Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 37 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGUYỄN THUỲ TRANG



ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI LÀM NHỤC
NGƯỜI KHÁC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - NĂM 2006



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THÙY TRANG




ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI LÀM NHỤC
NGƯỜI KHÁC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY



CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN QUANG TIỆP





HÀ NỘI - NĂM 2006





MỤC LỤC



Trang

Mở đầu

6

Chương
1:
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
7
1.1
Khái lược sự hình thành và phát triển những quy định về tội
làm nhục người khác trong luật hình sự Việt Nam.

1.1.1
Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp
thuộc.
7
1.1.2
Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 ra đời.
9

1.1.3
Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình
sự năm 1985 đến nay.
11
1.2
Tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm 1999
14
1.2.1
Khái niệm tội làm nhục người khác.
14
1.2.2
Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng và hình phạt được áp
dụng đối với tội làm nhục người khác.
16
1.2.2.1
Khách thể của tội phạm.
16
1.2.2.2
Mặt khách quan của tội phạm.
17
1.2.2.3
Chủ thể của tội phạm.
20
1.2.2.4
Mặt chủ quan của tội phạm.
20
1.2.2.5
Hình phạt được áp dụng
21
1.2.3

So sánh tội làm nhục người khác với một số tội phạm khác có
liên quan.
24


1.2.3.1
So sánh tội làm nhục người khác với các tội: Tội làm nhục
người chỉ huy hoặc cấp trên; tội làm nhục cấp dưới và tội làm
nhục đồng đội.
24
1.2.3.2
So sánh tội làm nhục người khác với tội bức tử.
26
1.2.3.3
So sánh tội làm nhục người khác với tội hành hạ người khác.
26
1.2.3.4
So sánh tội làm nhục người khác với tội vu khống.
27
1.2.4
ý nghĩa của việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ luật
Hình sự 1999.
28
1.3
Những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới.
31

Chương 2:
Tình hình, nguyên nhân, điều kiện của

tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay
37
2.1
Tình hình tội làm nhục người khác ở Việt Nam từ năm 1997
đến năm 2005.
37

2.1.1
Thực trạng và động thái của tình hình tội làm nhục người khác.
37
2.1.2
Nhân thân người phạm tội làm nhục người khác.
53
2.2
Nguyên nhân và điều kiện của tội làm nhục người khác
63
2.2.1
Nguyên nhân về pháp luật
64
2.2.2
Nguyên nhân về tâm lý xã hội, giáo dục đạo đức.
67
2.2.3
Nguyên nhân về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật.
73
2.2.4
Nguyên nhân về công tác hoà giải cơ sở.
76
2.2.5

Nguyên nhân về các cơ quan bảo vệ pháp luật.
77
2.3
Dự báo tình hình tội làm nhục người khác trong thời gian
tới ở nước ta.
79

Chương
3:
Một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội làm nhục
người khác
83


3.1
Xây dựng các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội làm
nhục người khác
83
3.1.1
Cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ thống các giải pháp đấu
tranh phòng, chống tội làm nhục người khác.
83
3.1.2
Những yêu cầu, quan điểm và nguyên tắc xây dựng hệ thống các
giải pháp đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác.
84
3.2
Các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người
khác.
88

3.2.1
Giải pháp về pháp luật.
88
3.2.2
Đẩy mạnh việc nâng cao dân trí, giáo dục đạo đức, văn hoá, xây
dựng lối sống mới, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con
người.
91
3.2.3
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
con người và tội làm nhục người khác.
95
3.2.4
Nâng cao hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở.
100
3.2.5
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan Công an, Viện kiểm
sát, Toà án về tội làm nhục người khác.
102
3.2.5.1
Đối với cơ quan Công an.
102
3.2.5.2
Đối với Toà án
117
3.2.5.3
Đối với Viện kiểm sát
110

Kết luận


112

Tài liệu tham khảo

115





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCA
Bộ Công an
BLHS
Bộ luật hình sự
BQP
Bộ Quốc phòng
CP
Chính phủ
HSPT
Hình sự phúc thẩm
NXB
Nhà xuất bản
PGS. TSKH
Phó giáo sư - Tiến sĩ khoa học
SL
Sắc luật
TH.S

