Tải bản đầy đủ (.doc) (198 trang)

các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự việt nam thựctrạng, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.94 KB, 198 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các biện pháp cỡng chế tố tụng hình sự (TTHS) thì các
biện pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các
BPNC nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng có các điều kiện thuận lợi để giải
quyết các vụ việc, ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội đang chuẩn bị thực
hiện hoặc đang xảy ra, góp phần đắc lực cho việc phát hiện và xử lý kịp thời
các hành vi phạm tội. Trong số các BPNC, thì bắt, tạm giữ, tạm giam là những
biện pháp mang tính cỡng chế rất nghiêm khắc. Nếu bắt, giam, giữ oan, sai sẽ
xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của công dân và các quyền, lợi ích hợp
pháp của con ngời đợc pháp luật bảo hộ. Ngợc lại, không bắt, giam, giữ ngời
phạm tội để những ngời đó vẫn t do ngoài vòng pháp luật, tiếp tục gây án
hoặc trốn tránh gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý vụ án cũng là làm thiệt
hại đến quyền lợi của con ngời, của cộng đồng, làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với Nhà nớc.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) đất nớc ta xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, việc xây dựng pháp luật đã đạt đợc những
thành tích đáng kể. Lần đầu tiên Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ra đời quy
định trình tự, thủ tục của việc điều tra - truy tố - xét xử và thi hành án hình sự.
Việc bắt, tạm giữ, tạm giam đã đợc quy định khá cụ thể tại chơng V và một số
điều trong các chơng khác của BLTTHS 1988.
Trải qua quá trình thực hiện, BLTTHS 1988 đã nhiều lần đợc sửa đổi
bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi giai đoạn. Mặc dù pháp luật
quy định về các trờng hợp bắt, tạm giữ, tạm giam ngày càng cụ thể, ngày càng
hoàn thiện hơn, song thực tiễn áp dụng các biện pháp này cho thấy tình hình vi
phạm pháp luật vẫn còn khá phổ biến. Đó là việc bắt, tạm giữ, tạm giam
không đúng đối tợng, không đúng thủ tục, sai thẩm quyền. Lạm dụng việc bắt
1
khẩn cấp, bắt quả tang, tạm giữ thuộc vi phạm hành chính để áp dụng theo
quy định của luật TTHS dẫn đến nhiều trờng hợp bắt, giữ, giam oan, sai ngời
dân vô tội. Mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều biện pháp kiểm


tra, chấn chỉnh song thực tế vi phạm vẫn xảy ra, nhiều vụ gây hậu quả nghiêm
trọng đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nớc và cơ quan
bảo vệ pháp luật.
Một số vụ án oan sai điển hình trong đó có áp dụng các BPNC bắt, tạm
giữ, tạm giam nh vụ: Nguyễn Ngọc Long ở Tây Ninh bị bắt giam gần 6 năm; vụ
Trần Trung Hiếu ở Đông Triều - Quảng Ninh bị bắt giam 14 tháng; vụ Lại Xuân
Hải ở Điện Biên - Lai Châu bị bắt giam 36 tháng; vụ Đỗ Cao Sen và Trơng Thị
Liễu bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại Thành phố Hồ
Chí Minh tuyên phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Giám đốc thẩm tuyên
không phạm tội trong khi đó ông Sen và bà Liễu đã bị bắt giam 16 tháng; vụ
Vũ Biên Thùy ở Easup - Đắc Lắc bị bắt và tạm giam 2 lần tổng cộng 165 ngày,
sau đó Tòa tuyên không phạm tội [2].
Trớc tình hình nh vậy, để chấn chỉnh một bớc quan trọng công tác t
pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nớc pháp quyền, Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ơng Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết
lãnh đạo công tác t pháp, trong đó có việc chỉ đạo, chấn chỉnh các hoạt động bắt,
tạm giữ, tạm giam là một trong những nội dung quan trọng và cấp thiết. Chỉ
thị 53/CT-TW ngày 21-3-2000 của Trung ơng Đảng Cộng sản Việt Nam về một
số công việc cấp bách của các cơ quan t pháp cần thực hiện trong năm 2000 đã
nêu: " việc bắt, giam phải đợc xem xét, phê chuẩn đối với từng trờng hợp, từng
đối tợng cụ thể; đối với trờng hợp bắt, giam cũng đợc hoặc không bắt, giam
cũng đợc thì không bắt, giam" [21].
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác t pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ:
Tăng cờng công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo
đúng pháp luật; những trờng hợp cha cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì
2
kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện
và xử lý kịp thời các trờng hợp oan sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các
cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm

giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình [23].
Để khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của ngời bị oan trong hoạt động
TTHS, nâng cao trách nhiệm của ngời có thẩm quyền trong hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, ngày 17-3-2003 ủy ban Thờng
vụ Quốc hội nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã ra nghị
quyết về bồi thờng thiệt hại cho ngời bị oan do ngời có thẩm quyền trong hoạt
động TTHS gây ra [1].
2. Tình hình nghiên cứu về chế định bắt, tạm giữ, tạm giam
Để thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nớc, chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về t pháp hình sự, trong thời
gian qua đã có một số sách báo pháp lý ở nớc ta đã tiến hành nghiên cứu về
việc xây dựng và áp dụng các BPNC nêu trên nh một số bài viết đăng tải trên
các tạp chí nh: Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) (trớc là Tập san Tòa án), tạp
chí Dân chủ và Pháp luật (trớc là Tạp chí Pháp chế xã hội chủ nghĩa) của các
tác giả Võ Quang Nhạn, Phạm Thái, Đặng Văn Doãn hay cuốn "Những điều
cần biết về bắt, giữ, khám xét" của các tác giả Phạm Quang Mỹ, Phạm Hữu Kỳ
(Nxb Công an nhân dân, 1983). Ngày 28-6-1988 Quốc hội nớc Cộng hòa
XHCN Việt Nam đã thông qua BLTTHS, sự ra đời của Bộ luật này đã tạo cơ
sở pháp lý cho việc nghiên cứu các chế định TTHS nói chung và về các BPNC
bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng. Rất nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học,
cao đẳng, trờng nghề nh Trờng Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật Trờng Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà nội, khoa Luật của
các học viện nh Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Trờng Cao đẳng Kiểm
sát Hà Nội, trờng Đào tạo các chức danh T pháp đã đề cập, nghiên cứu về các
BPNC nêu trên, không những thế các BPNC đó còn là đối tợng nghiên cứu của
3
một số tài liệu chuyên khảo hoặc bình luận nh: "Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự" của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ T pháp - 1990,
1992; cuốn "Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự" của Viện
Nghiên cứu Nhà nớc và Pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, 1994; cuốn

