Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - những lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.51 KB, 86 trang )



1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***







NGÔ HUYỀN NHUNG






GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM - NHỮNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN








LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***





NGÔ HUYỀN NHUNG





GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM - NHỮNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


Chuyên ngành : Luật Hình sự

Mã số : 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC NGUYỄN NGỌC CHÍ








HÀ NỘI - 2012



3
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Ngô Huyền Nhung











4
MUC LUC

Trang

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ
THẨM
7
1.1.
Khái niệm xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự
7
1.1.1.
Hoạt động xét xử của Tòa án
7
1.1.2.
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong các hệ thống pháp luật
10
1.1.3
Nguyên tắc hai cấp xét xử theo pháp luật Việt Nam
12
1.2
Xét xử sơ thẩm
15
1.2.1
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn trọng tâm trong Tố tụng hình sự
17
1.2.2
Vai trò của xét xử sơ thẩm
19

1.2.3
Nguyên tắc của xét xử sơ thẩm
21
1.3
Chủ thể của xét xử sơ thẩm
24
1.3.1
Cơ quan tiến hành tố tụng
24
1.3.2
Người tiến hành tố tụng
26
1.3.3
Người tham gia tố tụng
30
1.4
Phạm vi xét xử sơ thẩm
37
1.4.1
Thẩm quyền xét xử theo sự việc
38
1.4.2
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
39
1.4.3
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
39
1.5
Mục đích, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm
40

1.5.1
Mục đích của xét xử sơ thẩm
40
1.5.2
Ý nghĩa của xét xử sơ thẩm
40
1.6
Xét xử sơ thẩm trong mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam
41
1.6.1
Xét xử sơ thẩm trong mô hình Tố tụng hình sự tranh tụng
42
1.6.2
Xét xử sơ thẩm trong mô hình Tố tụng hình sự xét hỏi (thẩm vấn)
44
1.6.3
Mô hình tố tụng hình sự pha trộn (hỗn hợp)
45
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
49
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÉT XỬ SƠ THẨM Ở VIỆT NAM

51
2.1.
Những qui định của Bộ Luật TTHS 2003 về xét xử sơ thẩm
51


5
2.1.1

Giai đoạn chuẩn bị xét xử
51
2.1.2
Thủ tục tố tụng tại phiên tòa
54
2.2
Thực tiễn xét xử sơ thẩm ở Việt Nam những năm qua
58
2.2.1
Số lượng xét xử sơ thẩm
61
2.2.2
Chất lượng xét xử sơ thẩm
61
2.3
Những nguyên nhân dẫn đến tồn tại, thiếu sót trong xét xử sơ thẩm
63
2.3.1
Nguyên nhân chủ quan
63
2.3.2
Nguyên nhân khách quan
64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

66
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
68
3.1

Cơ sở của những kiến nghị, đề xuất
68
3.2
Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam
69
3.2.1
Xây dựng mô hình tố tụng hình sự
69
3.2.2
Xây dựng pháp luật
70
3.2.3
Nâng cao trình độ, năng lực cho Thẩm phán, Công tố viên, Điều tra viên
và Luật sư
74

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

75

KẾT LUẬN
77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
79



6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa - Nhà
nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những
chủ trương lớn, là nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai
đoạn cách mạng hiện nay. Nhất là khi tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật
diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp. Tội phạm không chỉ diễn ra trong lĩnh
vực xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, quyền sở hữu tài sản công dân; xâm phạm trật tự an toàn xã hội
mà còn diễn ra trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, bảo vệ môi trường, ma túy,
tham nhũng Thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc
biệt, tội phạm có tổ chức trong thời gian gần đây đã và đang gây ra những tác
hại khá nghiêm trọng cho trật tự trị an xã hội nói riêng và đời sống xã hội, nói
chung. Chính vì thế hoạt động của các cơ quan tư pháp càng ngày càng có ý
nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp đang ngày trở nên ngày một bức xúc.
Tuy nhiên công cuộc cải cách tư pháp trên thực tế còn rất nhiều vướng mắc:
Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi
của nhân dân; Chính sách hình sự còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ
sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ
quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu; trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có
một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn
còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Vì thế, việc
nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, nơi thể hiện tập trung nhất của quyền
tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể
trước pháp luật, được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp và
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
hiện nay.