Thạc sĩ
THCS
Trung học cơ sở
TP
Thành phố
TS
Tiến sĩ
TTG
Thủ tướng
TTLT
Thông tư liên tịch
UBTP
Uỷ ban thẩm phán
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VP
Văn phòng
XHCN
Xã hội chủ nghĩa



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu
được pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người
trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con
người. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người
nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và
Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh
tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho
sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước
Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người
nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết
sức mình để bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được,
trong thời gian qua, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có
nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác đấu tranh phòng,


2
chống tội phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các
lĩnh vực, trong đó tình hình tội làm nhục người khác, xúc phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội,
được dư luận rất quan tâm, theo dõi. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
làm nhục người khác đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học
luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu
pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục người khác, nguyên nhân, điều

kiện của tội làm nhục người khác Về mặt lý luận, xung quan vấn đề đấu
tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Đấu tranh phòng, chống tội làm
nhục người khác ở nước ta hiện nay”, mang tính cấp thiết, không những về
lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội làm nhục người khác là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức
tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội làm nhục
người khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên
cứu như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa
luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”,
mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu
năm 1998…


3
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, tội làm nhục
người khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam
của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000;
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình

luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng
Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn
Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội
phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S Đinh Văn Quế, Nxb thành
phố Hồ Chí Minh, 2002…
Các công trình nói trên đã đề cập tội làm nhục người khác dưới góc
độ pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện và có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý
hình sự và tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội làm nhục người khác, đề xuất những giải pháp mang tính
hệ thống, đồng bộ để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:


4
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của
tội làm nhục người khác; phân tích những quy định của pháp luật hình sự
một số nước trên thế giới về tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình tội làm nhục
người khác, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này; dự báo tình tội
làm nhục người khác trong những thời gian tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh

phòng, chống tội làm nhục người khác.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý
hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm
2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa
án về tội làm nhục người khác; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của
Tòa án nhân dân tối cao về tội làm nhục người khác.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.


5
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch
sử, lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều
tra xã hội
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có
hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và
tội phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới
về khoa học của luận văn:

- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội làm nhục người
khác; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong
pháp luật hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về tội làm nhục người khác
trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị
hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những
luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác ở
Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân, điều kiện của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội làm nhục người khác ở nước ta. Thông qua công trình nghiên
cứu này, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu


6
tranh phòng, chống tội phạm làm nhục người khác là loại tội phạm có tính
nhạy cảm rất cao hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa
học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công
tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 114 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, mục.
Chương 1
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Trong chương này, tác giả tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận chung các tội làm nhục người khác như sự hình thành và phát triển
những quy định về tội làm nhục người khác trong luật hình sự Việt Nam,
khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục
người khác, những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới.
1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và
Pháp thuộc
Tác giả đã làm rõ sáng tỏ những quy định về các tội làm nhục người
khác trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức). – Bộ luật chính thống
và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê, trong đó dẫn chứng về quy định
học trò đánh và lăng mạ thày giáo, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng


7
đạo” của dân tộc, để cho quy tắc đạo đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được
thực hiện nghiêm chỉnh.
Tác giả cũng đã đề cập những quy định về tội làm nhục người khác
trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long), trong đó lưu ý hành vi làm
nhục người khác những người thuộc giai cấp bị trị thực hiện, bị trừng phạt
rất nặng, điều này thể hiện rằng, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang tính
giai cấp, được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị.
Dưới thời Pháp thuộc, tội làm nhục người khác cũng được đề cập
trong pháp luật hình sự, nhưng là để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai
cấp thống trị, bóc lột.
1.1.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng

tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 ra đời
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do tình hình kháng chiến
diễn ra hết sức khẩn trương việc đấu tranh chống tội làm nhục người
khác chưa được đặt ra. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đối với việc bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, nhân phầm, danh dự của con người, pháp luật hình sự
chủ yếu đề cập các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe như giết người, gây
thương tích, làm chết người trong Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955
của Thủ tướng Chính phủ, mà chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy
định về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm nói chung, về tội làm nhục
người khác nói riêng. Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ
đợi thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, Nhà nước Cộng hòa miền Nam
Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 có quy định
về các tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân một cách
đầy đủ hơn so với Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng


8
Chính phủ, trên cơ sở quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử lý một số
trường hợp phạm tội làm nhục người khác.
1.1.3. Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 đến nay
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội làm nhục người khác tại
Điều 116, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253, tội làm
nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ
luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tội
làm nhục người khác, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm
nhục cấp dưới, tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự trưởng thành về kỹ
thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ nhân phẩm, danh
dự của con người

Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội làm nhục người khác tại
Điều 121, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 319, tội làm
nhục cấp dưới tại Điều 320, tội làm nhục đồng đội tại Điều 321. So với Bộ
luật hình sự năm 1985, những quy định về tội làm nhục người khác trong
Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm mới cơ bản như sau: thứ nhất,
quán triệt chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử lý hình sự đối
với những người thực hiện các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm của con người là nghiêm khắc hơn, khung cơ bản
Điều 121 quy định tội làm nhục người khác có mức phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến hai năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là một năm);
thứ hai, khung tăng nặng có mức phạt tù từ một năm đến ba năm (trong Bộ
luật hình sự năm 1985 là cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm); thứ ba, bổ sung một số tình tiết định khung
tăng nặng hình phạt như phạm tội nhiều lần, đối với nhiều người, lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa


9
bệnh cho mình; thứ tư, quy định thêm hình phạt bổ sung: người phạm tội
còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ một năm đến năm năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985
không có quy định này).
1.2. TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999
1.2.1. Khái niệm tội làm nhục người khác
Trên cơ sở phân tích những quan điểm khác nhau về tội làm nhục
người khác, tác giả đã đưa ra khái niệm tội làm nhục người khác như sau:
Tội làm nhục người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng

nhân phẩm, danh dự của người khác.
1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng và hình phạt
được áp dụng đối với tội làm nhục người khác
Trên cơ sở phân tích những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999,
tác giả đã làm rõ những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm
nhục người khác, đó là các dấu hiệu về khách thể, chủ thể, mặt chủ quan,
mặt khách quan. Tác giả cũng đã phân tích hình phạt được áp dụng đối với
tội làm nhục người khác.
1.2.3. So sánh tội làm nhục người khác với một số tội phạm khác
có liên quan
Tác giả đã phân biệt tội làm nhục người khác với các tội: tội làm
nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục
đồng đội thông qua dấu hiệu khách thể, chủ thể của tội phạm. Đồng thời,
phân biệt tội làm nhục người khác vói tội bức tử, tội hành hạ người khác.
Đặc biệt, tội làm nhục người khác được phân biệt với tội vu khống ở những


10
điểm sau: thứ nhất, hành vi cấu thành tội vu khống không đa dạng như tội
làm nhục người khác. Ngoài ra, tội vu khống có một loại hành vi đặc trưng
khác, đó là "bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền", thứ hai, mục đích tội vu khống hướng tới bao gồm:
xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác, mục đích của tội làm nhục người khác chỉ nhằm xúc phạm
danh dự, nhân phẩm. Như vậy, hành vi bịa đặt, loan truyền tin tức thất thiệt
nhằm gây thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm là dấu hiệu có trong cả hai cấu
thành tội phạm tội làm nhục người khác và tội vu khống. Tuy nhiên, thông
thường hành vi cấu thành tội vu khống thường kèm theo mục đích nhằm
bôi nhọ danh dự và gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác trước các cơ quan, tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

1.2.4. Ý nghĩa của việc quy định tội làm nhục người khác trong
Bộ luật hình sự năm 1999
Việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm
1985, cũng như trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những ý nghĩa sau đây:
thứ nhất, biểu hiện cụ thể mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật
hình sự; thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các
hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh sự của người khác; thứ
ba, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ và phát triển
quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng;
thứ tư, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của công dân, góp phần tích cực vào
việc thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI


11
Nghiên cứu những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp
luật hình sự của Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào cho thấy, tác giả rút ra kết luận:
Thứ nhất, những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp
luật hình sự của các nước: Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang
Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào rất khác nhau, phụ thuộc vào điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước.
Thứ hai, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga có quy
phạm định nghĩa về khái niệm làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật
hình sự Liên bang Nga còn có quy định về tội xúc phạm quân nhân. Tội
xúc phạm quân nhân trong pháp luật hình sư Liên bang Nga có nhiều điểm
tương tự như tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp
dưới và tội làm nhục đồng đội trong pháp luật hình sự của nước ta.
Thứ ba, tương tự với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự

Vương quốc Thụy Điển, trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
đã chết cũng bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu
hình phạt. Đây là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật
hình sự của nước ta.
Ngoài ra, trong pháp luật hình sự hiện hành của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, hành vi xúc phạm danh dự của người khác và hành vi vu
khống người khác được quy định chung trong một điều luật quy định về tội
xúc phạm danh dự của người khác. Đây cũng là điểm khác biệt so với quy
định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước ta.
Chương 2
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC


12
Trong chương này, tác giả tập trung nghiên cứu, làm rõ tình hình,
nguyên nhân và điều kiện của tội làm nhục người khác và dự báo tình hình
tội làm nhục người khác trong thời gian tới ở nước ta.
2.1 TÌNH HÌNH TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Ở VIỆT
NAM TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
2.1.1. Thực trạng và động thái của tình hình tội làm nhục người
khác
Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, từ năm 1997 đến
năm 2005, số vụ án xét xử về tội làm nhục người khác có xu hướng giảm
nhưng không đáng kể, cụ thể năm 1997: 115 vụ với 177 bị cáo ; năm 1998:
162 vụ với 241 bị cáo; năm 1999: 144 vụ với 228 bị cáo, năm 2000: 106 vụ
với 164 bị cáo; năm 2001: 86 vụ với 125 bị cáo; năm 2002: 89 vụ với 133
bị cáo; năm 2003: 96 vụ với 149 bị cáo; năm 2004: 56 vụ với 84 bị cáo;
năm 2005: 61 vụ với 78 bị cáo.

Tội làm nhục người khác là một tội phạm ít nghiêm trọng nên phần
lớn thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện. Theo thống kê của Toà
án nhân dân thành phố Hà Nội, trong vòng 8 năm, số vụ án về tội làm nhục
người khác được xét xử theo thủ tục phúc thẩm tại Toà án nhân dân thành
phố Hà Nội chỉ có 11 vụ.
Tuy nhiên, tội làm nhục người khác có diễn biến rất phức tạp, trong
đó tình hình tội phạm ẩn tương đối cao, theo thống kê chưa đầy đủ hàng
năm tỷ lệ tội phạm bị phát hiện chỉ chiếm khoảng 70- 75% tội phạm xảy ra
trên thực tế. Bên cạnh đó, việc không phân biệt rõ ràng ranh giới giữa xử lý
hình sự với hành chính, dân sự cũng là một nguyên nhân khiến tình hình
tội phạm ẩn càng thêm phức tạp. Ngoài ra, do đặc thù của các tội xâm
phạm đến "danh dự, nhân phẩm" - một loại đối tượng phi vật thể, cho nên
căn cứ để xác định tội phạm phụ thuộc rất nhiều nguyên nhân khách quan