"Những điều cần biết về bắt ngời, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật" của
Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, 1993; cuốn
"Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng"
của Nguyễn Vạn Nguyên, Nxb Công an nhân dân, 1995; các bài viết của các
tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, Mai Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Văn Điệp,
Vũ Gia Lâm, Nguyễn Nông, Vũ Tiến Trí đăng trên các tạp chí, đặc san
chuyên ngành, và các BPNC đó còn là đối tợng nghiên cứu để hớng dẫn áp
dụng pháp luật vào thực tiễn nh các thông t liên ngành, đơn ngành, các chỉ thị,
công văn hớng dẫn của các cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án,
Bộ T pháp v.v và gần đây nhất, tác giả Nguyễn Văn Thanh đã nghiên cứu đề
tài "áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lợng
cảnh sát nhân dân" làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
Để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải
cách kinh tế, cải cách hành chính, cải cách t pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây
dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nớc ta, ngày 26-11-2003 tại kỳ họp
thứ 4 khóa XI, Quốc hội nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua
Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01-7-2004.
Mặc dù BLTTHS 2003 vừa bắt đầu có hiệu lực, mặc dù đã có những
chuyên đề, công trình nghiên cứu của các cấp, ngành và các cá nhân khác về
vấn đề này, tuy đã có những kiến nghị, đề xuất nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp
luật nhng việc nghiên cứu đó vẫn chỉ đi sâu đợc một vài khía cạnh của các BPNC
bắt ngời, tạm giữ và tạm giam, cha đáp ứng đợc yêu cầu nghiên cứu để sửa đổi,
bổ sung BLTTHS một cách toàn diện - một yêu cầu vẫn đang đợc đặt ra đối
với nớc ta trong giai đoạn phát triển hiện nay và trong tơng lai. Chính vì vậy,
4
tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài "Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp"
làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình, với mong muốn nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện hơn về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong quy định của
pháp luật TTHS hiện hành, từ đó đa ra những đề xuất nhằm khắc phục những

thiếu sót, nhợc điểm trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần
nâng cao hơn nữa tính hiệu quả, tính thực tiễn của vấn đề này để phục vụ tốt
hơn nữa cho các hoạt động t pháp hình sự ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Với mục đích nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những
biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, luận án tập trung vào những vấn đề sau:
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về các BPNC và các BPNC bắt, tạm giữ,
tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Trong đó nghiên cứu sơ lợc quá
trình hình thành và phát triển của pháp luật về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm
giam; nghiên cứu và phân tích pháp luật thực định về các biện pháp ngăn chặn
bắt, tạm giữ, tạm giam, từ đó đa ra các khái niệm về các biện pháp ngăn chặn
nói chung và các khái niệm về từng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam cũng nh từng trờng hợp bắt nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam;
tìm hiểu nguyên nhân của những vớng mắc, tồn tại, bất cập giữa các quy định
luật và thực tiễn.
- Đa ra một số giải pháp về việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện pháp
luật TTHS cũng nh giải pháp về các biện pháp nâng cao tính hiệu quả đối với
việc bắt, tạm giữ và tạm giam.
4. Phạm vi, đối tợng nghiên cứu của luận án
Bắt, tạm giữ, tạm giam là những chế định lớn và phức tạp trong luật
TTHS, vì vậy trong phạm vi của một luận án tiến sĩ khó có thể nghiên cứu và
5
giải quyết hết mọi vấn đề. Vì vậy, luận án chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu
nội dung của các quy định về thẩm quyền, đối tợng, thời hạn, thủ tục áp dụng
các biện pháp ngăn chặn nêu trên với thực trạng áp dụng chúng, nghiên cứu
nguyên nhân của những bất cập, vớng mắc trong quá trình áp dụng lý luận vào
thực tiễn, từ đó đa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định về các
biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam.
Với phạm vi trên, đối tợng nghiên cứu của luận án là thẩm quyền áp

dụng, đối tợng áp dụng, thời hạn áp dụng, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn
chặn bắt ngời, tạm giữ và tạm giam, trong đó luận án tập trung nghiên cứu
nhiều hơn về những điểm bất cập, vớng mắc trong việc quy định và áp dụng
các biện pháp nêu trên.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả luận án vận dụng phơng pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật, đồng
thời sử dụng phơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, tham khảo ý
kiến của các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ làm thực tiễn. Luận án đợc
nghiên cứu trên cơ sở lý luận của khoa học luật hình sự, luật TTHS, tham khảo
các công trình nghiên cứu của các tác giả, gắn kết giữa lý luận và thực tiễn là
quá trình nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ơng Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác t pháp, qua thực tiễn công tác thực
hiện các hoạt động TTHS nói chung và về các BPNC bắt, tạm giữ và tạm giam
ở Việt Nam nói riêng.
6. Điểm mới của luận án
Điểm mới của luận án thể hiện ở chỗ: đây là lần đầu tiên, các BPNC
nghiêm khắc là bắt, tạm giữ, tạm giam đợc nghiên cứu một cách hệ thống và
toàn diện, kết quả của quá trình nghiên cứu không những tìm ra các nhợc
điểm trong công tác xây dựng và thực thi pháp luật mà còn đa ra đợc những
6
kiến nghị đề xuất nhằm góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp
luật TTHS, góp phần thúc đẩy việc áp dụng các quy định về các BPNC bắt,
tạm giữ, tạm giam vào thực tiễn thực thi pháp luật đợc nghiêm minh, chính
xác, áp dụng đúng pháp luật, đúng trờng hợp, đúng tội, đúng ngời, đảm bảo
không để lọt ngời phạm tội đồng thời hạn chế tối đa việc bắt, giữ, giam oan,
sai trong chế độ dân chủ của chúng ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 3 chơng.