7
Để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải
cách kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp thúc đẩy quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quán triệt tư tưởng,
quan điểm, định hướng về cải cách tư pháp, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các
cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Toà án nhân dân; coi cải cách trong công tác xét xử là khởi điểm mang tính
đột phát, là động lực, là tiền đề thúc đẩy công tác cải cách trong các hoạt động
tố tụng khác.
Để thực hiện được nhiệm vụ, mục tiêu đó, đòi hỏi các cơ quan tư pháp
phải thực hiện tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình. Đặc biệt chất lượng
xét các vụ án hình sự phải được đảm bảo ngay từ giai đoạn sơ thẩm. Đó là
giai đoạn mà vụ án được Tòa án đưa ra xét xử lần đầu theo quy định của pháp
luật. Tại phiên toà sơ thẩm đó, Hội đồng xét xử sau khi nghiên cứu khách
quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, ra bản án khẳng định bị cáo
có tội hoặc không có tội và áp dụng hình phạt đối với bị cáo hay không. Do
vậy, đảm bảo chất lượng xét xử ngay từ cấp sơ thẩm có ý nghĩa to lớn nhằm
khắc phục được tình trạng án oan, sai, góp phần quan trọng vào việc đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhưng thực
tiễn cho thấy chất lượng phiên toà sơ thẩm nói riêng và công tác tư pháp nói
chung vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm,
làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Vì vậy
việc nghiên cứu vấn đề về xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn góp



8
phần nâng cao hiệu quả của công tác xét xử và đáp ứng công cuộc cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài:
“Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - những vấn đề
lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu
khoa học, bài viết đề cập đến một số vấn đề trong giai đoạn sơ thẩm của các
tác giả như: Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định của
tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng - TS. Hoàng Minh
Sơn; Bàn về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm - Đinh Văn Quế; Bàn về tính
chất của xét xử sơ thẩm và thời điểm bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật - Vũ Gia Lâm; Hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - những vấn
đề lý luận và thực tiễn: Luận văn thạc sĩ luật học Nguyễn Thị Hồng Hà; Thủ
tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm: Luận văn thạc sĩ luật học
Nguyễn Hải Ninh; Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003: Luận văn thạc sĩ luật học Đào Trung Kiên
Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu đề cập đến từng vấn đề riêng lẻ trong
quá trình thực hiện tố tụng tại phiên toà sơ thẩm như tranh tụng, xét hỏi ,
chưa có một công trình độc lập nghiên cứu một cách tổng quát về cả quá trình
xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Vì vậy, vấn đề Giai đoạn xét
xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực
tiễn vẫn đang là một vấn đề cần được nghiên cứu và hoàn thiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giai đoạn xét xử sơ thẩm,
luận văn nêu ra một số quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện



9
pháp luật về giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam theo
yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích cơ sở lý luận về xét xử sơ thẩm ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng xét xử sơ thẩm ở Việt Nam.
+ Đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm các vấn đề về giai đoạn xét
xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam - lý luận và thực tiễn.
Phân tích thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật để tìm ra những
mặt tích cực và chưa tích cực, từ đó đưa ra những kiến nghị về hoàn thiện
pháp luật về giai đoạn xét xử sơ thẩm, cũng như đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của giai đoạn xét xử sơ thẩm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu về các vấn đề pháp lý
có liên quan tới giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam -
những vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật.


10
- Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các

phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng
hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và phương pháp xã hội học để làm sáng
tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Dự kiến đóng góp về khoa học và thực tiễn
- Luận văn nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cả về lý luận và thực
tiễn một số vấn đề về giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án;
- Phát hiện và dự báo trước những vướng mắc có thể nảy sinh trong
thực tiễn áp dụng, từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả
các quy định của pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thời điểm hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn trong việc nâng cao hiệu quả của giai đoạt xét xử sơ thẩm góp phần quan
trọng vào việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ vững an ninh trật
tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới của Nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
* Phần mở đầu: Gồm tính cấp thiết của đề tài, tình hình nghiên cứu;
mục đích và nhiệm vụ của luận văn; đối tượng và phạm vi nghiên cứu;
phương pháp nghiên cứu, dự kiến những đóng góp về khoa học và thực tiễn
và ý nghĩa của luận văn.
* Phần nội dung gồm ba chương:


11
Chương 1. Những vấn đề lý luận về Giai đoạn xét xử sơ thẩm
Trong chương này, đề cập đến một số vấn đề chung mang tính lý luận

về Giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Chương 2. Thực trạng xét xử sơ thẩm ở Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm trong
Tố tụng hình sự.
* Phần kết luận: tóm tắt kết quả nghiên cứu, khẳng định lại vai trò quan
trọng của việc nghiên cứu “Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn”.

















