ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THANH TÙNG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH BẢN ÁN HÌNH SỰ
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THANH TÙNG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH BẢN ÁN HÌNH SỰ
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VIỆC ĐƯA
BẢN ÁN HÌNH SỰ VÀO THI HÀNH
5
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của việc đưa bản án hình sự vào thi hành
5
1.1.1.
Khái niệm
5
1.1.2.
Những đặc điểm của việc đưa bản án hình sự vào thi hành
9
1.2.
Quy định của pháp luật về việc đưa bản án hình sự vào thi hành
17
1.2.1.
Đưa bản án tử hình vào thi hành
17
1.2.2.
Đưa bản án phát tù vào thi hành
23
1.2.3.
Đưa các hình phạt khác không phải tù giam vào thi hành
32
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐƯA BẢN ÁN HÌNH SỰ VÀO THI HÀNH
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TỪ 2002 ĐẾN 2009 VÀ
NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
41
2.1.
Khái quát về tình hình tội phạm tại thành phố Hải Phòng có
liên quan đến thi hành án hình sự
41
2.2.
Tình hình đưa các loại hình phạt có trong bản án hình sự vào
thi hành tại thành phố Hải Phòng
49
2.2.1.
Bản án tử hình
49
2.2.2.
Bản án phạt tù
53
2.2.3.
Bản án không phải hình phạt tù tại trại giam
60
2.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đưa bản án hình
sự đã có hiệu lực pháp luật vào thi hành
63
2.3.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành bản án hình sự
63
2.3.2.
Hoàn thiện quan hệ phối hợp cơ quan thi hành bản án hình sự
với các cơ quan tư pháp tại thành phố Hải Phòng
66
2.3.3.
Tổ chức, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia vào công
tác thi hành án hình sự
71
2.3.4.
Nâng cao trách nhiệm và năng lực cán bộ thi hành bản án
hình sự công tác tại thành phố Hải Phòng
73
KẾT LUẬN
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
82
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Mức và loại hỡnh phạt được ỏp dụng trong năm 2002
45
2.2
Mức và loại hỡnh phạt được ỏp dụng trong năm 2003
45
2.3
Mức và loại hỡnh phạt được ỏp dụng trong năm 2004
46
2.4
Mức và loại hình phạt được áp dụng trong năm 2005
46
2.5
Mức và loại hỡnh phạt được ỏp dụng trong năm 2006
47
2.6
Mức và loại hỡnh phạt được ỏp dụng trong năm 2007
47
2.7
Mức và loại hình phạt được áp dụng trong năm 2008
48
2.8
Mức và loại hỡnh phạt được ỏp dụng trong năm 2009
48
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước với nội
dung là thi hành chính xác, kịp thời phán quyết tại các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Thực tế đã chỉ ra, các hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử chỉ có ý nghĩa khi các bản án và các quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực được đưa vào thi hành. Do vậy, việc thi hành bản án
hình sự chiếm vị trí rất quan trọng trong tố tụng hình sự. Điều 22 Bộ luật Tố
tụng hình sự quy định: Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. Trong phạm vi
trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị
trấn tổ chức và công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi
hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc án. Các cơ quan nhà nước,
chính quyền xã, phường, thị trấn, có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện
yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của
Tòa án trong việc thi hành.