7
Chơng 1
Nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn
bắt, tạm giữ, tạm giam
1.1. Lý Luận CƠ Bản Về Các Biện Pháp NGĂN Chặn Bắt, Tạm
Giữ, Tạm GIAM
1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn bt, tm gi, tm giam
trong lut TTHS Vit Nam
1.1.1.1. Khái niệm về biện pháp ngăn chặn
Bộ luật tố tụng hình sự quy định một loạt các biện pháp cỡng chế nhà
nớc do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nhằm thực hiện những mục đích tố
tụng nhất định.
Căn cứ vào mục đích của chúng có thể phân loại các biện pháp cỡng chế
thành các nhóm sau:
- Nhóm biện pháp cỡng chế để đảm bảo thu thập và ghi nhận chứng cứ
(khám ngời, khám nơi ở, xem xét dấu vết );
- Nhóm biện pháp cỡng chế để đảm bảo cho quá trình tố tụng đợc tiến
hành bình thờng và thuận lợi (kê biên tài sản, áp giải bị can );
- Các BPNC (bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi c trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm).
Trong hệ thống các biện pháp cỡng chế TTHS thì các BPNC chiếm vị
trí đặc biệt quan trọng, nó ảnh hởng trực tiếp đến thân thể, quyền con ngời,
hạn chế một số quyền nhân thân của công dân. Chính vì vậy mà BLTTHS đã
dành một chơng riêng để quy định về các BPNC. Để việc hiểu và thực hiện tốt
các quy định về BPNC, nhiều công trình, tài liệu, sách báo đã có những khái
niệm khác nhau về các BPNC.
Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách pháp lý"
Matxcơva, 1973 giải thích rằng:
8

Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cỡng chế về mặt tố tụng
hình sự do điều tra viên, dự thẩm viên, kiểm sát viên và tòa án áp
dụng đối với bị can (ngời bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị
can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc trốn tránh tòa án, cản trở
việc xác minh sự thật về vụ án, hay sẽ tiếp tục hoạt động phạm tội,
cũng nh để đảm bảo việc thi hành án [70].
BLTTHS Việt Nam hiện hành mặc dù không đa ra một khái niệm về
BPNC, tuy nhiên tại Điều 79 BLTTHS 2003 cũng đã quy định các căn cứ áp
dụng các BPNC nh sau:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội, cũng nh khi cần bảo đảm thi hành án, thì cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng một trong
những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi c trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các
BPNC của pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cỡng chế
tố tụng rất nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp
dụng, về thẩm quyền áp dụng, về đối tợng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích
áp dụng để từ đó mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn vào
thực tiễn.
- Giáo trình luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, cho rằng: BPNC là biện pháp cỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị
cáo, ngời phạm tội quả tang và ngời cần phải bắt trong trờng hợp khẩn cấp.
Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn ngời đó gây khó khăn
cho việc điều tra truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [63].
- Cuốn "Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự" lại giải thích
rằng BPNC là một loại biện pháp do cơ quan điều tra, VKS và Tòa án áp dụng
9
đối với ngời bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả ngời bị kết án

khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những ngời này sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội. BPNC gồm:
Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi c trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm [59].
Có thể nói rằng, các sách báo, tài liệu nêu trên đã nêu lên đợc khía
cạnh này hay khía cạnh khác khái niệm về các BPNC, nhng nhìn chung vẫn
cha đa ra đợc một khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng tất cả các yếu tố cấu
thành nên BPNC thể hiện ở các dấu hiệu đặc trng nh căn cứ áp dụng, mục đích,
thẩm quyền áp dụng và đối tợng bị áp dụng BPNC. Vì vậy, cá nhân tôi cho
rằng, một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về các biện pháp ngăn chặn thì trong
khái niệm đó phải hàm chứa tất cả các dấu hiệu đặc trng của các BPNC nh: căn
cứ áp dụng; mục đích áp dụng; thẩm quyền áp dụng và đối tợng áp dụng biện
pháp ngăn chặn.
Tổng hợp từ những quy định của BLTTHS và một số khái niệm trên,
qua phân tích có thể hiểu đợc rằng: Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp
cỡng chế TTHS do cơ quan hoặc ngời có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với ngời cha bị khởi tố; khi có
căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn
việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Biện pháp ngăn chặn gồm: Bắt, tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi c trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm.
Trong các BPNC biện pháp bắt đợc xếp thứ tự đầu tiên rồi đến tạm giữ,
tạm giam. Vậy ta hãy xem xét từng khái niệm về các BPNC đó.
1.1.1.2. Khái niệm về biện pháp ngăn chặn bắt
Bắt là một trong những hình thức thể hiện của BPNC. Bắt có tính chất
khởi đầu cho việc áp dụng BPNC tiếp theo. Bắt là một trong những BPNC có
10
tính cỡng chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ,
trình tự, thủ tục theo pháp luật quy định.