12
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
1.1 Khái niệm xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự
1.1.1 Hoạt động xét xử của Tòa án
Ngay từ khi Nhà nước xuất hiện đã có xét xử và có Tòa án. Tòa án là

cơ quan quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện
quyền lực tư pháp của mình. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục
công dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và
chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung thì Tư pháp tức là pháp đình, là Tòa
án, là y theo pháp luật mà xét định các việc trong phạm vi pháp luật do vậy,
“hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi vi phạm các qui
định của pháp luật nhà nước”. Tuy nhiên, ngay từ đầu chức năng xét xử
không phải được giao cho Tòa án mà là do Nhà vua trong nhà nước quân chủ
tuyệt đối nắm giữ. Trong nhà nước này, nhà vua ban hành pháp luật, thực hiện
pháp luật và cũng đồng thời là người xét xử. Do đó việc phán xét, quyết định
một hành vi có vi phạm pháp luật hay không, quyền lợi của công dân có được
đảm bảo hay không, có thể không khách quan, không công minh, không bảo
vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Vì thế có thể nói khi nhà nước tư sản
ra đời, bằng việc xây dựng mô hình nhà nước phân quyền, đã chứng tỏ sự tiến
bộ của xã hội loài người. Quyền lực của nhà vua bị hạn chế, mà thay vào đó là
khẳng định sự độc lập của quyền tư pháp. Hoạt động nhà nước được chia
thành ba nhánh quyền lực: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự độc lập
tư pháp là một trong những đảm bảo quan trọng trong việc bảo đảm quyền
bình đẳng, quyền tự nhiên của con người, nhất là trong việc chống lại tình
trạng tham nhũng, lợi dụng quyền lực của những người cầm quyền do đam
mê quyền lực và vụ lợi họ đã xâm phạm đến các quyền của con người trong


13
xã hội. Trong nhà nước tư sản này, quyền tài phán của Tòa án trở thành một
nhánh quyền lực của nhà nước, là hoạt động của nhà nước xét xử các tranh
chấp trong xã hội giữa các cá nhân với nhau và phán quyết hành vi của công
dân có vi phạm pháp luật nhà nước hay không. Cùng với sự phát triển ngày
càng lớn mạnh của xã hội thì đối tượng hoạt động xét xử của Tòa án cũng

ngày càng được mở rộng. Lúc mới ra đời hoạt động xét xử chỉ được áp dụng
cho các “thần dân” có hành vi chống lại nhà nước, các vi phạm giữa các cá
nhân được giải quyết chủ yếu bằng con đường “tự xử”. Càng về sau, các
quyền tự do dân sự, chính trị của công dân dần dần được pháp luật thừa nhận,
sự vi phạm các quyền đó được nhìn nhận như là xâm phạm tới lợi ích, trật tự
chung và do đó chúng là đối tượng của hoạt động xét xử của Tòa án.
So với các Tòa án trong một nhà nước không có chủ trương xây dựng
một Nhà nước pháp quyền, thì trong một xã hội pháp quyền, Tòa án có một vị
trí vai trò vượt trội. Trong một Nhà nước pháp quyền, việc kết tội một công
dân có tội hay không có tội chỉ được thực hiện thông qua một hoạt động duy
nhất của Tòa án là xét xử vụ án, không cơ quan nào khác được làm thay Tòa
án chức năng này. Một nguyên tắc được thừa nhận chung của nền văn minh
pháp lý nhân loại là: Không có ai bị coi là có tội cũng như phải chịu hình
phạt, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tòa án
có quyền xét xử mọi hành vi phạm pháp luật và mọi tranh chấp phát sinh
trong xã hội từ những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế,
hành chính cho đến các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Đặc trưng
này không giống với hoạt động phán quyết, hòa giải của các cơ quan, tổ chức
xã hội khác. Nó không phải là sự phán quyết của cấp trên đối với cấp dưới
trong quản lý hành chính và càng không phải là hoạt động trung gian hòa giải
và dàn xếp là đặc trưng trong lĩnh vực quan hệ hợp đồng kinh tế. Hoạt động
xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh Nhà nước áp dụng pháp luật vào
việc giải quyết các tranh chấp, xét xử các vi phạm pháp luật cụ thể. Hoạt động