Mặt khác, thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án chính là thể hiện sự công bằng trong xã hội. Bất kì ai phạm tội cũng đều
bị phát hiện, xử lí nghiêm minh và phải chịu hình phạt. Thông qua việc thi hành
bản án không chỉ để giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án, mà còn góp phần
giáo dục ý thức tuân theo pháp luật chung trong nhân dân, động viên họ tích cực
tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra việc chấp hành
nghiêm chỉnh bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án còn có ý nghĩa
quan trọng của việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
2
Hải Phòng là một trong những thành phố lớn của Việt Nam, tình hình
tội phạm có nhiều phức tạp, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã điều tra khám phá,
xử lí số lượng không nhỏ các vụ án hình sự. Mỗi năm có hàng trăm bản án hình
sự được đưa vào thi hành. Tuy nhiên, việc thi hành bản án hình sự tại thành phố
Hải Phòng đang phát sinh nhiều vấn đề. Một số bản án chưa được đưa vào thi
hành một cách nghiêm túc. Điều này ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tư
pháp nói chung và các cơ quan có trách nhiệm đưa bản án hình sự vào thi hành
nói riêng. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Nâng cao hiệu quả thi hành bản án
hình sự tại thành phố Hải Phòng" là hết sức cần thiết trong tình hình hiện
nay. Với lí do đó, tác giả viết luận văn thạc sĩ đề tài này với mong muốn góp
phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an
ninh trật tự đất nước nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thi
hành án hình sự. Trước hết, hoạt động thi hành án hình sự được phân tích
trong một số giáo trình và sách tham khảo như: Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tái bản lần thứ 5, năm 2009, của tập thể
tác giả do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Sách chuyên khảo: Pháp luật thi
hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp,
năm 2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh - PGS.TS Nguyễn
Mạnh Kháng chủ biên; Sách chuyên khảo Một số vấn đề về thi hành án hình
sự, Nxb Công an nhân dân, năm 2002, của TS. Trần Quang Tiệp Hoặc được
đề cập trong một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như: "Nhu cầu
hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay", của Nguyễn
Trọng Hách, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2002; "Thi hành án: Bất
cập từ cơ quan pháp luật", của Nguyễn Khắc Bộ, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 7/2003; "Một số vấn đề về thi hành án tử hình", của Võ Khánh Vinh,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10/2004; "Quan niệm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
3
thực hiện quyền lực nhà nước từ góc nhìn của hoạt động thi hành án hình sự",
của Phạm Văn Tỉnh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003; "Về Tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù", của Mai Bộ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2005;
và khi xây dựng Bộ luật thi hành án, Ban soạn thảo của Bộ Tư pháp cũng có
một số nghiên cứu, sơ kết tình hình thi hành bản án hình sự.
Những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới chỉ dừng lại dưới dạng
các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình. Mặt khác, từ trước đến nay chưa có một đề tài nghiên
cứu nào đề cập đến tình hình thi hành bản án hình sự trên địa bàn thành phố
Hải Phòng. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với bất kì công
trình nào đã được nghiên cứu trước đây.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do thi hành án hình sự là một đề tài rộng, bao gồm nhiều vấn đề từ
việc đưa bản án hình sự vào thi hành; quá trình chấp hành bản án hình sự của
những người bị kết án tại các cơ sở thi hành án; trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức thi hành án; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với người chấp
hành xong hình phạt v.v… mà phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung ở
việc đưa bản án hình sự đã có hiệu lực vào thi hành. Những vấn đề khác có
liên quan đến thi hành án hình sự không được giải quyết trong luận văn này.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
- Làm rõ một số nội dung cơ bản về đưa bản án hình sự vào thi hành
như: khái niệm, đặc điểm của thi hành án hình sự và các nguyên tắc của hoạt
động thi hành án hình sự.
- Làm rõ hơn một số vấn đề quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
đưa bản án hình sự vào thi hành. Trên cơ sở đó so sánh, đối chiếu với tình
hình thi hành bản án hình sự tại thành phố Hải Phòng.
4
- Phân tích và nêu ra những kết quả đạt được cũng như những tồn tại,
thiếu sót trong việc đưa bản án hình sự vào thi hành tại thành phố Hải Phòng
từ năm 2002 đến 2009. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành bản án hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương
pháp tổng hợp, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành bản án
hình sự trong các công trình của một số nhà nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Hải Phòng tổng kết công tác xét xử và công tác thi hành án hình sự trong
những năm (2002 - 2009), và thông tin trên mạng Internet để phân tích, đánh
giá, tổng hợp các vấn đề thực tiễn xung quanh việc thi hành bản án hình sự
trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2chương:
Chương 1: Những quy định của pháp luật về việc đưa bản án hình sự
vào thi hành.
Chương 2: Thực trạng đưa bản án hình sự vào thi hành tại thành phố
Hải Phòng từ 2002 đến 2009 và những đề xuất, kiến nghị.
5
Chương 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ VIỆC ĐƯA BẢN ÁN HÌNH SỰ VÀO THI HÀNH
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐƯA BẢN ÁN HÌNH SỰ
VÀO THI HÀNH
1.1.1. Khái niệm
Thi hành án hình sự (hay còn gọi là thi hành bản án, quyết định của
Tòa án) là hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng, có liên quan trực tiếp tới
việc thực hiện quyền lực nhà nước, đến trật tự xã hội, tinh nghiêm minh của
hệ thống pháp luật, đến công lý và công bằng xã hội. Việc đảm bảo cho các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành một
cách chính xác, kịp thời có ý nghĩa góp phần khôi phục những thiệt hại do tội
phạm gây ra, cũng như đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
tố tụng có liên quan. Tuy nhiên, đưa bản án hình sự vào thi hành là một trong
hoạt động xã hội cần phải có sự thống nhất về nhận thức.