Bắt là BPNC nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa ngời thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện
bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đợc thuận lợi.
Bắt ngời là BPNC mang tính đặc thù thờng đợc áp dụng
liền trớc các BPNC nh tạm giữ, tạm giam. BPNC này làm hạn chế
một số quyền tự do của cá nhân ngời bị bắt, buộc họ phải có mặt tại
địa điểm quy định để làm việc với Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán. Biện pháp bắt ngời đợc tính từ thời điểm ngời có chức
vụ theo luật định ra lệnh bắt đến khi kết thúc là ngời bị bắt đợc dẫn
giải đến nơi để tạm giữ, tạm giam [33].
Bắt hiểu theo nghĩa rộng: Bắt không phải là biện pháp trừng phạt của
pháp luật đối với ngời phạm tội mà là BPNC của hoạt động TTHS. Bắt đúng
ngời, bắt kịp thời có tác dụng ngăn chặn mọi âm mu và thủ đoạn chống đối
của ngời phạm tội, không cho họ tiếp tục phạm tội, che giấu, trốn tránh hoặc
gây khó khăn cho việc xác định sự thật để giải quyết vụ án.
Bắt hiểu theo nghĩa hẹp: Đối với cá nhân ngời bị bắt là sự hạn chế một
số quyền tự do của cá nhân, là điểm khởi đầu của sự trừng phạt của pháp luật nếu
ngời đó là ngời thực hiện hành vi phạm tội, bởi vì khi thi hành án, thời gian tạm
giữ, tạm giam đợc khấu trừ vào thời gian thi hành án.
Bắt không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) ngời vô
tội sẽ gây một tác hại rất lớn, không những các quy định của pháp luật bị vi
phạm, mà quyền bất khả xâm phạm của con ngời bị xâm hại, ảnh hởng đến
quyền lợi của công dân đợc pháp luật bảo hộ. Từ đó nó ảnh hởng xấu đến lòng
tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các thế
lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền để chống phá Nhà nớc ta. Vì vậy,
khi bắt ngời phải thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, song
11
cũng phải thận trọng khi xem xét đánh giá chứng cứ. Quá trình thực hiện
BLTTHS các cơ quan t pháp nh: Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC), Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Bộ T pháp, đã ban hành

nhiều văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để hớng dẫn việc áp
dụng BPNC trong đó có biện pháp bắt.
Nhằm mục đích đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, tăng cờng pháp
chế XHCN, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trớc pháp luật cũng nh đảm
bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, BLTTHS quy định ba trờng hợp
bắt, đó là:
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt ngời trong trờng hợp khẩn cấp;
- Bắt ngời phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Các trờng hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc trờng
hợp nào thì cơ quan, ngời có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng. Song căn
cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và
ủy ban nhân dân (UBND), các quy định đối với ngời cha thành niên, các quy
định đối với ngời phạm tội là ngời nớc ngoài, khi chủ thể thuộc các đối tợng
này còn phải vận dụng thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC
cũng nh áp dụng các quy định trong BLTTHS đợc đúng đắn. Việc áp dụng các
biện pháp bắt cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trơng, đờng
lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nớc trong mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển nền
kinh tế - xã hội của đất nớc ta.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, có thể tóm tắt khái niệm về
biện pháp bắt trong TTHS nh sau: Bắt là biện pháp cỡng chế đợc quy định
trong luật TTHS do cơ quan, ngời có thẩm quyền do luật định áp dụng đối với
bị can, bị cáo hoặc ngời cha bị khởi tố; ngời đang có hành vi phạm tội quả
tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời
12
ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Trong ba trờng hợp bắt theo quy định của BLTTHS, trớc tiên chúng ta
nghiên cứu:
(i) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

Sự cần thiết của biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nớc
ta luôn coi pháp luật là công cụ sắc bén trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Xóa bỏ tàn d của xã hội cũ, thiết lập, bảo vệ các quan hệ xã hội mới tiến
bộ, xây dựng Nhà nớc pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật là một quan
điểm cơ bản đã đợc Đảng ta khẳng định. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ix
của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa lại khẳng định quan điểm này:
Nhà nớc ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các
cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và t pháp. Nhà nớc quản lý xã hội bằng pháp luật [22].
Trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, nền kinh tế nớc ta đã đạt đợc
những thành tựu quan trọng: ổn định về chính trị, tăng cờng về kinh tế. Bên
cạnh những mặt tích cực thì tình hình tội phạm cũng có xu hớng gia tăng. Do
ảnh hởng của mặt trái của kinh tế thị trờng, đã phát sinh nhiều tội phạm có
tính đặc biệt nguy hiểm, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Để giữ gìn thành
quả cách mạng, tạo môi trờng lành mạnh, ổn định để phát triển kinh tế - xã
hội thì việc đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn tội phạm có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Ngăn chặn tội phạm không chỉ bảo vệ kịp thời những
khách thể đợc luật hình sự bảo vệ mà còn góp phần tích cực vào việc ngăn
ngừa và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra. Muốn làm đợc việc đó, cơ quan
tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng phải có những biện pháp hữu hiệu
13
nhằm kiểm soát đợc hoạt động của ngời phạm tội cũng nh tạo điều kiện thuận
lợi để các cơ quan này tìm ra sự thật của vụ án trong thời gian ngắn nhất. Nói
cách khác, để đấu tranh phát hiện hành vi phạm tội một cách khách quan,
chính xác, đồng thời kịp thời đa vụ án ra xét xử thì hoạt động bắt bị can, bị
cáo để tạm giam chính là một trong các biện pháp đó.
Nh vậy, bắt bị can, bị cáo để tạm giam là biện pháp cần thiết để giải