14
xét xử có thể dẫn đến chỗ công dân, pháp nhân, các tổ chức được hưởng các
quyền, lợi ích hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất định cho nên hoạt động
xét xử của Tòa án có tính tổ chức rất chặt chẽ. Tòa án khi xét xử một vụ việc
cụ thể phải tuân theo những trình tự, thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt,

không được tùy tiện bỏ qua một thủ tục nào. Chính vì vậy, phán quyết của
Tòa án có hiệu lực bắt buộc, bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân
tôn trọng thực hiện. Mọi chủ thể liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành phán
quyết của Tòa án. Không một cơ quan, tổ chức hay một cá nhân nào có quyền
sửa phán quyết đó. Bởi tính hiệu lực cao của bản án và quyết định của cơ
quan Tòa án như vậy nên pháp luật tố tụng quy định việc sửa đổi, hủy bỏ các
văn bản đó không phải như các văn bàn hành chính đơn thuần mà phải thông
qua trình tự tố tụng nghiêm ngặt bằng thủ tục kháng cáo hoặc kháng nghị.
Ngoài ra, Tòa án không chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn cả tính đúng
đắn của hành vi. Vì vậy, ngoài căn cứ vào pháp luật, khi xét xử, tòa án còn
căn cứ vào công lý. Biểu hiện của công lý chính là sự công bằng, khách quan,
vô tư và tình người. Ở Anh quốc, một quốc gia theo luật Common Law, ngoài
hệ thống luật án lệ thì họ còn xét xử theo luật công bình (equity). Nguyên tắc
xét xử là mọi phán quyết đều phải nhân danh công lý. Với những quốc gia
theo luật Châu Âu lục địa, tuy xét xử theo hệ thống luật thực định nhưng công
lý vẫn phải được đảm bảo với mục đích mọi phán quyết đều dẫn đến sự công
bằng, khách quan, vô tư. Quy phạm pháp luật có thể là cứng nhắc, máy móc
và không thể quy định hết cho mọi trường hợp cụ thể. Tòa án nhân danh công
lý, áp dụng pháp luật linh hoạt để sao cho công bằng không bị bóp méo theo
điều cứng nhắc, đóng khung của pháp luật. Đây cũng chính là lý do Tòa án
cần được trao thẩm quyền giải thích luật trong việc áp dụng các điều luật cho
từng trường hợp cụ thể. Pháp luật và công bằng là hai khái niệm không hoàn
toàn đồng nhất. Pháp luật đôi khi chưa phải là công bằng nhưng trong xét xử


15
phải đảm bảo công bằng. Công bằng là một trong những yêu cầu của nhà
nước pháp quyền.
Ở Việt Nam, với chủ trương xây dựng một nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa, Tòa án có một vai trò và vị trí quan trọng, với chức năng được
giao là xét xử các vụ án, thông qua một Hội đồng xét xử gồm có thẩm phán,
hội thẩm nhân dân các vi phạm pháp luật được xử lý, các tranh chấp được giải
quyết đã bảo vệ được lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công
dân, có tác dụng tuyên truyền giáo dục và góp phần đấu tranh, phòng chống
tội phạm. Tại phiên tòa các kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa,
giám định tư pháp đều được kiểm tra, đánh giá, xem xét một cách khách
quan, công khai để từ đó phán xét cuối cùng mang tính quyền lực nhà nước
được đưa ra và bắt buộc mọi cá nhân, tổ chức phải thi hành.
Pháp luật nước ta quy định nguyên tắc xét xử hai cấp, sơ thẩm và phúc
thẩm để đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án là phải đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, tránh xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm
1.1.2 Nguyên tắc hai cấp xét xử trong các hệ thống pháp luật
Hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân thủ chặt chẽ theo các nguyên tắc
xét xử, đó là phải có hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm.
Bởi vì ngày nay cùng với sự phát triển của Nhà nước và pháp luật, pháp luật
và hoạt động của Nhà nước ngày càng can thiệp sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Việc vi phạm pháp luật ngày càng mở rộng ra các lĩnh vực khác
nhau. Do đó việc tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử không chỉ đảm bảo
độc lập cho Tòa án mà còn đảm bảo cho việc xét xử có hiệu quả, xóa bỏ tình
trạng án tồn đọng, án oan sai do thiếu kinh nghiệm xét xử và thiếu khả năng
chuyên môn. Ngoài ra việc thực hiện hai cấp xét xử sẽ giúp cho Tòa án cấp
trên có thể xem xét lại phán quyết của Tòa án cấp dưới theo thủ tục kháng
cáo, kháng nghị nhằm đảm bảo sự công bằng, tránh oan sai cho các đương sự,


