Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.22 KB, 122 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được
pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết
là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến
pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung,
bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam
khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền
vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn
đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ
khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm,
danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức mình để bảo đảm thực
hiện trên thực tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được,
trong thời gian qua, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều
1
vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó tình hình tội làm nhục người khác, xúc phạm nhân phẩm, danh dự
của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, được dư luận rất quan


tâm, theo dõi. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu,
giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội
làm nhục người khác, nguyên nhân, điều kiện của tội làm nhục người khác...
Về mặt lý luận, xung quan vấn đề đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người
khác, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục
người khác ở nước ta hiện nay”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận,
mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội làm nhục người khác là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp,
đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội làm nhục người
khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật
hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm
1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục
vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998…
2
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, tội làm nhục người
khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.
Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S
Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S
Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002…
Các công trình nói trên đã đề cập tội làm nhục người khác dưới góc độ
pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và
tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội làm nhục người khác, đề xuất những giải pháp mang tính hệ
thống, đồng bộ để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
3
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của
tội làm nhục người khác; phân tích những quy định của pháp luật hình sự một
số nước trên thế giới về tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người
khác, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này; dự báo tình tội làm nhục
người khác trong những thời gian tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội làm nhục người khác.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý
hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm
2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm
nhục người khác nói riêng.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án
về tội làm nhục người khác; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án
nhân dân tối cao về tội làm nhục người khác.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch sử,
lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã
hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội
phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về
khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội làm nhục người khác;
những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp luật
hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về tội làm nhục người khác trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về
lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải

pháp được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác ở
Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân, điều kiện của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội làm nhục người khác ở nước ta. Thông qua công trình nghiên cứu
này, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh
5
phòng, chống tội phạm làm nhục người khác là loại tội phạm có tính nhạy cảm
rất cao hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan bảo vệ pháp luật...
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 114 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, mục.
6
Chương 1
TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH
VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp
thuộc
Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất
sớm trong luật hình sự Việt Nam.

Thời kỳ phong kiến, trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) là
“Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê”, cũng là “Bộ
luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ ở nước ta” đã đề cập tội làm nhục
người khác tại các điều 489, 491 492, 496. Điều 489 quy định: “Học trò mà
đánh và lăng mạ thầy học, thì xử nặng hơn tội (đánh, lăng mạ) người thường
ba bậc; đánh chết thì phải tội chém "[10, tr. 178]. Đây là quy định mang tính
nhân văn, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, để cho quy tắc
đạo đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được thực hiện nghiêm chỉnh. Điều 495 Bộ
luật còn quy định: “Lăng mạ vợ của quan tại chức, thì bị tội cùng tiền tạ, đều
xử giảm tội lăng mạ người chồng ba bậc; lăng mạ đối với con thì tội lại xử
giảm một bậc nữa” [10, tr. 180].
Trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) được biên soạn trong một
thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở
Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc, tội làm nhục
người khác được đề cập tại các điều 293, 294, 295, 296, 297, 298, 299, 300.
7
Điều 293 quy định: “Phàm mắng người thì bị phạt 10 roi. Cùng mắng nhau,
thì mỗi người bị phạt 10 roi” [9, tr. 810].
Đáng lưu ý, hành vi làm nhục người khác những người thuộc giai cấp
bị trị thực hiện, bị trừng phạt rất nặng trong Hoàng Việt luật lệ. Điều đó cho
thấy, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang tính giai cấp, được sử dụng để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Điều 296 Bộ luật quy định: “Phàm nô tì
mắng gia trưởng thì bị phạt treo cổ (giam chờ), mắng hàng kỳ thân của gia
trưởng và ông bà ngoại của gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm, đại
công thì bị phạt 80 trượng, hàng tiểu công thì bị phạt 70 trượng, hàng ti ma thì
bị phạt 60 trượng. Nếu kẻ làm công mắng gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ
hai năm. Mắng hàng kỳ thân và ông bà ngoại gia trưởng thì phạt trăm trượng,
mắng hàng đại công thì phạt 60 trượng, mắng hàng tiểu công thì phạt 50 roi,
mắng hàng ti ma bị phạt 40 roi, bị thưa lên là bị tội. (Đó là nói cho rõ, trong
qua lại e có sự nghe lầm, cho nên phải chính người ấy nghe, có thể vì tình mà