quyết vụ án hình sự, đợc các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng nh một biện pháp
hữu hiệu phục vụ cho quá trình điều tra - truy tố - xét xử và thi hành án hình
sự, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Ngoài trờng hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, BLTTHS còn quy định
các trờng hợp bắt ngời khác nhằm phục vụ tốt cho cuộc đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm.
Khái niệm về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Để đảm bảo chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, với phơng châm không để lọt tội phạm, không làm oan
ngời vô tội, các cơ quan và ngời có thẩm quyền theo quy định của luật TTHS
đợc phép áp dụng các BPNC. Điều 79 BLTTHS quy định các căn cứ cho phép
áp dụng BPNC, nội dung của điều luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
bắt ngời trong đó có trờng hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Mặc dù Điều 80 BLTTHS quy định tơng đối đầy đủ việc bắt bị can, bị
cáo để tạm giam nhng không giải thích thế nào là bắt bị can, bị cáo để tạm
giam. Chính vì thế có rất nhiều quan điểm khác nhau về biện pháp này. Từ
điển Luật học - Nxb Bách khoa (1999) nêu:
Bắt ngời để tạm giam là biện pháp ngăn chặn đợc áp dụng
đối với bị can, bị cáo do ngời có thẩm quyền ra lệnh: Viện trởng,
Phó viện trởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự
các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và tòa án quân sự
các cấp; Thẩm phán án nhân dân tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân
14
khu trở lên chủ tọa phiên tòa. Đối với lệnh bắt của những ngời sau:
Trởng công an, phó trởng công an cấp huyện; Thủ trởng, phó thủ tr-
ởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; thủ trởng, phó thủ trởng Cơ
quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân thì phải có sự phê
chuẩn của Viện kiểm sát trớc khi thi hành [71].
Theo Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trờng Đại học Luật Hà Nội
thì: "Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt ngời đã bị khởi tố về hình sự hoặc

ngời đã bị Tòa án quyết định đa ra xét xử để tạm giam phục vụ cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự" [68].
Các khái niệm trên cha đầy đủ ở chỗ cha chỉ ra căn cứ, thẩm quyền áp
dụng BPNC nghiêm khắc này. Qua nghiên cứu điều luật và quá trình thực hiện
luật TTHS, theo tôi chỉ có thể đa ra khái niệm bắt bị can, bị cáo để tạm giam
sau khi đã phân tích các yếu tố về mục đích, ý nghĩa của việc bắt bị can, bị
cáo để tạm giam, đối tợng, thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp bắt bị
can, bị cáo để tạm giam.
Thứ nhất: Về mục đích, ý nghĩa của biện pháp bắt bị can, bị cáo để
tạm giam.
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho việc ngăn
ngừa tội phạm.
Ngăn ngừa tội phạm không cho tội phạm đang đợc chuẩn bị xảy ra
hoặc không cho tội phạm đang đợc thực hiện tiếp tục. Ngăn ngừa kịp thời tội
phạm có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm bớt hậu quả của tội phạm. Kịp thời
ngăn chặn tội phạm không những bảo vệ đợc đối tợng tác động của tội phạm
mà còn ngăn ngừa, hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra.
Trong thực tế không phải bị can, bị cáo nào cũng hối lỗi sau khi thực
hiện tội phạm, đặc biệt đối với những bị can, bị cáo phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp. Vì vậy, khi bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì
việc áp dụng BPNC bắt sẽ nhằm hạn chế tối đa hành vi phạm tội của bị can, bị
cáo xâm phạm đến các quan hệ xã hội đợc luật hình sự bảo vệ
15
- Bắt bị can bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho công tác điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án đợc thuận lợi.
Các BPNC đợc áp dụng nhằm đảm bảo các điều kiện pháp lý cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo đúng các quy định của pháp
luật; bảo đảm cho sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng khi cần
thiết; bảo đảm để bản án đã tuyên có điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp
luật cũng nh đảm bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng đó.

Trên thực tế, ở mỗi giai đoạn tố tụng thì BPNC bắt do một cơ quan tiến
hành tố tụng áp dụng với mục đích đảm bảo cho cơ quan đó hoàn thành chức
năng, nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định. ở giai đoạn điều tra, Cơ quan
điều tra áp dụng biện pháp bắt, tạm giam với mục đích ngăn ngừa tội phạm và
bảo đảm các điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ điều tra nh: Đảm bảo sự có
mặt của bị can để thờng xuyên làm việc, chống việc bị can tiêu hủy chứng cứ,
thông đồng với nhau để khai báo; ngăn ngừa việc bị can bỏ trốn gây khó khăn
cho việc xử lý vụ án. Sau khi truy tố, tống đạt đợc ngay cáo trạng hoặc các
quyết định cần thiết khác, áp dụng BPNC trong giai đoạn này không những
đảm bảo cho VKS hoàn thành nhiệm vụ của mình mà còn đảm bảo cho sự liên
tục của quá trình giải quyết vụ án.
Trong giai đoạn xét xử, việc áp dụng BPNC bắt nhằm bảo đảm sự có
mặt của bị cáo tại phiên tòa. Việc bắt, tạm giam bị cáo còn có ý nghĩa ngăn
ngừa không cho các bị can, bị cáo thông cung, đe dọa ngời làm chứng, ngời bị
hại, bảo đảm cho việc xét xử tại phiên tòa đợc khách quan và thi hành ngay đ-
ợc bản án khi có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai: Về đối tợng bị áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để
tạm giam.
Theo quy định tại Điều 80 BLTTHS thì bắt bị can, bị cáo để tạm giam là
bắt ngời đã bị khởi tố về hình sự hoặc ngời đã bị Tòa án đa ra xét xử để tạm
giam, phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
16
Nh vậy đối tợng của việc bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Bị can, bị cáo đợc định nghĩa tại Điều 49 và Điều 50 BLTTHS :
- Bị can là ngời đã bị khởi tố về hình sự;
- Bị cáo là ngời đã bị Tòa án quyết định đa ra xét xử.
Những ngời cha bị khởi tố về hình sự hoặc ngời không bị Tòa án đa ra
xét xử không phải đối tợng bắt để tạm giam theo quy định tại Điều 80
BLTTHS. Nếu họ có hành vi phạm tội thì có thể bị bắt theo trờng hợp khẩn
cấp hoặc quả tang chứ không phải là bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Nói nh vậy nhng không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị bắt tạm giam
mà khi cần bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có những căn cứ theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba: Về căn cứ áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải tuân theo các căn cứ quy định tại
Điều 79 BLTTHS, bao gồm các căn cứ sau:
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử.
- Có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội.
- Khi có căn cứ rõ ràng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc thi
hành án hình sự.
Các căn cứ này phải đợc thể hiện bằng các tài liệu do các cơ quan tiến
hành tố tụng thu thập theo đúng trình tự mà luật định, các căn cứ này đợc đánh
giá trên cơ sở khách quan toàn diện chứ không phải ý muốn chủ quan của một
ngời, hay một cơ quan nào đó. Trong tình hình hiện nay trình độ của điều tra
viên có hạn, dẫn đến trờng hợp có lúc, có nơi thực thi pháp luật không nghiêm
nh: báo gọi không thấy bị can đến, hoặc bị can khai báo cha thành khẩn nên
Điều tra viên cho là bị can gây khó khăn cho việc điều tra và đề nghị phê chuẩn
lệnh bắt tạm giam.
17
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam tức là ngời bị bắt sẽ bị tạm giam cho
nên ngoài căn cứ áp dụng chung cho các BPNC ở Điều 79 ra còn phải căn cứ
vào điều kiện để tạm giam quy định ở Điều 88 BLTTHS đó là: Bị can, bị cáo
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo
phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự (BLHS)
quy định mức hình phạt trên 2 năm tù và có căn cứ để cho rằng ngời đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Nh vậy nếu dới 2 năm tù mà có các điều kiện ở Điều 79 BLTTHS thì cũng
không đợc bắt tạm giam. Ngoài ra, nếu không phải trờng hợp đặc biệt nghiêm
trọng thì không bắt, không tạm giam đối với ngời già yếu, bệnh nặng có nơi c

trú rõ ràng, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dới 36 tháng.
Nh trên đã nêu, đây là trờng hợp bắt để tạm giam cho nên việc xem xét
căn cứ để bắt và căn cứ để tạm giam là rất quan trọng bởi vì nếu bắt xong mà
không tạm giam đợc thì rất khó xử lý. Nếu bắt tạm giam mà không đủ các căn
cứ mặc dù họ là bị can, bị cáo, thì lệnh tạm giam đó vẫn là vi phạm pháp luật,
phải bị xử lý. Gần đây việc vi phạm trong việc bắt giam còn xảy ra nhiều gây
hậu quả nghiêm trọng, bắt tràn lan cả trờng hợp không đáng bắt gây quá tải
cho các trại tạm giam. Đã có nhiều vụ d luận lên tiếng phản đối, các thế lực thù
địch lợi dụng, khai thác để chống phá Nhà nớc ta. Để chấn chỉnh vi phạm này,
Bộ Chính trị đã có quan điểm chỉ đạo rõ ràng tại Chỉ thị 53/CT-TW ngày
21/3/2000 và Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 02/01/2002: Trờng hợp bắt giam
cũng đợc, không bắt giam cũng đợc thì không bắt giam; những trờng hợp cha
cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ,
tạm giam; phát hiện xử lý kịp thời những trờng hợp oan sai trong bắt giữ, khi
xem xét căn cứ để bắt giữ phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc quy định
trong luật TTHS, lấy các chỉ thị, nghị quyết của Đảng nêu trên làm cơ sở lý
luận, kết hợp nhuần nhuyễn với tình hình chính trị địa phơng để ra một quyết
định đúng đắn có tính khả thi và có tính giáo dục trong việc áp dụng biện pháp
18
bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi có căn cứ để áp dụng thì ngời có thẩm
quyền phải xem xét và quyết định.
Thứ t: Về thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là việc rất hệ trọng, ảnh hởng đến một
số quyền con ngời, cho nên việc quy định thẩm quyền ra lệnh và phê chuẩn
chỉ hạn chế và tập trung ở một số cơ quan và ngời tiến hành tố tụng. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS thì ngời có thẩm quyền ra lệnh bao gồm
những ngời sau:
- Viện trởng, phó viện trởng VKSND và VKS quân sự các cấp.
- Chánh án, phó chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp.
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm

TANDTC; Hội đồng xét xử (HĐXX).
- Thủ trởng, Phó thủ trởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trờng hợp
này lệnh bắt phải đợc VKS cùng cấp phê chuẩn trớc khi thi hành.
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh của ủy ban thờng vụ quốc hội số
23/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 8 năm 2004 về tổ chức điều tra hình
sự thì cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra gồm có:
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân bao gồm: a) Cơ quan cảnh sát
điều tra Bộ công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ơng; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc thuộc tỉnh ;
b) Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan điều tra Công an
tỉnh, thành phố trực thuộc thuộc Trung ơng.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân bao gồm: a) Cơ quan điều
tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tơng đơng;
Cơ quan điều tra hình sự khu vực.
19
b) Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra
quân khu và tơng đơng.
Cơ quan điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân gồm có: a) Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; b) Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
Trung ơng.
Cơ quan điều tra có Thủ trởng, Phó thủ trởng và Điều tra viên.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ những ngòi có chức
vụ là Thủ trởng hoặc Phó Thủ trởng Cơ quan điều tra các cấp mới có quyền ra
lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, còn chỉ với chức danh Điều tra viên bình
thờng thì không có quyền này.
Những ngời theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 BLTTHS đợc
quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, tuy nhiên lệnh của họ cha có
hiệu lực thực tế. Lệnh này chỉ khi đợc VKS cùng cấp phê chuẩn thì mới đợc
thi hành. Đây là thủ tục pháp lý bắt buộc để đảm bảo cho hiệu lực thi hành của

lệnh đó. Nếu lệnh cha có sự phê chuẩn của VKS mà đã thi hành thì coi nh
không có hiệu lực pháp luật, công dân có quyền phản đối, và ngời ra lệnh, ng-
ời thực hiện lệnh đã vi phạm pháp luật, vi phạm này thuộc trờng hợp bắt giam
ngời trái pháp luật. Trên thực tế, đã có trờng hợp Cơ quan điều tra lợi dụng
lệnh bắt, tạm giam nh lệnh bắt khẩn cấp; VKS khi phê chuẩn thì ngời bị bắt đã
ở Cơ quan điều tra rồi, các thủ tục tiếp sau chỉ là hợp thức hóa, bởi vì luật
không bắt buộc Kiểm sát viên phải có mặt tại cơ quan hoặc nơi thi hành lệnh.
Hoặc có trờng hợp Cơ quan điều tra báo gọi bị can lên trụ sở làm việc rồi quản
thúc, giữ trá hình ở Cơ quan điều tra, khi có nhu cầu thủ tục thì đa lên xe về
trụ sở UBND xã nơi c trú làm thủ tục bắt. Do sự nhận thức về điều luật này
hạn chế nên công dân không có sự phản đối, UBND xã không thể từ chối cho
nên việc bắt vẫn diễn ra bình thờng. Trờng hợp này dù có đúng
là bắt đợc bị can thì vẫn thuộc trờng hợp bắt sai về thủ tục. Để chấn chỉnh tình
trạng này trớc hết cần chú trọng công tác tuyên truyền pháp luật để nâng cao
20
trình độ dân trí, tăng cờng sự giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng.
Thứ năm: Về thủ tục bắt bị can bị cáo để tạm giam.
Khoản 2 Điều 80 BLTTHS quy định trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải
là lệnh viết, lệnh phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ ngời ra lệnh, họ
tên, địa chỉ của ngời bị bắt, lý do bắt. Lệnh phải đợc ngời ra lệnh ký đóng dấu.
Những lệnh phải phê chuẩn thì phải có mục phê chuẩn của VKS, ghi rõ số,
ngày, tháng, năm phê chuẩn, họ tên, chữ ký của ngời phê chuẩn và phải có
đóng dấu. Tóm lại, lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam ngoài hình thức thể
hiện đặc thù nh tên gọi ra còn phải đợc thể hiện dới thể thức văn bản pháp lý
nhà nớc.
Ngời đợc giao chủ trì thi hành lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải
chuẩn bị phơng tiện, bố trí lực lợng, phải có sự tham dự của các thành phần
bắt buộc. Đảm bảo cho việc bắt đợc an toàn, nghiêm túc, thể hiện sự nghiêm

minh của pháp luật, quyền uy của Nhà nớc, lệnh bắt phải đợc đọc công khai,
phải có sự giải thích lệnh cho ngời bị bắt biết. Việc bắt ngời phải đợc lập biên
bản ghi rõ ngày, giờ, tháng năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản. Những việc đã
làm, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, thái độ chấp hành của ngời bị
bắt, ngời liên quan. Ghi rõ những đồ vật, tài liệu bị thu giữ, (ghi đủ số lợng,
còn cụ thể phải lập biên bản riêng), những khiếu nại của ngời bị bắt. Biên bản
phải ghi đầy đủ, tỉ mỉ tránh việc bắt ngời có nhiều nội dung, tình huống nhng
không ghi hết hoặc ghi quá vắn tắt theo mẫu biên bản in sẵn, gây khó khăn
cho việc giải quyết về sau, không có điều kiện khắc phục. Biên bản lập xong
đợc đọc công khai cho các thành phần có mặt nghe, các ý kiến bổ sung phải đ-
ợc ghi lại đầy đủ. Ngời bị bắt và các thành phần tham gia phải ký xác nhận
vào biên bản.
21
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trong những trờng hợp của
BPNC bắt - một BPNC rất nghiêm khắc, vì vậy khi thi hành lệnh phải có đại
diện chính quyền xã, phờng, thị trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi ngời
bị bắt c trú, làm việc. Trong trờng hợp bắt tại nơi c trú của bị can, bị cáo thì
phải có ngời láng giềng chứng kiến.
Đại diện chính quyền địa phơng tham gia với t cách là ngời quản lý về
nhân hộ khẩu của ngời bị bắt trong địa bàn của mình quản lý. Gắn trách
nhiệm của chính quyền địa phơng với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, đồng thời sự có mặt của chính quyền địa phơng sẽ hỗ trợ, giúp sức khi
cần thiết để việc thi hành lệnh bắt đợc thuận lợi.
Sự có mặt của ngời láng giềng chứng kiến có ý nghĩa đảm bảo việc bắt
ngời đợc công khai, dân chủ, đồng thời tăng cờng tính giáo dục, tuyên truyền
pháp luật.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi về sự có mặt của ngời đại diện
chính quyền địa phơng, cơ quan, tổ chức nơi ngời bị bắt c trú hoặc làm việc,
nên BLTTHS quy định thành ba trờng hợp:
- Nếu bị can, bị cáo bị bắt tại nơi c trú thì phải có đại diện chính quyền