16
bị can, bị cáo là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc xem xét lại các phán quyết của
Tòa án cấp dưới đó cũng bắt buộc phải được tiến hành theo các thủ tục tố tụng
chặt chẽ, không thể tùy tiện được, nhằm đảm bảo tính độc lập giữa Tòa án cấp

trên với Tòa án cấp dưới.
Trong Luật tố tụng hình sự cũng như tổ chức tư pháp, người ta thường
đề cập tới cấp xét xử. Trong khoa học pháp lý Liên Xô (cũ), người ta quan
niệm cấp xét xử như là “giai đoạn xem xét vụ án tại Toà án với thẩm quyền
xác định”. Theo quan niệm này, người ta cho rằng trong tố tụng tồn tại các
cấp xét xử là xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm và tái
thẩm. Và cấp xét xử đơn thuần là khái niệm tố tụng chung, thể hiện một giai
đoạn xét xử nhất định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, dân sự, kinh
tế, lao động, hành chính, v.v
Như vậy, khái niệm cấp xét xử không phải là khái niệm tố tụng đơn
thuần. Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà
nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong
phán quyết của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Vì vậy,
các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ án có thể được tổ chức xét xử nhiều
lần và tổ chức hệ thống toà án để thực hiện nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp
xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố tụng; nó còn liên quan nhiều đến
cách tổ chức tố tụng, tổ chức toà án để thực hiện việc xét xử lại vụ án.
Hiện nay, trong pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia đều thực hiện
nguyên tắc hai cấp xét xử, tức vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn định
luật được Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Còn các
bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc được xác định trong tố tụng
hiện đại. Nguyên tắc này được ghi nhận trong các công ước quốc tế, đặc biệt


17
là Công ước về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc, Quy chế về Toà
án hình sự quốc tế. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong pháp luật quốc

gia của các nước thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau.
Tuy nhiên, ở nhiều nước, các toà án được tổ chức theo cấp xét xử,
nhưng điều đó không có nghĩa là việc xét xử sơ thẩm toàn bộ các vụ án đều
giao cho một loại toà án, mà xét xử phúc thẩm được giao cho một loại toà án
khác… Tổ chức toà án theo cấp xét xử ở đây được hiểu theo nghĩa tố tụng,
chứ không phải theo nghĩa tổ chức hành chính. Ví dụ, tại Cộng hoà Pháp có
các loại toà sơ thẩm hình sự khác nhau là Toà vi cảnh, Toà tiểu hình và Toà
đại hình; còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm cũng do hai loại toà án theo cấp
hành chính khác nhau thực hiện.
1.1.3. Nguyên tắc hai cấp xét xử theo pháp luật Việt Nam
- Thời kỳ 1945 - 1960
Ngay từ ngày đầu tồn tại Nhà nước dân chủ nhân dân, Nhà nước ta đã
thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Về mặt tổ chức, Điều thứ 63 Hiến pháp
năm 1946 quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
gồm có Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ
cấp. Theo Sắc lệnh số 85-SL ngày 22/5/1950 thì các Toà án ở nước ta gồm có
Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân phúc thẩm
khu hoặc thành phố và Toà án nhân dân tối cao; trong đó các Toà án nhân dân
huyện và Toà án nhân dân tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án. Đến
năm 1959, các Toà án phúc thẩm thành phố, liên khu được nhập lại thành các
Toà án nhân dân phúc thẩm Hà Nội, Hải Phòng và Vinh với nhiệm vụ chủ yếu
là xử lại những án bị kháng cáo của các Toà án nhân dân thành phố và tỉnh.
Các Toà án nhân dân phúc thẩm là một ấp Toà án ở giữa Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố và Toà án nhân dân tối cao (Thông tư số 92-Tc ngày
11/11/1959 của Liên bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao).


18
Đến năm 1952, Nghị định số 32-NĐ ngày 6/4/1952 quy định thẩm
quyền của các Toà án nhân dân, trong đó Toà án nhân dân huyện có thẩm

quyền xét xử sơ thẩm hoặc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm một số loại
vụ án; Toà án nhân dân tỉnh xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm (chung thẩm)
đối với các vụ án mà Toà án nhân dân huyện đã xét xử sơ thẩm.
Như vậy, từ góc độ tổ chức và tố tụng, nguyên tắc hai cấp xét xử ở
nước ta thời kỳ này được thực hiện tương đối linh hoạt. Từ chỗ tổ chức toà án
theo cấp xét xử kết hợp với hành chính lãnh thổ với chức năng tố tụng rõ ràng
chuyển sang tổ chức toà án theo đơn vị hành chính lãnh thổ là chủ yếu và
phân công thực hiện chức năng tố tụng trong mỗi toà án. Việc xét xử sơ thẩm
đồng thời chung thẩm được thực hiện đối với một số vụ án dân sự, thương sự
có giá ngạch thấp, một số vụ án hình sự về tội vi cảnh. Các Toà án phúc thẩm
độc lập với Toà án nhân dân tối cao.
- Thời kỳ 1960 - 1988
Ngày 14/7/1960, Luật Tổ chức Toà án nhân dân đầu tiên được ban
hành. Và cũng trong Luật này, lần đầu tiên về mặt luật định, nguyên tắc hai
cấp xét xử được ghi nhận. Điều 9 của Luật khẳng định: Toà án nhân dân thực
hành chế độ hai cấp xét xử. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định
của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà án nhân dân trên một cấp. Viện
Kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc
quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân. Nếu đương sự không chống án và
Viện Kiểm sát nhân dân không kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy
định thì bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân địa phương sẽ có
hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định phúc thẩm của các Toà án nhân dân,
bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tối cao là chung thẩm. Các
bản án tử hình phải được Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao duyệt lại trước khi thi hành.


19
Theo quy định của điều luật thì chế độ hai cấp xét xử bao gồm các nội
dung sau đây:

+ Các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân địa phương bị
kháng cáo hoặc kháng nghị trong thời hạn luật định thì do Toà án trên một
cấp xét xử lại theo trình tự phúc thẩm;
+ Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời
chung thẩm;
+ Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là bản án, quyết định sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định; bản án, quyết
định phúc thẩm và bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tối cao;
+ Các bản án tử hình chỉ được thi hành khi có hiệu lực pháp luật và
được Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà án nhân dân tối cao duyệt.
Đồng thời, Luật cũng quy định hệ thống Toà án nước ta gồm có Toà án
nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương (theo đơn vị hành chính
lãnh thổ) và các Toà án quân sự.
Như vậy, theo Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 thì hệ thống toà án
nước ta được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Các toà án có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm là Toà án cấp huyện và Toà án cấp tỉnh; các toà án có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm là Toà án cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao.
Các Toà án nhân dân phúc thẩm bị bãi bỏ. Chức năng này do các Toà án nhân
dân cấp tỉnh hoặc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao (toà chuyên trách)
thực hiện.
Về mặt tố tụng, ngoài việc giải quyết nội dung kháng cáo, kháng nghị,
Toà án cấp phúc thẩm có quyền huỷ bản án, quyết định sơ thẩm để Toà án sơ
thẩm xét xử lại theo hướng nặng hơn dù không có kháng cáo, kháng nghị về
vấn đề đó. Còn Toà án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có
quyền sửa bản án theo hướng có lợi cho người bị kết án…



20
- Thời kỳ từ 1989 đến nay

Những tư tưởng chính của Luật Tổ chức Toà án nhân dân 1960 được
giữ lại trong Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1980 và Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988. Mặc dù chế độ hai cấp xét xử không được ghi nhận cụ thể
trong các văn bản pháp luật này, nhưng nội dung cụ thể của nó vẫn được thể
hiện đầy đủ; có những nội dung có sự tiến bộ hơn. Ví dụ: Về quyền hạn, Toà
án cấp phúc thẩm không có quyền làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc huỷ
bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử lại vụ án theo hướng làm nặng thêm tình
trạng của đương sự nếu không có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề đó.
Tiếp tục đến Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 và Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003. Nguyên tắc hai cấp xét xử lại được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật này; huỷ bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung
thẩm của Toà án nhân dân tối cao; tính chất của phúc thẩm được khẳng định
là xét xử lại vụ án và bằng cách sửa đổi quyền hạn của Toà giám đốc thẩm,
Luật khẳng định rằng đó chỉ là thủ tục đặc biệt (phá án) chứ không phải là
một cấp xét xử…
1.2 Xét xử sơ thẩm
Một vụ án hình sự được giải quyết thường được bắt đầu từ khi cơ quan
có thẩm quyền nhận được tin báo và tố giác về tội phạm đến khi có bản án kết
tội hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực được mang ra thi hành. Quá trình
này được chia thành các giai đoạn khác nhau phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng và được diễn ra liên tục, kế tiếp nhau.
Các giai đoạn đó gồm: 1/ Khởi tố vụ án hình sự; 2/ Giai đoạn điều tra và truy
tố; 3/ Xét xử sơ thẩm; 4/ Xét xử phúc thẩm; 5/ Thi hành bản án và quyết định
có hiệu lực pháp luật.
Mỗi giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự có nhiệm vụ và định
hướng khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan,


21
toàn diện đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan tiến hành tố tụng

thực hiện.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì xét xử được coi là giai
đoạn trung tâm và đóng vai trò quan trọng. Đó là một giai đoạn kết thúc của
cả một quá trình giải quyết một vụ án hình sự, được coi là đỉnh cao của quyền
tư pháp, bởi vì ở giai đoạn này việc xem xét toàn bộ các chứng cứ chứng
minh hành vi phạm tội, toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất.
Việc tìm hiểu, giải thích, làm sáng tỏ giai đoạn xét xử sơ thẩm không chỉ
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà còn
có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong thực tiễn lập pháp đã đưa ra khái niệm khá chính xác về xét xử
sơ thẩm. Từ điển luật học định nghĩa:
- Xét xử: Là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các tòa
án. Các tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm
chức năng xét xử. Mọi bản án do các tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Không
một ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các tòa án và kết quả xét
xử phải được công bố bằng bản án.
- Sơ thẩm: Lần đầu tiên đưa một vụ án ra xét xử tại một tòa án có thẩm
quyền.
Theo đó có thể thấy rằng: Xét xử sơ thẩm là giai đoạn mở đầu cho toàn
bộ hoạt động xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm).
Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 còn quy định tại cấp sơ thẩm, vụ
án được xét xử theo nguyên tắc trực tiếp, bằng lời nói và liên tục. Tòa án chỉ
xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy
tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Kết thúc giai đoạn xét xử sơ thẩm là
việc Hội đồng xét xử ra các bản án, quyết định định tội danh cho bị cáo có tội


22
hay không có tội và các hình phạt bổ sung khác nếu có. Bản án trong giai

đoạn này nếu không bị kháng cáo, kháng nghị, bản án sẽ được thi hành và kết
thúc toàn bộ các quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm về giai đoạn xét xử sơ thẩm như sau:
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét xử (sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm), là giai đoạn quan trọng nhất
của toàn bộ quá trình tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa sơ thẩm, các tài liệu,
chứng cứ của vụ án được Hội đồng xét xử xem xét một cách công khai nhằm
giải quyết vụ án bằng việc đưa ra kết quả bằng một bản án với việc định tội
danh, quyết định hình phạt đối với người phạm tội và các biện pháp tư pháp
cần thiết khác được cần thiết.
1.2.1. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn trọng tâm trong Tố tụng
hình sự
Xét xử hình sự sơ thẩm là cấp xét xử lần đầu đối với bất kỳ vụ án hình
sự nào. Đây cũng là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự và
được bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi Tòa án ra
bản án hình sự sơ thẩm kết tội bị cáo hoặc tuyên không phạm tội.
Trong giai đoạn này, cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án, theo đó người
tiến hành tố tụng gồm có Chánh án, Phó chánh án Tòa án, thẩm phán, hội
thẩm, thư ký Tòa án, trong đó thẩm phán có vị trí đặc biệt quan trọng, là
người duy nhất có thẩm quyền thay mặt Hội đồng xét xử tuyên bị cáo có tội,
hay không có tội và phải chịu hình thế nào.
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định rõ ràng những
người tham gia tố tụng gồm: bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của
họ, ngoài ra còn có người làm chứng, người bào chữa, người giám định,
người phiên dịch, trong đó bị cáo vẫn là nhân vật trung tâm của xét xử.