Cụm từ "Thi hành", theo Hán - Việt từ điển của tác giả Đào Duy Anh
là: "đem các việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả" [1, tr. 309]. Theo
đó, thi hành bản án được hiểu là việc đem bản án có hiệu lực pháp luật của
Tòa án ra thi hành và thi hành án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành trong thực tiễn [15, tr. 31]. Đó là
các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật được quy định tại
khoản 1 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, nhưng chưa quá thời
hiệu thi hành bản án theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 1999 và
các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được phép thi hành
ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự bao gồm:
những bản án, quyết định hình sự của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; những bản án, quyết định hình sự
6
của Tòa án cấp phúc thẩm; những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Theo quy định tại tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số
02/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ năm "Thi
hành bản án và quyết định của Tòa án" của Bộ luật Tố tụng hình sự, thời điểm
có hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án hoặc những phần bản án, quyết
định sơ thẩm của bản án không kháng nghị, kháng cáo thì có hiệu lực sau khi
hết thời hạn kháng nghị kháng cáo, tức là ngày kế tiếp sau kể từ thời điểm kết
thúc kháng nghị, kháng cáo. Thời điểm hết kháng nghị, kháng cáo là thời
điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn
là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết
thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời
điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày
đó. Trong trường hợp đình chỉ việc xét xử phúc thẩm thì bản án, quyết định
sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (khoản 2 Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Quyết
định phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định (khoản 3 Điều 248 Bộ
luật Tố tụng hình sự). Quyết định của hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định (khoản 1 Điều 288 và khoản 1
Điều 299 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Về các bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật,
nhưng được phép thi hành ngay được quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật
Tố tụng hình sự. Theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần I Nghị quyết số
02/2007/NQ-HĐTP các trường hợp bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị là trường
hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử
7
theo quy định tại các Điều 39, 176 và 180 của Bộ luật Tố tụng hình sự; trường
hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử vụ án theo quy
định tại Điều 199 của Bộ luật Tố tụng hình sự; trường hợp Hội đồng xét xử sơ
thẩm ra bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 199 Bộ luật Tố tụng hình sự
(về việc bị cáo không phạm tội) và Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự (về việc
trả tự do cho bị cáo) của Bộ luật Tố tụng hình sự; và trường hợp bị cáo bị phạt
tù nhưng được hưởng án treo và khi bản án đã có hiệu lực pháp luật mà thời
gian thử thách vẫn còn.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án hình sự số
53/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 29/6/2010 sẽ có hiệu
ngày 1/7/2011 ngoài các bản án, quyết định nêu trên, các bản án, quyết định
được thi hành sẽ có thêm: quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người
đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có
quyết định thi hành; quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
tại Việt Nam cho nước ngoài; bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư
pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường
giáo dưỡng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, công tác tổ chức thi hành bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật trong thực tiễn được tiến hành
theo thủ tục chặt chẽ được quy định tại Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự và
được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan, tổ chức trên cơ sở phân công trách
nhiệm thi hành án đã được quy định cụ thể tại Điều 257 Bộ luật Tố tụng hình
sự cùng các văn bản quy phạm pháp luật thi hành án hình sự. Đây là một đặc
trưng hết sức quan trọng của thi hành án hình sự, phản ánh rõ nét đặc thù
trong các quan hệ thủ tục về thi hành án, bao gồm cả quan hệ tố tụng và các
quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp [28, tr. 14] (đặc trưng này sẽ
được phân tích cụ thể tại phần 1.1.2 của luận văn về đặc điểm của thi hành án
hình sự).
8
Hơn nữa, Điều 136 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2001) quy định: "Các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu
lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn
vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [23]. Nguyên tắc Hiến định nêu
trên đã cho thấy tầm quan trọng của công tác thi hành án hình sự với tư cách
là hoạt động thực thi pháp luật sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật. Tầm quan trọng của công tác thi hành án hình sự được thể hiện
tập trung ở các những nhiệm vụ của thi hành án hình sự. Xét tổng thể, thi
hành án hình sự có các nhiệm vụ là: trước tiên, đảm bảo bản án và quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Đây được
coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, vì nếu bản án, quyết định đã có hiệu lực
của Tòa án không được thực hiện hoặc thực hiện không triệt để thì toàn bộ
hoạt động tố tụng trước đó gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sẽ không có ý
nghĩa. Hơn nữa, việc đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án sẽ là cơ sở đạt được mục đích của hình
phạt, biện pháp tư pháp được thực hiện trong thực tế. Thứ hai, giáo dục, cải
tạo người bị kết án trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, tạo điều
kiện để cho người bị kết án tái hòa nhập với cộng đồng và phòng ngừa họ tiếp
tục phạm tội mới. Theo đó, việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án là cơ sở để đánh giá hiệu quả của các hình phạt, biện
pháp pháp tư pháp được quy định tại Bộ luật Hình sự, cũng như đảm bảo mục
đích của hình phạt. Và cuối cùng, giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và thực
hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật góp phần thực hiện đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong thực tiễn.
