" trong luật hình sự Việt Nam.
Bốn là, miễn TNHS gắn liền và quan hệ chặt chẽ với TNHS. Khái niệm
miễn TNHS cũng xuất phát từ khái niệm TNHS. Bên cạnh đó, nếu như TNHS
là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu do đã thực hiện hành
vi phạm tội và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do luật hình sự quy định, thì miễn
TNHS có nghĩa lµ kh«ng buộc người đó phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi đó

22
mà lẽ ra, nếu không có những điều kiện do luật định, thì họ phải chịu TNHS
trên những cơ sở chung. Cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm do người có lỗi thực

hiện, thì cơ sở của miễn TNHS là việc có những điều kiện do PLHS quy định
để không buộc một người phải chịu TNHS, mặc dù hành vi của người đó đã
thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Mặt khác, đối tượng bị áp dụng TNHS và được áp dụng miễn TNHS
đều là người phạm tội, tức là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà luật hình sự quy định là tội phạm.
Năm là, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà hành vi của họ đã
thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng họ lại có
những điều kiện nhất định để được miễn TNHS. Chẳng hạn, khi tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử, do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội
hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì người phạm tội
được miễn TNHS (khoản 2 Điều 25) hay khi có quyết định đại xá (khoản 3
Điều 25 BLHS). Ngoài ra, vì người được miễn TNHS bị coi là người đã thực
hiện hành vi phạm tội, cho nên họ không được bồi thường thiệt hại theo quy
định của Luật bồi thường nhà nước ngày 18/6/2009 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (khoản 1 Điều 27).
Sáu là, người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý
hình sự bất lợi của việc phạm tội như: họ không bị truy cứu TNHS, không bị
kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác
và không bị coi là có án tích. Mặc dù BLHS hiện hành các nhà làm luật nước
ta chưa quy định nhưng căn cứ vào Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986
về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999
của Tòa án nhân dân tối cao "Về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp

23
dụng pháp luật" và thực tiễn xét xử cho thấy, người phạm tội được miễn
TNHS vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý
thuộc các ngành luật khác như: tố tụng hình sự; dân sự; hành chính; kỷ luật

Bảy là, phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể,
miễn TNHS chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền và quyết định phải được thể hiện bằng văn bản quy định trong Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003. Cụ thể, các cơ quan này bao gồm: Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án (các điều 164, 169, 181, 249 và 314) khi có một
trong các căn cứ để miễn TNHS theo quy định tương ứng của BLHS. Bên
cạnh đó, trường hợp trong một vụ án hình sự có đồng phạm thì việc miễn
TNHS chỉ đặt ra đối với người nào nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện do
luật định, còn đối với những người đồng phạm khác phải chịu TNHS trên
những cơ sở chung. [39, tr. 110]
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu chế định miễn trách nhiệm hình sự
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu chế định miễn TNHS của PLHS nước ta
có ý nghĩa quan trọng thể hiện trên các phương diện sau:
- Chế định miễn TNHS là chế định nhân đạo nhất của luật hình sự
trong đường lối xử lý tội phạm. Vì việc giải quyết vấn đề miễn TNHS hoàn
toàn không cần thiết và không phải bàn đến khi trong hành vi của công dân
không có các dấu hiệu của cấu thành tội phạm;
- Từ thực tiễn áp dụng các quy phạm PLHS về miễn TNHS cần phải
lý giải, luận chứng và đưa ra mô hình lý luận dưới góc độ nhận thức - khoa
học nhằm góp phần điều chỉnh trong PLHS thực định các trường hợp miễn
TNHS khác cũng chính là một trong những hướng nghiên cứu quan trọng và
cần thiết của khoa học luật hình sự nước ta hiện nay;

24
- Chế định miễn TNHS thể hiện chính sách phân hóa và thể hiện
phương châm trong đường lối xử lý Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng
trị kết hợp với giáo dục thuyết phục, cải tạo. Qua đó, nhằm bảo vệ quyền con
người trong tư pháp hình sự;
- Việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và sâu sắc chế định miễn TNHS