bỏ qua, hay có ý giấu đi, cho nên phải chính người ấy thưa lên” [9, tr. 812 –
813].
Dưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân,
thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính
trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân
ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do
thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Tội làm nhục
người khác cũng được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này, nhưng là
để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai cấp thống trị, bóc lột. Trên tinh thần
đó, Điều 154 Luật hình An Nam quy định: "Trong khi quan lại đương làm
chức vụ, người nào lấy văn từ, ngôn ngữ, thư chỉ và làm việc gì hay là dọa
điều gì, để cho mất danh dự, thể diện của các viên quan lại ấy, phải phạt giam
từ một tháng đến hai năm, và phạt bạc từ hai mươi đồng đến hai trăm đồng"
8
[46, tr. 25]. Tương tự như vậy, Điều 222 Hình luật canh cải quy định: "Người
nào xỉ mạ quan bên chánh trị, bên Tòa hội đồng thẩm án, trong lúc mấy vị ấy
làm việc bổn phận hoặc dùng lời nói mà xỉ mạ, hoặc viết chữ hoặc vẽ hình mà
không có truyền ra ngoài, trong các cách ấy hoặc nói xấu cho danh giá, cho sự
liêm sỉ của các vị ấy, thì phải bị phạt tù từ 15 ngày cho tới 2 năm" [17, tr.54];
Điều 320 Hoàng Việt hình luật quy định: "Dùng lời nói, hoặc giấy má, viết tay
hay giấy in, bức vẽ hoặc những phương pháp khác mà lỵ mạ một người viên
chức đương khi làm chức vụ hay là nhân khi làm chức vụ, bất kỳ là công việc
hay không cũng gọi là lỵ mạ và chiếu theo Điều 145 chương thứ 12 mà nghĩ
xử" [18, tr. 445].
1.1.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự năm
1985 ra đời
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, đã ban
hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, nhằm bảo vệ chính

quyền nhân dân, chống thực dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động.
Do tình hình kháng chiến diễn ra hết sức khẩn trương, không thể ban
hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp
luật hình sự cần thiết nói riêng, ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành
Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình
An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với
điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể
dân chủ cộng hòa" [34, tr. 190]. Trong bối cảnh này, việc đấu tranh chống
tội làm nhục người khác chưa được đặt ra.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
9
sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở
miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân
phầm, danh dự của con người, pháp luật hình sự chủ yếu đề cập các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe như giết người, gây thương tích, làm chết người
trong Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ, mà
chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm danh dự,
nhân phẩm nói chung, về tội làm nhục người khác nói riêng. Ngày
15-06-1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 có đề cập tội hiếp
dâm, nhưng chưa đề cập tội làm nhục người khác. Trên cơ sở các kinh nghiệm
mà thực tiễn xét xử đã đúc kết được trong thời gian trước đó, ngày
11-05-1967, Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn
đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục, đề cập
một cách toàn diện 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với
người dưới 16 tuổi, dâm ô, nhưng vẫn chưa đề cập tội làm nhục người khác
[39, tr. 389].

Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước
nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về hình thức, tạm thời tồn tại hai Nhà nước:
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt
Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng [20, tr.35]. Nhà nước Cộng hòa miền
Nam Việt Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng.
10
Cùng với việc ban hành Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện
Kiểm sát nhân dân, Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà
ở, đồ vật của Người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và hình
phạt. Sắc luật này được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật
hình sự được ban hành.
Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm phạm đến thân thể và
nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thông tư số 442-TTg
ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định:
“Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân thì bị phạt
tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội" [40, tr. 236]. Trên cơ sở
quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử lý một số trường hợp phạm tội làm
nhục người khác.
1.1.3. Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 đến nay
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự
phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều
khó khăn và khuyết điểm do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp,

nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình
hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn
bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy
đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc ban
hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý
nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
11
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985,
tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi
tắt là Bộ luật hình sự năm 1985).
Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập
pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong
thời gian tới.
Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm
phạm an ninh quốc gia ở chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chương 2 và quy định các
tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân ở chương 3. Đây là hai
chương của Bộ luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo
vệ con người với tính chất là chủ thể của các quan hệ xã hội. Bộ luật hình sự
năm 1985 quy định tội làm nhục người khác tại Điều 116, tội làm nhục người
chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm
nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính
thức ghi nhận về mặt pháp lý tội làm nhục người khác, tội làm nhục người chỉ
huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới, tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự
trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ
nhân phẩm, danh dự của con người
Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội làm nhục người
khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác

và quy định hai khung hình phạt. Khung cơ bản có mức phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Khung tăng
nặng có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ
3 tháng đến 2 năm. Đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành vi
12
làm nhục người thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành công vụ hoặc
để trả thù người đó vi đã thi hành công vụ, ảnh hưởng tới lợi ích của người
phạm tội hay người thân hoặc gia đình họ.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên
cạnh những mặt tích cực, mặt trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Bộ luật
hình sự năm 1985 được ban hành trong thời kỳ của cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp, cho nên tuy đã phản ánh được nhu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm thời kỳ đó, nhưng ở một mức độ nhất định vẫn chịu
ảnh hưởng nhất định của cơ chế đó. Vì vậy, Bộ luật này không phù hợp cho
việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những hạn chế
nhất định về kỹ thuật lập pháp hình sự nhiều tội danh được quy định quá
chung chung; một số hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội khác nhau nhưng lại được quy định trong một điều luật với cùng một
chế tài; khung hình phạt trong nhiều điều luật quá rộng, dễ dẫn đến tiêu cực...
Hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự năm 1985 là qua bốn lần sửa đổi, bổ
sung, Bộ luật này đã không còn là một chỉnh thể thống nhất.
Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi
toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách
quan. Ngày 21-12-1999, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa X, đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ
luật hình sự năm 1999), thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình
13
sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 1-7-2000. Bộ luật hình sự năm 1999 quy
định tội làm nhục người khác tại Điều 121, tội làm nhục người chỉ huy hoặc
cấp trên tại Điều 319, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 320, tội làm nhục đồng
đội tại Điều 321.
So với Bộ luật hình sự năm 1985, những quy định về tội làm nhục
người khác trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm mới cơ bản như
sau:
Thứ nhất, quán triệt chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử
lý hình sự đối với những người thực hiện các hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người là nghiêm khắc hơn,
khung cơ bản Điều 121 quy định tội làm nhục người khác có mức phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là
một năm).
Thứ hai, khung tăng nặng có mức phạt tù từ một năm đến ba năm
(trong Bộ luật hình sự năm 1985 là cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc
bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm).
Thứ ba, bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng hình phạt như
phạm tội nhiều lần, đối với nhiều người, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, đối với
người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
Thứ tư, quy định thêm hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một
năm đến năm năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 không có quy định này).
1.2. TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
1999
1.2.1. Khái niệm tội làm nhục người khác
Tội làm nhục người khác có mối quan hệ chặt chẽ với danh dự và nhân
14

phẩm con người. Cho nên, để có thể làm sáng tỏ khái niệm tội làm nhục người
khác, cần làm rõ khái niệm danh dự, nhân phẩm con người.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người là vốn quý nhất. Đối với con
người, chẳng những tính mạng, sức khỏe là vô giá mà danh dự, nhân phẩm
cũng không kém phần quan trọng. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người đều rất thân thiết đối với con người và là
những quyền quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận và bảo hộ. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân
có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân
phẩm”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “danh dự là phạm trù đạo đức chỉ
lòng tôn trọng của con người trong mọi cử chỉ, hành vi của mình” [50, tr.
647]. Người có danh dự biết tôn trọng lời mình đã hứa và có ý thức bảo vệ
danh dự của mình, của dòng họ, của đoàn thể, Tổ quốc mình. Mất danh dự có
nghĩa là mất sự tin yêu, mến phục của người khác và đối với người có danh
dự, thì đó là tổn thất lớn nhất.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm nhân phẩm. Theo Đại từ
điển tiếng Việt, "nhân phẩm là phẩm chất và giá trị con người" [29, tr. 1762 –
1323].
Nhân phẩm và danh dự là những giá trị nội tại, vốn có được hình thành
và phát triển cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người về mặt nhân
tính. Đây là thuộc tính chung của tất cả các cá nhân trong cộng đồng nhân
loại, không dựa trên bất kỳ sự phân biệt hay khác biệt nào về địa vị xã hội,
kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, … Nhân phẩm và
danh dự của con người chính là những cái làm nên sự khác biệt và cũng là
bước tiến vượt bậc của con người với phần còn lại của giới tự nhiên. Vì chúng
là những giá trị chỉ thuộc tính chung của con người, do vậy, tôn trọng nhân
15
phẩm, danh dự của mỗi cá nhân con người là sự tôn trọng đối với chính mình,
đối với đồng loại. Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tôn trọng