Như vậy, thông qua phân tích nêu trên về nội dung, nhiệm vụ của hoạt
động thi hành án hình sự, có thể hiểu đưa bản án hình sự vào thi hành là một
hình thức hoạt động thực thi quyền lực nhà nước thông qua việc tổ chức thi
hành các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật của các
9
cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định của Tòa án theo
một thủ tục do pháp luật quy định, nhằm bào đảm người bị kết án phải chấp
hành án để họ tự giáo dục trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội,
phòng ngừa họ tiếp tục phạm tội mới và góp phần giáo dục ý thức tôn trọng,
tuân thủ pháp luật của người dân.
1.1.2. Những đặc điểm của việc đưa bản án hình sự vào thi hành
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở nước còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau về bản chất của thi hành án hình sự. Theo TS. Nguyễn Hữu Thư và
một số nhà luật học khác cho rằng, thi hành án hình sự là một giai đoạn của tố
tụng, bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ
quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết
định của Tòa án thì mới dừng lại ở việc làm rõ đúng hay sai, phải hay trái trên
văn bản, giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở hiệu
quả công tác thi hành án hình sự. Vì vậy, "thi hành án là giai đoạn tiếp theo
của quá trình xét xử" [28, tr. 12]. Quan điểm khác của PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn
cũng cho rằng thi hành án là một giai đoạn của tố tụng, nhưng "mục đích của
quá trình tố tụng là khôi phục lại tình trạng ban đầu bị hành vi vi phạm pháp luật
xâm phạm. Tuy nhiên, bên cạnh đó, thi hành án còn mục đích riêng. Nó vừa
mang tính hành chính - tư pháp được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng và pháp
luật về hành chính - tư pháp [28, tr. 13]. Quan điểm của GS.TS. Võ Khánh Vinh
cũng như nhiều nhà luật học khác cho rằng: "Thi hành án hình sự là một hoạt
động hành chính - tư pháp, có những nét đặc thù riêng khác với hoạt động tố
tụng hình sự, nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với tố tụng hình sự" [39].
Chúng tôi nhất trí với quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh ở chỗ,
thực chất hoạt động tố tụng hình sự là quá trình làm rõ sự thật khách quan của
vụ án hình sự, xác định rõ có hay không có tội phạm xảy ra, qua đó quyết
định việc áp dụng hay không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp tại bản án,
quyết định của Tòa án. Các hoạt động tố tụng gồm khởi tố, điều tra, truy tố,
10
xét xử trước đó được thực hiện theo những nguyên tắc, thủ tục do pháp luật tố
tụng hình sự điều chỉnh. Trái lại, thi hành án hình sự được hiểu là việc tổ chức
thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp được quy định tại các phán quyết
trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhằm mục
đích cải tạo người bị kết án, phòng ngừa không để họ phạm tội mới, tạo điều
kiện để người bị kết án tái hòa nhập với cộng đồng, đồng thời góp phần giáo
dục ý thức tuân thủ pháp luật và phòng, chống tội phạm. Như vậy, mục đích,
nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự và thi hành án hình sự là hoàn toàn
khác biệt. Hơn nữa, các biện pháp do cơ quan thi hành án để tác động đến
người bị kết án nhằm buộc họ thi hành các nghĩa vụ pháp lý trong bản án,
quyết định của Tòa án là thuyết phục giáo dục và mệnh lệnh hành chính.
Mặt khác, hoạt động thi hành án có nội dung rất đa dạng từ việc thi
hành các hình phạt chính do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án (cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân,
tử hình) cho đến thi hành các hình phạt bổ sung (cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế ); các
biện pháp tư pháp (tịch thu tang vật, bồi thường thiệt hại; giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng v.v… Theo đó, các quan hệ phát
sinh trong quá trình thi hành án hình sự cũng hết sức phức tạp. Các quan hệ
này tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành chính hơn là tính tố tụng và
do pháp luật thi hành án hình sự điều chỉnh. Có thể phân loại các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình thi hành án thành các nhóm cơ bản sau:
- Các quan hệ xã hội phát sinh phát sinh sau sau khi bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật (quan hệ phản ánh nội dung của việc thi
hành và chấp hành các bản án, quyết định của Tòa án, xác định quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án);
- Quan hệ liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức, quy định thẩm
quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan thi hành án hình sự;
11
- Quan hệ phát sinh trong quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết án;
quan hệ của các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức xã hội khi tham
gia vào quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết án.