13
và chủ quan. Nhiều trường hợp có tội phạm xảy ra trên thực tế nhưng do
thời gian đã qua lâu hoặc không có người làm chứng, vật chứng nên các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền không có đủ cơ sở để khởi tố vụ án và bị
can.
Để làm rõ thêm cơ cấu, tính chất của tình hình tội làm nhục người
khác, tác giả đã xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội làm nhục người khác
với một số loại tội phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạnh, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người như tội bức tử, tội hành hạ người
khác, tội vu khống. Ngoài ra, tác giả cũng đã so sánh tội làm nhục người
khác và những tội danh tương tự nhưng có dấu hiệu chủ thể đặc biệt như
tội làm nhục chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục
đồng đội để đánh giá rõ hơn về thực trạng của tội phạm này.
2.1.2. Nhân thân người phạm tội làm nhục người khác
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội làm nhục người khác, tác giả

rút ra: thứ nhất, các bị cáo là công chức, đảng viên chiếm một tỷ lệ rất
thấp; thứ hai, các bị cáo phạm tội là dân tộc ít người chiếm tỷ lệ không
cao, năm 2001, 2002 không có bị cáo là dân tộc ít người, năm 1997, 2004,
2005 mỗi năm chỉ có 1 bị cáo, năm 2003 có 4 bị cáo, năm 2000 có 7 bị
cáo, năm 1998 có 11 bị cáo và năm nhiều nhất là 1999 có 47 bị cáo; thứ
ba, các bị cáo phạm tội làm nhục người khác phần lớn là nam giới, năm
1997 số bị cáo là nam giới: 124 người, chiếm 70% trên tổng số bị cáo, năm
1998 tăng lên 196 người, chiếm tỷ lệ 81% trên tổng số bị cáo, năm 1999 là
173 người, chiếm 76% trên tổng số bị cáo. Năm 2000 tỷ lệ nam giới giảm
xuống còn 46% (76 trên tổng số 164 bị cáo); thứ tư, về độ tuổi của số bị
cáo phạm tội làm nhục người khác tuy có dao động qua các năm, nhưng
nhìn chung trong độ tuổi từ 18 đến 30, số bị cáo phạm tội có xu hướng
giảm, phần lớn bị cáo phạm tội trong độ tuổi từ 30 trở lên.


14
2.2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI LÀM NHỤC
NGƯỜI KHÁC
Tội làm nhục người khác thực chất là một hiện tượng xã hội tiêu
cực. Vì vậy, muốn xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội phải tìm hiểu
nó từ chính các quá trình xã hội. Nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của
tội làm nhục người khác trong thời gian qua ở nước ta, có thể thấy, tội làm
nhục người khác là hành vi tuy không gây tổn hại về mặt sức khoẻ, tính
mạng nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tinh thần của người bị
hại, thậm chí nó còn gây ra những hậu quả thương tâm, nhẹ thì bị mất niềm
tin, mất danh dự, nặng có thể gây ra những rối loạn về tâm thần, khiến
người bị hại có những hành vi tiêu cực. Chính vì vậy, việc tìm ra nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm này sẽ góp phần tích cực vào việc đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Trên thực tế, bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng bắt nguồn từ một

hay nhiều nguyên nhân nào đó, tuy nhiên, việc xác định rõ nguyên nhân,
điều kiện của một hành vi phạm tội chỉ mang tính tương đối, bởi lẽ trong
tổng thể mặt bằng chung của xã hội, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện phạm tội của một tội danh cụ thể phải dựa trên những dấu hiệu cơ bản
nhất, chung nhất và phổ biến nhất. Xuất phát điểm là việc bảo vệ một trong
những quyền cơ bản của con người – quyền được bảo hộ về danh dự, nhân
phẩm, chúng ta có thể nghiên cứu về những nguyên nhân, điều kiện cơ bản
nhất dẫn đến sự xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm. Đó là
nguyên nhân về pháp luật, nguyên nhân về tâm lý xã hội, giáo dục đạo đức,
nguyên nhân về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
nguyên nhân về công tác hòa giải ở cơ sở, nguyên nhân về các cơ quan bảo
vệ pháp luật.
2.3. DỰ BÁO TÌNH HÌNH TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
TRONG THỜI GIAN TỚI Ở NƯỚC TA