23
Về nguyên tắc, việc xét xử vụ án hình sự theo trình tự sơ thẩm bắt buộc

phải tiến hành thông qua các thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận,
nghị án, tuyên án và do Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán và hai Hội thẩm tiến
hành (trong trường hợp cần thiết hoặc pháp luật quy định thì có thể gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm) và phải tuân thủ các nguyên tắc: Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là một đặc
thù của giai đoạn sơ thẩm, nó có tính quyết định đến các bản án sơ thẩm, bởi
chỉ duy nhất ở giai đoạn này mới có quy định bắt buộc về thành phần Hội
đồng xét xử là phải có hội thẩm tham gia, chỉ cần không đủ thành phần Hội
đồng xét xử thì phiên tòa không thể được diễn ra. Như vậy, quy định này đã
đảm bảo cho nguyên tắc quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử được
thực hiện, đã chứng tỏ bằng hoạt động xét xử, Tòa án vừa giáo dục công dân
trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội
phạm, vừa bảo vệ được lợi ích chính đáng của nhân dân.
Ngoài ra, hoạt động xét xử còn phải tuân thủ các nguyên tắc như: xét
xử công khai, trực tiếp, bằng lời nói và liên tục; Tòa án xét xử tập thể và
quyết định theo đa số; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Thông
qua các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định, căn cứ vào các quy định của
pháp luật nội dung, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước ra bản án để phán
xét một hành vi nào đó là tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm, khác với các giai đoạn khác, vì là xét xử lần
đầu nên hầu hết những người tham gia tố tụng đều được triệu tập để tham gia
phiên tòa và tất cả các nguyên tắc của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự
đều được áp dụng. Ở giai đoạn này, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ
quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được đem ra xem
xét một cách công khai tại phiên tòa. Nếu ở những giai đoạn điều tra những
người tham gia tố tụng được triệu tập chỉ để lấy lời khai, thu thập chứng cứ


24

thì ở giai đoạn này lần đầu tiên những người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn,
bị cáo được bào chữa hoặc tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Tòa
án lúc này ở vị trung tâm, đứng ở giữa hai bên: bên buộc tội (điều tra viên,
công tố viên, người bị hại) và bị can, bị cáo để chứng minh tội phạm. Dựa
trên những chứng cứ chứng minh, lời trình bày, bào chữa từ hai bên, Hội
đồng xét xử không dựa trên bất kỳ lý lẽ nào của một bên nào, và cũng không
thiên vị về phía bên nào, mà độc lập tự mình cân nhắc, xem xét, đánh giá lý lẽ
của hai bên từ đó đưa ra kết luận cuối cùng bằng bản án tuyên bị cáo có tội
hay không có tội, hoặc quyết định tạm đình chỉ hay đình chỉ vụ án. Rõ ràng,
điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động xét xử của Tòa án, mà ở đây
cụ thể là hoạt động xét xử ngay từ giai đoạn sơ thẩm. Vì ngay từ đầu khi vụ
án được đưa ra xét xử, nếu vụ án được xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật sẽ nhanh chóng chứng minh được tội phạm, vừa có tác dụng phòng
ngừa tội phạm, vừa có tác dụng tuyên truyền giáo dục nhân dân, nhưng nếu
xét xử ở giai đoạn này không đảm bảo sự công bằng thì dẫn đến không chỉ
làm oan sai, bỏ lọt tội phạm mà còn gây nên dư luận không tốt, mất niềm tin
trong nhân dân. Bởi vì chúng ta đều biết, Tòa án là cơ quan đại diện cho
quyền lực Nhà nước, mỗi phán quyết của Tòa án đều mang tính bắt buộc các
bên phải thi hành. Do đó khi hành vi phạm tội xẩy ra người ta chỉ tin vào phán
quyết cuối cùng của Tòa án, vì thế đòi hỏi ngay từ đầu khi đưa ra xét xử, tức ở
giai đoạn sơ thẩm, Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử phải đảm bảo được sự
đúng đắn trong việc chứng minh tội phạm.
1.2.2 Vai trò của xét xử sơ thẩm
Theo pháp luật tố tụng Việt Nam hiện hành, thì xét xử sơ thẩm được
xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình
sự, được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp, do đó đòi hỏi những người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải có đủ năng lực để đảm bảo



25
các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục,
nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật. Do đó,
thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán,
của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố
tụng tố tụng khác. Cũng thông qua phiên toà mà Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm
sát viên, Luật sư nâng cao được trình độ nghiệp vụ năng lực công tác và kỹ
năng nghề nghiệp; những người dự phiên toà hiểu biết thêm về pháp luật,
củng cố thêm lòng tin vào Toà án. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ thẩm tốt
có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà còn có tác dụng đối
với việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân. Vai trò và ý nghĩa của
giai đoạn này được thể hiện trên các bình diện chủ yếu như sau:
- Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của toàn
bộ quá trình tố tụng hình sự nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết
do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết
định mà cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ
án hình sự sang Tòa án, nhằm loại trừ các những hậu quả tiêu cực của các sơ
xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự
trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả
lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án;
- Bằng việc xét xử sơ thẩm thông qua quá trình điều tra trực tiếp tại
phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của các bên, Tòa
án với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một cách toàn
diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để
giải quyết về bản chất nó - phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không)
của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo nhằm đạt mục đích trong toàn bộ
các giai đoạn tố tụng hình sự là tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực
pháp luật một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức
thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.

×