Bên cạnh đó, tính độc lập tương đối của thi hành án hình sự so với các
hoạt động tố tụng còn được thể hiện ở đặc trưng thi hành bản án, quyết định
của Tòa án là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp. Theo quy định của
pháp luật hiện hành, không phải các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật thì sẽ được thi hành ngay mà phải thông qua một thủ tục hình chính,
đó là việc Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án được ủy thác thi hành
án ra quyết định thi hành án hình sự mới được thi hành. Hơn nữa, việc thi
hành các hình phạt không phải là hình phạt tù và tử hình, như cải tạo không
giam giữ, phạt tù nhưng cho hưởng án treo được giao cho các cơ quan, tổ
chức, chính quyền địa phương thực hiện theo thủ tục hành chính. Việc thi
hành các hình phạt khác như phạt tiền, trục xuất, các biện pháp tư pháp cũng
được thực thiện theo thủ tục hình chính. Vì vậy, không phải mọi hoạt động
trong quá trình thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án đều được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng hình sự.
Ngoài ra, tính tư pháp của hoạt động thi hành án được thể hiện ở các
phương diện như: nội dung của hoạt động thi hành án là thực hiện các phán
quyết của Tòa án, tức là nội dung có tính tư pháp; giữa thi hành án hình sự và
các hoạt động tố tụng trước đó có mối liên hệ chặt chẽ, đó là:
Mối liên hệ biện chứng giữa quá trình tố tụng hình sự và thi
hành án hình sự, trong đó tố tụng hình sự là tiền đề, khởi đầu của thi
hành án hình sự; ngược lại thi hành án hình sự là thực hiện kết quả
tố tụng trong thực tiễn. Không có tố tụng hình sự thì không có thi
hành án, nhưng không có thi hành án thì tố tụng hình sự trở nên vô
nghĩa [40, tr. 26-27].
Thi hành án hình sự có quan hệ mật thiết với pháp luật hình sự, trong
đó pháp luật hình sự xác định các khái niệm, và các quy định như khái niệm
12
trách nhiệm hình sự, hình phạt, biện pháp tư pháp; quy định về các loại hình
phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt làm cơ sở pháp lý cho công
tác triển khai áp dụng trong thực tế các loại hình, biện pháp tư pháp trong bản
án, quyết định của Tòa án đối với người bị kết án; và một số quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án do pháp luật
tố tụng hình sự điều chỉnh, ví dụ như trình tự, thủ tục thi hành các hình phạt
(hình phạt tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn) đối với người bị kết án hoặc
quan hệ phối hợp, hỗ trợ giữa các cơ quan thi hành án và cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc đưa bản án, quyết định của Tòa án vào thi hành trên thực tế
Trên cơ sở phân tích bản chất của thi hành án hình sự nói chung và
đưa bản án hình sự vào thi hành nói riêng có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đây là là một dạng của hoạt động thực thi quyền lực nhà
nước. Thi hành án hình sự thực chất là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng và hoạt động các cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền nhằm đảm bảo
cho nội dung tại bản án, quyết định của Tòa án được thi hành một cách chính
xác, kịp thời trong thực tiễn. Tòa án nhân dân với tư cách là cơ quan "xét xử
của nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 127 Hiến
pháp năm 1992), đại diện cho nhà nước, đưa ra các phán quyết bằng việc ra
bản án, quyết định việc bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác. Các phán quyết này là ý chí, thái độ của Nhà nước đối với
người bị kết án khi họ xâm phạm tới những quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Do đó, việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là
hoạt động đảm bảo cho ý chí của Nhà nước được thể hiện trong các phán
quyết của Tòa án trở thành hiện thực, cũng như đạt được mục đích của hình
phạt do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án.
Thứ hai, đây là hoạt động mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả
các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan. Đặc điểm này được xác
định trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của
Tòa án quy định tại Điều 136 Hiến pháp năm 1992: "Các bản án và quyết
13
định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành" và khoản 1 Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công
dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trược pháp luật về việc
chấp hành đó [24].