xã phờng hoặc thị trấn, ngời láng giềng của ngời bị bắt có mặt chứng kiến.
- Đối với trờng hợp bắt bị can, bị cáo tại nơi làm việc thì phải có đại
diện của cơ quan, tổ chức mà bị can, bị cáo là thành viên chứng kiến.
- Nếu bị can, bị cáo bị bắt tại nơi khác thì phải có sự chứng kiến của đại
diện chính quyền xã, phờng, thị trấn nơi tiến hành bắt ngời.
Việc bắt bị can bị cáo để tạm giam không mang tính chất cấp bách nh
bắt ngời trong trờng hợp khẩn cấp hoặc bắt ngời phạm tội quả tang, ngời đang
bị truy nã. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của ngời bị bắt, của thân
nhân, của cơ quan tổ chức nơi ngời đó làm việc, tránh gây căng thẳng do việc
bắt ngời gây ra, khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định: "Không đợc bắt ngời vào
ban đêm ".
22
Ban đêm đợc tính từ 22 giờ tối hôm trớc đến 6 giờ sáng hôm sau, điều
đó có ý nghĩa là chỉ đợc bắt bị can, bị cáo để tạm giam từ 6 giờ đến
22 giờ. Ngoài thời gian đó mà tổ chức bắt bị can, bị cáo để tạm giam là vi
phạm thủ tục TTHS. Ngời bị bắt và công dân có quyền phản đối. Ngời ra lệnh
và thi hành lệnh mà cố ý làm trái quy định, vi phạm pháp luật có thể bị xử lý
về hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc bắt ngời đợc an toàn có hiệu quả, Cơ quan
điều tra, VKS, Tòa án cần thực hiện nghiêm chỉnh quy định về bí mật nhà nớc
đối với việc ra lệnh, phê chuẩn lệnh bắt. Cơ quan điều tra phải bố trí lực lợng
theo dõi để khi tiến hành bắt ngời bị bắt có mặt, chuẩn bị đầy đủ các phơng
tiện, điều kiện để việc bắt đạt hiệu quả cao.
Tóm lại, bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trờng hợp trong BPNC
bắt - BPNC rất nghiêm khắc trong số các BPNC đợc BLTTHS quy định cho
ngời có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án đợc áp dụng đối với bị
can, bị cáo khi xét thấy cần thiết cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự. Việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải tuân
thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật đợc chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, có thể đa ra một khái
niệm về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam nh sau: Bắt bị can, bị cáo để
tạm giam là một trờng hợp của biện pháp ngăn chặn bắt trong TTHS, do ngời
có thẩm quyền áp dụng đối với ngời đã bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị Tòa
án quyết định đa ra xét xử khi có những căn cứ do BLTTHS quy định nhằm
phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Ngoài trờng hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, BLTTHS còn quy định
các trờng hợp bắt ngời khác nhằm phục vụ tốt cho cuộc đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm.
23
(ii) Bắt khẩn cấp - một trờng hợp bắt ngời trong TTHS
Cơ sở pháp lý của biện pháp bắt ngời trong trờng hợp khẩn cấp
Bắt ngời trong trờng hợp khẩn cấp là một trờng hợp của BPNC bắt thờng
áp dụng đối với ngời cha bị khởi tố về hình sự, không cần sự phê chuẩn trớc
của VKS, nhằm chặn đứng hành vi phạm tội hoặc những hành động cản trở
việc điều tra, truy tố và xét xử của ngời đó.
Có thể nói rằng, trớc khi BLTTHS đợc ban hành, thì các quy định về
biện pháp bắt nói chung và bắt ngời trong trờng hợp khẩn cấp nói riêng đã có
những tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
trong một thời gian dài. Việc sử dụng chúng đã góp phần kịp thời ngăn chặn
các tội phạm nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm đến tính
mạng, tài sản của nhân dân. Tuy nhiên, do sự phát triển của xã hội, các quan
hệ xã hội ở nớc ta cũng đã có nhiều thay đổi. Trớc tình hình mới nảy sinh đó,
các quy định về những trờng hợp bắt khẩn cấp cũng đã bộc lộ những sơ hở
nhất định (nh sự thiếu chặt chẽ, tính cha cụ thể trong các quy định của pháp
luật ). Cho nên dễ dẫn đến tình trạng bắt khẩn cấp tràn lan. Có thể nói, việc
quá lạm dụng bắt khẩn cấp đã có những ảnh hởng không tốt trong d luận quần
chúng nhân dân. Mặt khác, nó còn làm mất đi tính đặc biệt của biện pháp này
và biến nó thành một trờng hợp đợc áp dụng phổ biến. Tình trạng đó đã làm
cho các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại, nó đi ngợc lại

những lợi ích của việc tăng cờng pháp chế XHCN mà Đảng và Nhà nớc ta đã
và đang đặc biệt quan tâm.
Nhằm khắc phục những thiếu sót và hạn chế nêu trên, để bảo đảm cho
việc bắt khẩn cấp chỉ áp dụng trong những trờng hợp cần thiết (hay thực sự đúng
nghĩa là khẩn cấp) nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp
luật của ngời phạm tội. Đồng thời, hạn chế tới mức tối đa những vi phạm về
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các BLTTHS 1988 và 2003 đã quy
định một cách khá cụ thể, rõ ràng các trờng hợp bắt khẩn cấp nh sau:
24
- Khi có căn cứ để cho rằng ngời đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Khi ngời bị hại hoặc ngời có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và xác nhận đúng là ngời đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc ngời đó trốn.
- Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở ngời hoặc chỗ ở của ngời bị tình
nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc ngời đó trốn
hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Bắt ngời trong trờng hợp khẩn cấp thể hiện tính chất đặc biệt cấp bách
của việc ngăn chặn tội phạm. Tính chất cấp bách đó đợc thể hiện ở chỗ: nếu
nh không tiến hành bắt ngay ngời có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì ngời đó
sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho Nhà nớc, xã hội, xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe và sở hữu của công dân hoặc cản trở việc điều tra, xét xử, trốn tránh
pháp luật. Do đó, đối tợng bị bắt khẩn cấp là bất kỳ ai nếu nh ngời đó có đầy
đủ các điều kiện thuộc vào một trong các trờng hợp đợc bắt khẩn cấp nêu trên.
Nói tóm lại, bắt ngời trong trờng hợp khẩn cấp là một chế định không
thể thiếu trong BPNC bắt của pháp luật TTHS. Với đặc điểm là tính khẩn
cấp, do vậy việc áp dụng biện pháp bắt này đã phát huy đợc tác dụng rất lớn
trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nó giúp cho công
tác này đáp ứng đợc tính kịp thời và hiệu quả đợc nâng cao hơn. Tuy nhiên,
để không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngời vô tội và đảm bảo đợc các

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì khi ra quyết định bắt khẩn cấp
những ngời có thẩm quyền cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật về bắt khẩn cấp. Chỉ áp dụng biện pháp này khi nó thực sự cần
thiết để hạn chế việc lạm dụng bắt khẩn cấp, hạn chế tình trạng bắt oan, bắt
bừa.
25

×