15
Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình tội làm nhục người khác
trong thời gian qua, dự báo tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời
gian tới, tác giả cho rằng, tình hình tội làm nhục người khác trong những
năm tới sẽ có những diễn biến rất phức tạp. Mặc dù theo số liệu thống kê
của các cơ quan chức năng, thực trạng tội làm nhục người khác có xu
hướng giảm, tuy nhiên, khi các điều kiện kinh tế xã hội phát triển, tình hình
tội làm nhục cũng sẽ có những diến biến mới, việc phát hiện và xử lý tội
phạm sẽ gặp nhiều khó khăn.
Hành vi thực hiện tội phạm sẽ không đơn thuần chỉ là những hành
vi "bêu riếu, hất phân, …." như trước kia mà sẽ có tính tinh vi và mức độ
nguy hiểm cao hơn, ví dụ như phát tán thông tin nhằm bôi nhọ danh dự
nhân phẩm người khác lên các phương tiện thông tin đại chúng qua mạng
Internet, qua báo chí. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tỷ lệ tội phạm ẩn

sẽ có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ phạm tội ở nông thôn và khu vực miền núi
vẫn ở mức cao hơn so với khu vực thành thị, tuy nhiên, các tội phạm làm
nhục người khác ở khu vực thành thị có tính tinh vi và khó phát hiện hơn.
Về nhân thân những người phạm tội làm nhục người khác, những
người phạm tội thuộc tầng lớp trí thức sẽ có xu hướng tăng lên, họ có thể
nhằm tới những người mà họ cho là cản trở con đường công danh hoặc
những người là đối thủ cạnh tranh của mình. Trong thời gian tới, tỷ lệ
phạm tội là nữ giới sẽ có xu hướng tăng lên, điều này cũng biểu hiện rõ nét
trên biểu đồ về tình hình tội phạm nữ trong những năm gần đây. Việc làm
nhục người khác của nữ giới so với nam trên thực tế không hề chênh lệch,
nhưng do hành vi làm nhục người khác của nam giới có mức độ nghiêm
trọng cao hơn nên phần lớn bị xử lý về mặt hình sự. Tuy nhiên, những năm
tới đây, để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm của
con người, Đảng và Nhà nước sẽ có những chế tài nghiêm khắc hơn đối


16
với những hành vi trên, do vậy, những hành vi làm nhục người khác sẽ bị
xử lý về hình sự một cách nghiêm khắc và cương quyết hơn.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
Trong chương này, tác giả nghiên cứu về vấn đề xây dựng các giải
pháp đấu tranh phòng chống tội làm nhục người khác, trong đó làm rõ cơ
sở khoa học của việc xây dựng hệ thống các giải pháp đấu tranh phòng,
chống tội làm nhục người khác, những quan điểm của Đảng và Nhà nước
cần quán triệt trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm
nhục người khác và các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này trong thời gian tới.
3.1. XÂY DỰNG CÁC GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG,

CHỐNG TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
3.1.1. Cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ thống các giải pháp
đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác
Tác giả cho rằng, để đấu tranh phòng, chống tội phạm này, phải áp
dụng đồng bộ các biện pháp khác nhau ở nhiều lĩnh vực, trên phạm vi toàn
xã hội, nhằm xóa bỏ các nhân tố tiêu cực trong xã hội là nguồn gốc, nguyên
nhân, điều kiện phát sinh tội phạm.
Tác giả đưa ra những cơ sở khoa học cho việc xây dựng hệ thống các
giải pháp đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác như sau: Thứ
nhất, đánh giá đúng thực trạng của tội làm nhục người khác trên phạm vi cả
nước và trong từng khu vực; Thứ hai, đánh giá chính xác hiệu quả về văn
hóa – xã hội của các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người
khác một cách có hệ thống, toàn diện, khách quan dưới góc độ những điều