Nội dung của đặc điểm nêu trên của thi hành án hình sự được thể hiện
ở những phương diện, Tòa án nhân dân nhân danh nhà nước áp dụng các biện
pháp cưỡng chế được pháp luật thi hành án quy định đối với người bị kết án,
mà không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý chí và hành động của bất cứ cá nhân
hay tổ chức nào. Người bị kết án phải phục tùng những biện pháp cưỡng chế
mà Nhà nước áp dụng đối với họ. Nói cách khác, việc Nhà nước buộc người
bị kết án phải chấp hành hình phạt, các biện pháp tư pháp trong bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được bảo đảm thực bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước. Trong phạm vi trách nhiệm của mình cơ quan nhà
nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, tổ chức và công dân phải tạo điều
kiện, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thi hành bản án, quyết
định của Tòa án trong việc thi hành án. Các cơ quan nhà nước, chính quyền
xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ
quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc
thi hành án.
Thứ ba, đưa bản án hình sự vào thi hành được tiến hành theo thủ tục
do luật định. Thủ tục đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án được quy
định tại Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể như sau: căn cứ pháp lý để
đưa ra thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án việc
14
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra Quyết định thi hành án hoặc ủy thác
cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Nội dung của quyết định
thi hành án phải ghi rõ: Họ tên, chức vụ của người ra quyết định; tên cơ quan
có trách nhiệm thi hành bản án hoặc quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm
sinh, nơi cư trú của người bị kết án; bản án hoặc quyết định mà người đó phải
chấp hành (khoản 2 Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự). Theo quy định tại
điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP Tòa án
cùng cấp bao gồm:
Tòa án cùng cấp huyện (Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh) hoặc Tòa án cùng cấp tỉnh (Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án quân sự quân
khu và tương đương). Đối với Tòa án cấp huyện thì không phân
biệt Tòa án cấp huyện đó đã được tăng thẩm quyền theo Nghị quyết
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hay chưa [17].
Mặt khác, việc ủy thác ra quyết định thi hành án chỉ được thực hiện
trong các hai trường hợp sau: Cơ quan Công an cùng cấp có trách nhiệm thi
hành bản án, quyết định của Tòa án thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết
là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể hoặc Tòa án đã
xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa
bàn hành chính khác (điểm c tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I Nghị quyết số
02/2007/NQ-HĐTP). Thời hạn Tòa án phải ra quyết định thi hành án là 7 ngày
kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày
nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết
định tái thẩm. Trong trường hợp ủy thác ra quyết định thi hành án, Chánh án
Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án trong thời hạn 7 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành án. Sau khi Chánh án Tòa án
được quy định tại khoản 1 Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định thi
hành án, thủ tục đưa ra thi hành các bản án, quyết định của Tòa án được thực
hiện như sau: Đối với người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù đang tại
15
ngoại thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án
phải có mặt tại Cơ quan công an để thi hành án. Nếu người bị kết án bỏ trốn
thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan cùng cấp ra
quyết định truy nã. Trong trường hợp bị cáo bỏ trốn trước khi xét xử, cơ quan
quan công an đã có quyết định truy nã những không bắt giữ được người đó và
Tòa án đã xét xử vắng mặt thì khi bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án ra
quyết định thi hành án gửi Cơ quan công an cùng cấp mà không phải yêu cầu
ra quyết định truy nã mới. Đối với vụ án hình sự có nhiều bị cáo, mà trong
thời hạn kháng cáo, kháng nghị chỉ có một hoặc một số bị cáo có kháng cáo,
hoặc bị kháng cáo, kháng nghị thì phần của bản án đối với bị cáo không
kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và Tòa
án phải ra quyết định thi hành đối với người bị kết án đó (Mục 2 và Mục 4
Chỉ thị số 186/2006CT-CA ngày 11/10/2006 của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao về công tác thi hành án hình sự).
Như vậy, theo sự phân tích nêu trên Tòa án giữ vai trò trung tâm đối
với toàn bộ quá trình thi hành án. Vai trò này được thể hiện ở việc ra Quyết
định thi hành án và trách nhiệm thoi dõi việc thi hành án trong thực tế. Các cơ
quan thi hành án phải có trách nhiệm báo cáo cho Chánh án Tòa án đã ra
quyết định thi hành án về việc thi hành hoặc lý do chưa thi hành, cũng như
các biện pháp cần áp dụng để đảm bảo việc thi hành bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Thứ tư, đưa bản án hình sự vào thi hành được thực hiện bởi hệ thống
các cơ quan, tổ chức trên cơ sở phân công trách nhiệm thi hành án đã được
quy định cụ thể tại Điều 257 Bộ luật Tố tụng hình sự. Pháp luật hình sự hiện
hành quy định nhiều loại hình phạt, biện pháp tư pháp khác nhau. Mỗi loại
hình phạt, biện pháp tư pháp có mục đích và đặc điểm riêng. Căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của từng loại tội phạm được thực hiện thì mỗi
người bị kết án sẽ bị áp dụng một loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp cụ
thể. Theo đó, việc thi hành các loại hình phạt, biện pháp tư pháp trong thực tế
16
được thực hiện theo những thủ tục khác biệt phục thuộc vào mục đích và đặc
điểm của từng loại hình phạt, biện pháp tư pháp. Bởi vậy, để đảm bảo thi
hành kịp thời, chính xác, thống nhất hoạt động thi hành án hình sự, trách
nhiệm thi hành bản án, quyết định của Tòa án được quy định cho rất nhiều cơ
quan, tổ chức trên cơ sở phân công nhiệm vụ và phối hợp thực hiện.