những giá trị của con người, nhờ đó con người thực hiện được sự công bằng
và bình đẳng.
Tội làm nhục người khác phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội
phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc
điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình
sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi
[37, tr. 105].
Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái
niệm tội làm nhục người khác.
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng, “Tội làm nhục người khác là
hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.” [38, tr.
158].
Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật
- Hà Nội cũng cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác” [49, tr. 335].
Từ sự phân tích các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa
ra khái niệm tội làm nhục người khác như sau: Tội làm nhục người khác là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình
thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
16
1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng và hình phạt
được áp dụng đối với tội làm nhục người khác
1.2.2.1. Khách thể của tội phạm.
Là một loại hoạt động của con người, nên cũng như các loại hoạt động
khác, tội phạm cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức,
độc lập với ý thức của chủ thể, nhưng không phải để cải biến mà gây thiệt hại

cho chính những khách thể đó.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển của xã
hội được Nhà nước bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật khác nhau. Khách thể
bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần
được bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội
đó sẽ là khách thể của tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc
bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định. Như vậy, khách thể của tội phạm
là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [49, tr.
61].
Công dân Việt Nam có quyền bát khả xâm phạm về thân thể và được
pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Tôn trọng và
bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân là trách nhiệm của mọi người.
Đối với tội làm nhục người khác, khách thể của tội phạm là nhân
phẩm, danh dự của con người.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm.
Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bền ngoài, mà con người có thể trực tiếp nhận biết được. Đó là:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
17
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng như mối quan hệ giữa hành vi
khách quan và hậu quả.
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...).
Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội
phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài
của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên
ngoài thé giới khách quan. Mặt khách quan của tội làm nhục người khác là
một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không
có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm.

Trong mặt khách quan của tội làm nhục người khác, hành vi khách
quan là biểu hiện cơ bản. Những biểu hiện khác của mặt khách quan của tội
làm nhục người khác chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan.
Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác luôn luôn được thể
hiện dưới hình thức hành động phạm tội – là hình thức của hành vi phạm tội
làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho
nhân phẩm,, danh dự con người quan việc chủ thể làm một việc bị pháp luật
cấm như bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác như xỉ nhục, nhạo báng, chửi rủa thậm tệ, lột trần
truồng người bị hại trước đám đông, dùng phân lợn đổ vào người bị hại… Ví
dụ: tại Bản án hình sự phúc thẩm số 3888/HSPT ngày 29-10-2004, Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội kết luận: do nghi ngờ ông Nguyễn Ngọc Ninh xúi
giục bà Trần Thị Vượng tranh chấp đất với gia đình Phạm Thanh Bình, nên
sáng này 04-03-2004, trong lúc Bình cãi nhau với gia đình bà Vượng, thấy
ông Ninh, Bình lên tiếng: “thằng nào đi vào lối tranh chấp Bình sẽ chặt chân”,
ông Ninh thấy vậy đi ra khỏi cổng gia đình bà Vượng. Bình lấy xô nước đựng
sẵn phân lợn ở cổng đến chỗ ông Ninh, dùng hai tay hất xô nước phân lợn vào
18
đầu, người ông Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng, hành vi
phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến
danh dự, nhân phẩm của công dân. Phạm Thanh Bình đã phạm tội làm nhục
người khác được quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999.
Hành vi làm nhục người khác có thể được thực hiện công khai trước
mặt người đó hoặc vắng mặt người bị hại, nhưng người phạm tội có ý thức để
cho người bị hại biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác phải đến mức nghiêm trọng thì mới truy cứu
trách nhiệm hình sự. Đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ
vào thái độ, nhận thức của người phạm tội, cường độ và thời gian kéo dài của
hành vi; vị thế, vai trò của người bị hại trong gia đình, tổ chức hoặc trong xã
hội; dư luận xã hội về hành vi lăng nhục đó.