sẽ hỗ trợ cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án áp dụng chính xác các
quy phạm của chế định này, đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và
chứng minh rằng, bằng việc phân tích khái niệm miễn TNHS, các đặc điểm
cơ bản và các căn cứ pháp lý của những trường hợp miễn TNHS; v.v vẫn
đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm.
1.2. KHÁI NIỆM NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ CHÍNH
SÁCH HÌNH SỰ CỦA NHÀ NƢỚC TA ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI
1.2.1. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên phạm tội là thuật ngữ được sử dụng trong
ngành luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên lại không có khái niệm
pháp lý chính thức nào giải thích thuật ngữ này dù BLHS, TTHS có quy định
chương riêng về NCTN phạm tội. Trong PLHS, thuật ngữ NCTN được sử
dụng dưới hai góc độ vừa là chủ thể tội phạm, vừa là đối tượng tác động của
tội phạm. Dưới góc độ là chủ thể của tội phạm thì tuổi của NCTN phạm tội
được giới hạn hẹp hơn so với tuổi của NCTN trong các ngành luật khác, đó là
từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo Điều 68 BLHS 1999 quy định: "Người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần
chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này" [26]. Như vậy
một câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao PLHS lại quy định độ tuổi chịu TNHS
của NCTN là 14 tuổi? Ở mỗi quốc gia trên thế giới có quy định độ tuổi chịu
TNHS của NCTN rất khác nhau. Chẳng hạn: Tuổi chịu TNHS của Singapo là

25
từ đủ 7 tuổi đến 12 tuổi trở lên, của Anh là từ đủ 10 tuổi đến dưới 14 tuổi, của
Đức, Nga, Nhật Bản là từ đủ 14 tuổi trở lên, của Canada là từ đủ 12 tuổi trở
lên, của Thụy Điển là đủ 15 tuổi, Cuba là 16 tuổi, trong khi đó Chilê,
Tâybanha lại không quy định độ tuổi tối thiếu chịu TNHS. Sở dĩ, PLHS mỗi
Quốc gia có quy định khác nhau như vậy là vì phụ thuộc vào điều kiện kinh

tế, chính trị, xã hội, cũng như sự phát triển của từng nước. Ở nước ta, PLHS
có quy định 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS là phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội. Trong độ tuổi này, NCTN đã phát triển nhanh về tâm
sinh lý, họ đã ý thức được hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng, là
sai cũng như ý thức được phần nào việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai
trái, bị pháp luật cấm. Do đó họ có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về chính
hành vi sai trái do mình thực hiện.
Theo Điều 12 BLHS 1999 có sự phân hóa TNHS trong lứa tuổi NCTN
phạm tội, quy định: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng".
Để xác định TNHS của NCTN thì phải xác định được họ đã thực hiện
hành vi được mô tả trong BLHS, Điều 8 BLHS quy định tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý. Do đó, để xác định một người nào đó phải chịu TNHS thì phải xác
định các yếu tố sau: sự việc xảy ra có đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm
được quy định trong BLHS, người thực hiện hành vi phạm tội phải có năng
lực TNHS và đạt độ tuổi luật định, người đó thực hiện hành vi với lỗi cố ý
hoặc vô ý, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ. Tóm lại, trên cơ sở lập luận trên có thể đưa ra
định nghĩa khoa học về NCTN phạm tội như sau: NCTN phạm tội là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có lỗi cố ý hoặc vô ý trong việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm.

26
1.2.2. Chính sách hình sự của nhà nƣớc ta đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội
Chính sách hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền là
một phần của chính sách xã hội nói chung, đồng thời là chính sách pháp luật

trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng và bao gồm tổng thế bốn chính sách:
Chính sách phòng ngừa tội phạm, chính sách PLHS, chính sách pháp luật
TTHS và chính sách THAHS; với tư cách là những phương hướng có tính
chất chỉ đạo, chiến lược của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm nhằm đảm bảo thực hiện tốt đường lối xử lý về hình sự, góp phần
đưa các nguyên tắc của NNPQ vào đời sống thực tế, giáo dục công dân ý thức
tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tiến tới xây dựng
thành công NNPQ ở Việt Nam. Như vậy:
Chính sách hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền là
những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược của Nhà nước trong
lĩnh vực tội phạm và hình phạt nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự,
pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự, cũng như thực tiễn
áp dụng chúng, đồng thời soạn thảo và triển khai các biện pháp đấu tranh
phòng và chống tội phạm [7, tr. 35].
Chính sách PLHS của nhà nước đối với NCTN phạm tội là những phương
hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo của Nhà nước trong hoạt động lập pháp và áp
dụng PLHS đối với NCTN phạm tội, đảm bảo sự ổn định của hệ thống PLHS,
tăng cường việc bảo vệ các quyền và tự do của NCTN, cũng như các lợi ích
hợp pháp của xã hội và của Nhà nước bằng PLHS, đồng thời góp phần nâng
cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm do NCTN thực hiện.
Trong BLHS Việt Nam hiện hành, có một chương riêng quy định về
NCTN phạm tội, trong đó có quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm
tội với mức độ giảm nhẹ đặc biệt đáng kể so với nguyên tắc về người phạm
tội nói chung. Trên thực tế, NCTN chịu sự tác động rất lớn và chủ yếu của

×