Căn cứ theo quy định tại Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự, hiện nay
hệ thống cơ quan thi hành án hình sự ở nước ta được tổ chức như sau: Để thực
hiện việc thi hành án phạt tù (tù có thời hạn, tù chung thân), thi hành các biện
pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội (đưa vào
trường giáo dưỡng,). Nhà nước ta đã thành lập Cục quản lý trại giam trực
thuộc Bộ Công an, các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng; thành lập cơ sở
chuyên khoa y tế để thi hành biện pháp bặt buộc chữa bệnh; cơ quan thi hành
án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản. Đối với việc thi hành các
hình phạt khác, Nhà nước chưa thành lập cơ quan chuyên trách mà giao cho
chính quyền xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức nơi người bị kế án cư trú
hoặc làm việc thực hiện. Có thể nói, tổ chức hệ thống cơ quan thi hành án
hình sự nước ta rất phức tạp gồm cơ quan chuyên trách do Nhà nước thành
lập, vừa có sự tham gia của chính quyền địa phương, của các cơ quan khác và
các tổ chức xã hội. Sở dĩ như vậy là do sự đa dạng của các loại hình phạt, biện
pháp tư pháp, cũng như sự phong phú về thủ tục thực hiện các hình phạt, biện
pháp tư pháp này. Trong thực tiễn, cơ thi hành án hình sự không chỉ có nhiệm
vụ đảm bảo thực hiện thống nhất, kịp thời các bản án, quyết định của Tòa án.
Bên cạnh đó, cơ quan này còn có trách nhiệm thực hiện các biện pháp giáo
dục, cải tạo người bị kết án thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa họ
phạm tội mới, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng.
Nguyên tắc nói chung được hiểu là tư tưởng, quan điểm cơ bản, đóng
vai trò chỉ đạo các hành động cụ thể. Theo đó, có thể xác định nguyên tắc thi
hành án hình sự là tư tưởng, quan điểm:
17
Chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng các quy định
của pháp luật thi hành án hình sự trong khi thực hiện các bản án,
quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế;
giáo dục, cải tạo người bị kết án, phòng ngừa để họ không phạm tội
mới, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm [28, tr. 21].
Theo quy định tại Điều 4 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, việc thi
hành án hình sự phải theo các nguyên tắc: Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
bản án, quyết định có hiệu lực thi hành phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh; bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa;
tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án; kết
hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp
giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới
tính, trình độ văn hóa và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành
án; thi hành án đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã
hội; khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao
động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại; bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
những hành vi, quyết định trái pháp luật trong hoạt động thi hành án hình sự;
Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình vào việc giáo
dục cải tạo người chấp hành án [26].
1.2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VIỆC ĐƯA BẢN ÁN HÌNH SỰ
VÀO THI HÀNH
1.2.1. Đưa bản án tử hình vào thi hành
Trong hệ thống hình phạt được quy định tại Bộ luật Hình sự hiện
hành, hình phạt tử hình được coi là loại hình phạt nghiêm khắc nhất so với các
hình phạt khác. Tính nghiêm khắc của hình phạt này được thể hiện ở chỗ hình
18
phạt tử hình là tước bỏ quyền sống của người bị kết án theo quy định của
pháp luật. Do vậy đối với người phạm tội, hình phạt này không nhằm mục
đích giáo dục, cải tạo người bị kết án mà chỉ có tác dụng trừng trị và phòng
ngừa đối với những người khác trong xã hội.