Nếu hành vi làm nhục người khác dẫn đến người bị hại tự sát, thì phải
coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm K
khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tội làm nhục người khác là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có
cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội
có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của
người khác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm của tội làm nhục người khác.
Tuy pháp luật hình sự không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc
của tội làm nhục người khác, nhưng điều đó không có nghĩa là hậu quả không
xảy ra. Thực tế cho thấy, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự
của người khác có thể gây ra thiệt hại to lớn về mặt tinh thần đối với người bị
hại, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Hậu quả không có ý nghĩa trong
việc định tội, nhưng việc xác định hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
19
làm nhục người khác với thiệt hại xảy ra, có ý nghĩa quan trọng đối với việc
giải quyết trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày
ở trên, thuộc mặt khách quan của tội làm nhục người khác còn có những nội
dung biểu hiện khác. Đó là công cụ, phương tiện, phuơng thức, thủ đoạn phạm
tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội.
Đối với tội làm nhục người khác, phương tiện, công cụ, phuơng thức,
thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội không phải là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, đây là những yếu tố có thể
ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, do vậy chúng được
coi là những tình tiết cần được xem xét khi quyết định hình phạt.
1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội làm nhục người khác phải là người có năng lực trách
nhiệm hình sự. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy

hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi đó.
Đối với làm nhục người khác, người có năng lực trách nhiệm hình sự được
hiểu là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác và có khả
năng điều khiển hành vi đó.
Tội làm nhục người khác có mức tối đa của khung hình phạt là ba năm
tù, cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là
tội phạm ít nghiêm trọng. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định: “1.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
20
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.
Như vậy, chủ thể của tội làm nhục người khác phải từ đủ 16 tuổi trở
lên.
1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Nếu mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài, thì
mặt chủ quan là mặt bên trong, là hoạt động tâm lý của người phạm tội. Mặt
chủ quan của tội làm nhục người khác gồm ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và
mục đích phạm tôi.
Tội làm nhục người khác được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xúc phạm nhân
phẩm, danh dự của người khác nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó.
Trong khoa học luật hình sự, động cơ phạm tội được hiểu là động lực
bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý, còn mục
đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải
đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.
Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội làm nhục
người khác không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, người thực hiện hành vi làm nhục người

khác có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau như ghen tuông, thù oán,
trả thù... và nhằm những mục đích khác nhau như làm nhục người khác vì vụ
lợi, gây đau khổ cho người bị hại... Người phạm tội làm nhục người khác, cho
dù xuất phát từ bất cứ động cơ, mục đích gì, cũng phải chịu trách nhiệm hình
sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, phải xem xét động cơ phạm tội, mục
đích phạm tội của người phạm tội làm nhục người khác.
21
1.2.2.5. Hình phạt được áp dụng đối với tội làm nhục người khác
Trong pháp luật hình sự hiện hành, hình phạt chính được quy định đối
với tội làm nhục người khác bao gồm: hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ và hình phạt tù có mức tối đa là ba năm tù. Khoản 1, khoản 2 Điều 121 Bộ
luật hình sự năm 1999 quy định: “1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân
phẩm, danh dự của người khác thì, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
một năm đến ba năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội làm nhục người khác
mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất một lần và chưa bị xét xử.
Hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lập lại tội làm nhục người khác
đã thực hiện trước đó, cho nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình
thường.
Phạm tội đối với nhiều người là trường hợp xúc phạm nghiêm trọng
nhân phẩm, danh dự của hai người trở lên, có thể cùng một lần hoặc nhiều lần
khác nhau.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là trường hợp người phạm

tội làm nhục người khác đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để dễ dàng
thực hiện tội phạm. Tính nguy hiểm của những trường hợp lợi dụng chức vụ,
22
quyền hạn để phạm tội làm nhục người khác là ở chỗ, chúng không những
xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, mà còn xâm
phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước.
Phạm tội đối với người đang thi hành công vụ là trường hợp xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự mà người bị hại là người đang thi hành
công vụ.
Công vụ ở đây được hiểu là những công việc vì lợi ích chung mà việc
thực hiện công việc đòi hỏi người thi hành phải có những quyền nhất định đối
với công dân khác. Tính nguy hiểm của những trường hợp làm nhục người
khác đối với người đang thi hành công vụ là ở chỗ chúng không chỉ xâm phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người, mà còn xâm phạm nghiêm
trọng đến trật tự công cộng, cản trở hoạt động chung của xã hội, gây ảnh
hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự, bởi lẽ khi thi hành công vụ, người bị
hại thay mặt Nhà nước, chứ không phải nhân danh cá nhân họ.
Phạm tội đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho
mình là trường hợp làm nhục người khác mà người bị hại là người có quan hệ
đặc biệt đối với người phạm tội.
Người dạy dỗ người phạm tội là thầy, cô giáo trong hệ thống các
trường đào tạo, giáo dục của Nhà nước hoặc của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị – xã hội, cũng có thể chỉ là người dạy dỗ theo một hợp đồng dân sự
như gia sư, huấn luyện viên… Người nuôi dưỡng người phạm tội là người có
trách nhiệm nuôi dưỡng người phạm tội do quan hệ huyết thống như bố mẹ
đối với con cái, ông bà đối với cháu, anh chị đối với em; do quan hệ hôn nhân
như người vợ hoặc người chồng không còn khả năng lao động phải sống nhờ
vào người vợ hoặc chồng; có thể do quan hệ xã hội mà phát sinh mối quan hệ
giữa người có trách nhiệm nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng như nuôi
dưỡng trẻ mồ côi, nuôi dưỡng thương bệnh binh, nuôi dưỡng người cao tuổi

23
cô đơn, nuôi dưỡng bệnh nhân… Người chăm sóc người phạm tội là những
người theo nghĩa vụ hoặc hợp đồng có trách nhiệm chăm sóc người phạm tội.
Nói chung, người có trách nhiệm nuôi dưỡng, đồng thời có trách nhiệm chăm
sóc, nhưng cũng có trường hợp người có trách nhiệm chăm sóc, nhưng không
có trách nhiệm nuôi dưỡng. Người chữa bệnh cho người phạm tội là những
người thầy thuốc như bác sĩ, y tá, nhân viên y tế; họ có thể đồng thời là người
nuôi dưỡng, chăm sóc cho người phạm tội, nhưng có thể chỉ chữa bệnh cho
người phạm tội, còn chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội là người khác.
Trong mối quan hệ đặc biệt với những người kể trên, người phạm tội
hơn ai hết phải biết ơn và kính trọng người bị hại. Với hành vi phạm tội của
mình, người phạm tội làm nhục người khác không chỉ vi phạm pháp luật hình
sự, mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo lý làm con, cháu, làm học trò, làm
người được nuôi dưỡng. Đây là trường hợp phạm tội vừa bị pháp luật hình sự
trừng trị, vừa bị dư luận xã hội lên án về mặt đạo đức.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 121, người phạm tội làm nhục người
khác còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
1.2.3. So sánh tội làm nhục người khác với một số tội phạm khác có
liên quan
1.2.3.1. So sánh tội làm nhục người khác với các tội: tội làm nhục
người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội.
Trước hết, cần phân biệt khách thể của tội làm nhục người khác với
khách thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục
cấp dưới và tội làm nhục đồng đội.
Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: trong quân đội, các
quân nhân phải giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng và nghiêm chỉnh tuân
24
theo những yêu cầu về sinh hoạt xã hội. Trong quan hệ cấp trên, cấp dưới, mọi
quân nhân phải kính trọng và tuyệt đối phục tùng người chỉ huy hoặc cấp trên.

Hành vi làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên xâm phạm nghiêm trọng mối
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người
chỉ huy hoặc cấp trên.
Đối với tội làm nhục cấp dưới: trong quan hệ chỉ huy, phục tùng, cấp
trên, cấp dưới, một mặt cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng lãnh đạo, chỉ huy,
chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh, mặt khác, cấp trên cũng phải tôn trọng
danh dự, nhân phẩm, thương yêu, giúp đỡ cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Khi
thực hiện nhiệm vụ, người chỉ huy hoặc cấp trên phải căn cứ vào chức trách,
quyền hạn được giao để tổ chức, giáo dục, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ thuộc
đơn vị mình. Pháp luật nghiêm cấm người chỉ huy hoặc cấp trên dùng các biện
pháp quân phiệt đối với cấp dưới. Hành vi làm nhục cấp dưới là trái với truyền
thống, bản chất tốt đẹp của quân đội ta. Hành vi làm nhục cấp dưới xâm phạm
nghiêm trọng mối quan hệ giữa chỉ huy với cấp dưới, xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của cấp dưới.
Đối với tội làm nhục đồng đội: hành vi làm nhục đồng đội xâm phạm
nghiêm trọng mối quan hệ đoàn kết giữa các quân nhân trong nội bộ quân đội,
xâm phạm danh dự, nhân phẩm của đồng đội.
Mặt khác, cần phân biệt chủ thể của tội làm nhục người khác với chủ
thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp
dưới và tội làm nhục đồng đội.
Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: chủ thể của tội
phạm là những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, bao gồm: quân nhân tại ngũ, quân nhân
dự bị, dân quân, tự vệ và công dân được trưng tập vào phục vụ quân đội: khi
25

×