17
kiện lịch sử cụ thể; Thứ ba, phân tích nguyên nhân và điều kiện tội làm nhục
người khác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trên phạm vi cả nước và
ở từng địa phương; Thứ tư, dự báo tình hình tội làm nhục người khác ngắn
hạn và dài hạn; dự báo kết quả các giải pháp đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này.
3.1.2. Những yêu cầu, quan điểm và nguyên tắc xây dựng hệ
thống các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác
Trong tình hình hiện nay, cuộc đấu tranh phòng, chống tội làm nhục
người khác phải bảo đảm các yêu cầu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, trong đó quyền con người, nhân phẩm, danh dự của con
người được tôn trọng và bảo vệ; Thứ hai, phát hiện kịp thời, xử lý kiên
quyết các đối tượng phạm tội làm nhục người khác; Thứ ba, góp phần xây
dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, thiết lập trật tự kỷ cương trong đời

sống xã hội; Thứ tư, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
pháp lý hình sự về tội làm nhục người khác.
Để cuộc đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác đạt hiệu
quả cao, cần phải xuất phát từ các quan điểm chỉ đạo sau:
Một là, phải coi đây là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân, của
các cấp, các ngành đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của các cấp ủy Đảng.
Phải phát động cho được phong trào quần chúng rộng rãi, thường xuyên
tham gia đấu tranh, phòng, chống tội làm nhục người khác, đồng thời phát
huy được vai trò tham mưu, nòng cốt của các lực lượng Công an, Tư pháp,
sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng.
Hai là, phải coi công tác giáo dục đạo đức, lối sống mới, đồng thời
đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
con người, sự tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người.


18
Ba là, cần phải kiên quyết xử lý hành chính và dân sự các trường hợp
xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của con người, kịp thời răn đe, giáo dục
người vi phạm để ngăn ngừa họ tiếp tục vi phạm và có thể trở thành người
phạm tội.
Bốn là, phải trên cơ sở giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn nảy
sinh trong xã hội, xây dựng gia đình, nhà trường, xã hội lành mạnh, mọi
người tôn trọng lẫn nhau, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và của từng địa phương.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI
LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
3.3.1. Giải pháp về pháp luật
Tác giả đã phân tích những bất cập của các quy định về hành vi làm
nhục người khác, tội làm nhục người khác, để trên cơ sở đó đề xuất sửa đổi,
bổ sung Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:

Điều 121. Tội làm nhục người khác
1. Người nào có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng
nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
một năm đến ba năm…
Cần sớm nghiên cứu, ban hành Thông tư liên tịch Công an, Tòa án,
Kiểm sát, Tư pháp, hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó
quy định rõ và cụ thể ranh giới giữa xử lý hành chính và xử lý hình sự đối
với các hành vi làm nhục người khác.
Ngoài ra, cần hoàn thiện những quy định của pháp luật về bồi thường
thiệt hại đối với người bị xúc phạm nghiêm trọng về nhân phẩm, danh dự.


19
3.3.2. Đẩy mạnh việc nâng cao dân trí, giáo dục đạo đức, văn
hóa, xây dựng lối sống mới, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con
người.
Tội làm nhục người khác xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của con
người, cho nên để loại trừ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm này,
phải tăng cường nâng cao dân trí, giáo dục đạo đức, văn hóa, xây dựng lối
sống mới, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người.

Về giáo dục đạo đức, cần chú trọng giáo dục các giá trị đạo đức
truyền thống cao đẹp của dân tộc, trong đó lòng yêu nước là động lực tình
cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong
hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc.
Trong giáo dục đạo đức hiện nay, cần chắt lọc những mặt tích cực
của lễ giáo Nho giáo, đưa vào đó những nội dung mới để nó trở thành quy
tắc, chuẩn mực đạo đức của cuộc sống. Bên cạnh đó, giáo dục ý thức lao

động cũng là một nội dung quan trọng của giáo dục đạo đức.
Cùng với việc giáo dục giá trị truyền thống, việc giáo dục các quy
tắc ứng xử, các chuẩn mực đạo đức, hình thành văn hóa giao tiếp là một
nội dung không thể thiếu của giáo dục đạo đức trong điều kiện đổi mới
hiện nay. Việc giáo dục quy tắc ứng xử, các chuẩn mực đạo đức phải hình
thành và củng cố trong con người một niềm tin sâu sắc vào những giá trị
đích thực và bền vững.
3.3.3. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
quyền con người và tội làm nhục người khác
Tác giả cho rằng, phải coi công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về quyền con người nói chung và tội làm nhục người khác nói

×