Do liên quan đến mạng sống con người nên việc thi hành hình phạt tử
hình phải tuân thủ theo thủ tục nghiêm ngặt nhằm tránh những sai lầm không
thể khắc phục được. Thủ tục thi hành án tử hình ở nước ta hiện nay được quy
định tại Điều 258 và Điều 259 Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó, việc thi hành
hình phạt tử hình được thực hiện theo hai thủ tục: thủ tục xem xét bản án
trước khi đưa ra thi hành (Điều 258 Bộ luật Tố tụng hình sự) và thủ tục thi
hành hình phạt tử hình (Điều 259 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Về thủ tục xem xét bản án trước khi đưa ra thi hành được thực hiện
được quy định tại khoản 1 Điều 258 Bộ luật Tố tụng hình sự: Sau khi bản án
tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao và bản án phải được gửi ngay lên Viện trường Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được
bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trường Viện
kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Như vậy, trách nhiệm xem xét lại bản án tử hình được trao cho Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đồng thời, quy định rõ về thời hạn mà Chánh án Tòa án Tòa án nhân dân tối
cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét để quyết định
kháng nghị hoặc không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong trường hợp phát hiện bản án tử hình đã có hiệu lực pháp do Tòa án
tuyên không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án
(đối với thủ tục giám đốc thẩm) hoặc khi có tình tiết mới được phát hiện có
19
thể làm thay đổi nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết trước
khi ra bản án, quyết định đó (đối với thủ tục tái thẩm), thì bản án tử hình đó
được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đây là một thủ
tục đặc biệt nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật nói chung khi bị kháng nghị. Qua đó, đảm bảo việc
kịp thời tránh được những sai lầm trong việc quyết định áp dụng hình phạt tử
hình của Tòa án đối với người bị kết án nói riêng.
Tại giai đoạn này, người bị kết án tử hình có quyền gửi đơn xin ân
giảm án tử hình lên Chủ tịch nước. Theo quy định tại Điều 258 Bộ luật Tố
tụng hình sự việc gửi đơn xin ân giảm án tử hình được thực hiện trong hai
trường hợp là: "trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch nước";
và "trong trường hợp bản án tử hình bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm
Tòa án nhân dân tối cao quyết định không chấp thuận kháng nghị và giữ
nguyên bản án tử hình, thì Tòa án nhân dân tối cao phải thông báo ngay cho
người bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm án tử hình". Quy định về trách
nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao phải thông báo cho người bị kết án kết
quyết định không chấp thuận kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại khoản 2 Điều 258 là quy định mới so quy định tại khoản 2
Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, qua đó góp phần tăng cường
trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao trong việc kịp thời thông báo kết quả
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm cho người bị kết án, cũng như đảm bảo cho
người bị kết án kịp thời thực hiện quyền được xin Chủ tịch nước xem xét quyết
định ân giảm án tử hình. Như vậy, gửi đơn xin ân giảm án tử hình là quyền của
những người bị kết án khi những người này bị áp dụng hình phạt nghiêm khắc
nhất bởi tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ thực hiện và chủ
thể có thẩm quyền xét đơn xin ân giảm án tử hình là Chủ tịch nước. Theo
20
thông báo số 10-TB/VP-PL ngày 25/3/2009 của Văn phòng Chủ tịch nước hồ
sơ trình Chủ tịch nước xem xét ân giảm án tử hình gồm: Đơn xin ân giảm của
người bị kết án viết trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật hoặc đơn quá hạn có lý do chính đáng (đơn xin ân giảm phải là bản
chính có chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị kết án, trường hợp đơn xin ân
giảm được viết hộ hoặc được phiên dịch thì phải có chữ ký xác nhận, ghi rõ
họ, tên của người viết hộ hoặc người phiên dịch). Đơn xin ân giảm án tử hình
phải có xác nhận của đơn vị giam giữ người bị kết án; tờ trình của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định không kháng nghị của Tòa
án nhân dân tối cao và quyết định không kháng nghị của Viện trường Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đối với các bản án sơ thẩm và phúc thẩm; đơn xin
ân giảm án cho người bị kết án của tổ chức xã hội, nhân dân, chính quyền địa
phương hoặc của những người thân thích như bố, mẹ, anh, chi, em ruột của
người bị kết án (nếu có); biên bản khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của
người bị kết án gây ra. Cuối cùng, hậu quả pháp lý của việc xem xét đơn xin
ân giảm án tử hình là: án tử hình được chuyển thành từ chung thân nếu đơn
xin ân giảm được Chủ tịch nước chấp thuận hoặc bản án tử hình được thi
hành nếu Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.
Về điều kiện thi hành bản án tử hình, theo quy định tại tiểu mục 1.2
Mục 1 Phần II Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP bản án tử hình được thi
hành khi người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình
và Tòa án xử sơ thẩm đã nhận được quyết định không kháng nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao và quyết định không kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân
giảm hình phạt tử hình và Tòa án xử sơ thẩm đã nhận được quyết định không
kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, quyết định không kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và bản sao quyết định
của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình (do Tòa án nhân dân
tối cao gửi đến); người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt