Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.55 KB, 97 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nớc khi đợc chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật.
Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ
vững kỷ cơng phép nớc, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo cho quyền lực t pháp đợc thực thi trên thực tế. Hiến pháp 1992 khẳng
định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải đợc các cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những ngời và đơn vị hữu quan
nghiêm chỉnh chấp hành".
Nhận thức đợc tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nớc ta
đã đề ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao vai trò trách nhiệm của
các cơ quan thi hành án" [1].

Nhiều năm qua, Chính phủ đã xác định công tác
thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đa ra nhiều
giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này. Do vậy,
công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt đợc một số kết quả đáng
khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là: "Hệ thống cơ
quan thi hành án dân sự đợc hình thành trong cả nớc, công tác thi hành án dân
sự đã đợc triển khai và hoạt động có hiệu quả bớc đầu" [35]. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, công tác thi hành án dân sự hiện vẫn đang đứng trớc những khó khăn,
thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần đợc giải quyết.
Hiệu quả công tác thi hành án dân sự cha cao, cha đáp ứng đợc yêu cầu nhiệm
1
vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nớc và nhân dân; hoạt động thi
hành án cha thật sự đảm bảo đợc tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.


Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm qua là
tình trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lợng lớn ngày càng tăng, song cha có
biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Tính đến hết năm 2002 trong tổng số trên 450
ngàn vụ việc phải thi hành, thì có trên 173 ngàn vụ việc không có điều kiện thi
hành, chiếm gần 39% với tổng số tiền lên tới 8.000 tỷ đồng. Riêng năm 2002
trong số 276.749 việc có điều kiện thi hành thì chỉ có 247.000 việc các Cơ quan
thi hành án dân sự tổ chức thi hành đợc, chiếm 89.23% nhng số vụ việc thi hành
xong hoàn toàn chỉ đạt 160.061 vụ, chiếm 57.83%, cha kể số vụ việc cha có
điều kiện thi hành.
Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự hiện
nay. Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp
luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các
nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính quyền địa phơng) còn yếu
kém. Mặt khác, là do cha có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan
bảo vệ pháp luật, cũng nh cơ quan hữu quan trong quá trình thi hành án; cơ sở
pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự cha đợc hoàn thiện, hệ thống
các văn bản pháp lý về thi hành án dân sự cha đầy đủ, chậm đợc bổ sung, sửa
đổi kịp thời; cơ chế quản lý và cơ chế thi hành án hiện nay không hợp lý, gây
cản trở và làm giảm hiểu quả công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân
sự nói riêng.
Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt:
Kinh tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ... Nhng
trong khuôn khổ luận văn luật học, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những vấn đề
liên quan đến pháp luật.
2
Với tất cả những lý do nêu trên, việc chọn đề tài "Thực trạng và giải
pháp nhằm nâng cao hiểu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam" làm luận văn
thạc sĩ luật học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Những năm gần đây, trớc những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành
án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân
sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực
tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu
Khoa học Pháp lý - Bộ T pháp và Sở T pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì
thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ T pháp chủ trì
thực hiện; Đề tài cấp Nhà nớc đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ T
pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hớng hoàn thiện của Dự
án VIE/98/001" do Bộ T pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận án và công
trình nghiên cứu khác nh: Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cỡng chế
thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hớng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn
Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân
sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân
Hồng về "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về "Đổi
mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam"... Bên cạnh đó là Giáo trình môn
Luật tố tụng dân sự của trờng Đại học luật Hà Nội và các trờng Đại học có
chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật,
Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự
ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. ở một số công trình cũng đã
đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án
3
dân sự, nhng cha có công trình nào nghiên cứu vấn đề đó một cách toàn diện,
chuyên sâu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn
cho việc đa ra các giải pháp nhằm năng cao hiệu quả công tác thi hành án dân
sự ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay. Để đạt đợc mục tiêu lớn đó cần phải thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và thi hành án dân sự.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật về thi hành án
dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đa ra những giải pháp trớc mắt và lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự.
4. Phạm vi nghiên cứu
"Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự
ở Việt Nam" là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú
và phức tạp. Vì vậy, trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về thi hành án và thi hành án dân sự; đánh
giá thực trạng thi hành án dân sự và từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện
pháp luật thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trong
điều kiện mới của đất nớc ta.
5. Phơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật.
4
- Các phơng pháp cụ thể đợc sử dụng kết hợp, đó là: Phơng pháp nghiên
cứu lịch sử, phơng pháp phân tích, phơng pháp so sánh, phơng pháp thống kê,
tổng hợp.
6. ý nghĩa và những điểm mới của luận văn
- Luận văn đã đa ra và luận giải đợc một số quan điểm cơ bản về khái
niệm thi hành án và thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi

hành án và thi hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt
động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án.
- Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án dân sự, tác giả đã đa
ra đợc những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật thi hành án dân sự.
- Từ việc đánh giá thực tiễn thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích
những nguyên nhân và đa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chơng:
Chơng 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự.
Chơng 2: Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự và thực tiễn thi hành
án dân sự.
Chơng 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.
5
Chơng 1
Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự
1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án
Kể từ khi hoạt động thi hành án dân sự đợc chuyển giao từ Tòa án nhân
dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án (nhất là
thi hành án dân sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học
pháp lý. Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cách tiếp
cận khác nhau về thi hành án nhng trong đó nổi lên hai quan điểm cơ bản, đó là
quan điểm coi thi hành án là giai đoạn tố tụng và quan điểm coi thi hành án là
hoạt động hành chính - t pháp [27].
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của
quá trình tố tụng. Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong
quá trình giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trớc của giai đoạn xét xử là

giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét
xử, giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất
để thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật. Tính lệ thuộc của thi hành án vào công tác xét xử đợc thể hiện ở việc
khẳng định xét xử là tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò
và trách nhiệm của Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể hiện ở trách
nhiệm của Tòa án trong việc "giải thích những điểm cha rõ, có sai sót hoặc sai
lầm về số liệu" trong bản án, quyết định khi cơ quan thi hành án yêu cầu, hoặc
thẩm quyền của Tòa án trong việc hoãn thi hành án theo thời gian luật định, hay
"xem xét, kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
bản án quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng" khi cơ quan thi hành án kiến
6
nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi kết
quả thi hành án hay cách thức tiến hành thi hành án của cơ quan thi hành án.
Với quan điểm này, thi hành án đợc hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự tố
tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án đợc xét xử làm cho phán quyết của
Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ hai, coi thi hành án là hoạt động hành chính - t pháp.
Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án
chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nớc, trong đó Tòa án đã xác
định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn
khác, không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn tố
tụng, bởi vì "thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá
trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đa ra
phơng án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án
là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34, tr.21].
Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan điểm khác về thi
hành án:
Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động t pháp [39, tr. 8].

Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các
quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi
hành án phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo
mệnh lệnh hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của
các cá nhân những ngời đợc Nhà nớc giao trách nhiệm thi hành các bản án,
quyết định nh Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức và ngời
có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành án chẳng
qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan thi hành án
là tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng thi hành án
(nhất là thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính - t pháp vì
7
hoạt động thi hành án đợc thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của Chính phủ là
không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất nh thế nào không thể phụ thuộc
nhiều vào chủ thể thực hiện nó.
Quan điểm thứ t, coi thi hành án là thủ tục tố tụng t pháp [38, tr. 11]. Theo
tác giả thì không nên hiểu "tố tụng" chỉ là "tha kiện tại Tòa án nói chung", là hoạt
động của cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần xem xét đến bản
chất của tố tụng. Đó là việc thực hiện các quy định của pháp luật hình thức theo
thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh của
pháp luật nội dung nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nớc, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Tố tụng đợc thực hiện bởi nhiều cơ quan, hoạt động nào
tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy định là hoạt động tố tụng. Do đó có
nhiều loại tố tụng: tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng
thi hành án. Ngoài ra, khi xem xét về tính chất của việc thi hành án, thì tất cả
các bản án, quyết định của Tòa án và của Trọng tài đều có tính chất t pháp hiểu
theo nghĩa rộng, tức không chỉ là việc xét xử mà bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ t
pháp. Vì tất cả những lý do nêu trên thi hành án đợc hiểu theo nghĩa rộng là thủ
tục tố tụng t pháp.
Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận và cơ sở khoa học riêng. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính-

t pháp là có nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi hành án không chỉ đơn thuần là
hoạt động mang tính t pháp, hay là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng,
cũng không nên hiểu tố tụng theo một nghĩa không truyền thống nh quan điểm thứ
t để coi thi hành án là hoạt động tố tụng t pháp. Mà bản chất thi hành án thể hiện
cả hai đặc điểm rất rõ đó là tính hành chính và tính t pháp trong hoạt động của
mình. Vì thế nên coi thi hành án là hoạt động hành chính - t pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính
- Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án.
Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành
8
các hoạt động thi hành án. Do đó, không có kết quả của hoạt động xét xử thì
không có hoạt động thi hành án. Là một dạng hoạt động hành chính nhà nớc, thi
hành án thể hiện tính chấp hành, quản lý rất rõ "bởi toàn bộ quá trình thi thành
án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện
những nội dung đã đợc thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án và theo
các quy định cụ thể của pháp luật" [34].
- Trong quá trình thi hành án, Cơ quan thi hành án tác động tới đối tợng
phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc cơ quan thi hành án áp dụng các
biện pháp buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ đã đợc xác định trong bản án, quyết
định của Tòa án, quyết định khác theo quy định của pháp luật. Qua đó, giáo dục
họ và những ngời xung quanh về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích
của tập thể và cá nhân, kỷ cơng của Nhà nớc. Để thực hiện đợc điều đó, yêu cầu
của hoạt động thi hành án phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra... đó
là những tính chất của hoạt động quản lý.
- Đối với thi hành án, phơng pháp giáo dục, thuyết phục là cần thiết nh-
ng phơng pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thực hiện lại mang tính đặc trng (đặc
biệt là trong thi hành án hình sự).
Tuy nhiên, thi hành án không chỉ mang tính hành chính đơn thuần mà
nó còn thể hiện tính hành pháp.
* Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động t pháp

- Thi hành án chủ yếu do cơ quan t pháp (theo nghĩa rộng) tiến hành.
Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc
tổ chức thi hành án các bản án và quyết định phức tạp. Nhng thực tế đã chứng
minh vai trò của các cơ quan t pháp là hết sức quan trọng. Trong hoạt động thi
hành án dân sự, cơ quan thi hành án là Phòng Thi hành án thuộc Sở T pháp, Đội
Thi hành án thuộc phòng T pháp..... Ngoài ra còn có sự phối hợp của các cơ
quan, tổ chức khác nh Công an, tài chính...
9
- Hoạt động của cơ quan thi hành án phần lớn thông qua vai trò của các
cá nhân nh Chấp hành viên, Giám thị viên... những ngời đợc Nhà nớc giao trách
nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Khi thi hành nhiệm vụ họ
chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trớc pháp luật và đợc pháp luật bảo vệ.
Điều đó thể hiện tính độc lập rất cao trong hoạt động nghiệp vụ thi hành án.
- Cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Bao gồm các quy định
của pháp luật (đợc thể hiện trong các văn bản qui phạm pháp luật) và các bản
án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật
(văn bản áp dụng pháp luật).
- Mục đích của hoạt động thi hành án là đảm bảo cho nội dung của các
bản án, quyết định nói trên đợc thực thi trên thực tế.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của thi hành án, có thể hiểu thi
hành án là hoạt động hành chính - t pháp của Nhà nớc, do các cơ quan Nhà
nớc, ngời có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm
bảo thi hành các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ
quan có thẩm quyền.
1.1.2. Khái niệm, bản chất thi hành án dân sự
Vì thi hành án dân sự là một loại hình của thi hành án, nên cũng có thể
hiểu thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - t pháp của Nhà nớc, do cơ
quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo
thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác
của cơ quan có thẩm quyền.

Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu nh thế nào
về "dân sự" trong thi hành án?
Theo ý kiến thứ nhất thì "dân sự" đợc hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để đa
ra ý kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ luật dân sự năm 1995 cho
rằng, quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản phát
10
sinh trong giao lu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi
hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân
phi tài sản (nh bản án, quyết định về tranh chấp các loại hợp đồng dân sự, về
hôn nhân gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự).
ý kiến thứ hai hiểu "dân sự" theo nghĩa rộng. Theo pháp luật của nhiều n-
ớc trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội
dung là luật t (luật dân sự, luật kinh doanh, thơng mại, lao động) đợc thực hiện
theo một thủ tục chung qui định trọng bộ luật tố tụng dân sự [24].
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt
Nam thì "dân sự" trong thi hành án cần đợc hiểu một cách cụ thể. Đó là: Những
bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế; bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nớc ngoài; quyết định của Trọng tài nớc ngoài đ-
ợc Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân
sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản, thu
lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định
về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về hành chính; quyết định
tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thơng mại Việt Nam (Điều 1 Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự
* Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cơng an toàn xã
hội, tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa
Công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng có một ý
nghĩa, vai trò quan trọng trong hoạt động Nhà nớc. Thông qua hoạt động thi
hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nớc, thể hiện ý chí của

Nhà nớc đợc trở thành hiện thực, công lý xã hội đợc thực hiện. Quá trình giải
quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án đợc thi hành
kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự không đợc quan tâm và
không có hiệu quả thì sẽ ảnh hởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động
11
của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ cơng xã hội bị vi phạm, quyền
lực nhà nớc bị xem thờng, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại.
Thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho nhân dân đối với
tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ cơng, tăng cờng pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Ngợc lại, một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật mà không đợc thi hành trên thực tế cho thấy sự thiếu nghiêm minh
của pháp luật, dễ gây ra sự mất đoàn kết, xung đột kéo dài trong nhân dân, tạo
kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền lôi kéo nói xấu chế độ,
kích động thù hận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân.
* Thi hành án là thớc đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án và
hoạt động t pháp khác
Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém,
song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu nh bản án, quyết định
của Tòa án không đợc đa ra thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa đó, thi hành án
dân sự là một hoạt động không thể thiếu đợc trong quá trình bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đơng sự. Thông qua thi hành án, kết quả của công tác xét xử
đợc củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án đợc đảm bảo. Mặt
khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những
phán quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất lợng và hiệu quả của hoạt
động xét xử. Vì nếu nh bản án tuyên đúng với bản chất, hiện thực khách quan,
có lý, có tình thì trong quá trình thi hành án sẽ thuận lợi hơn những trờng hợp
bản án, quyết định của Tòa án không đúng sự thật, không phù hợp với thực tế
khách quan. Thực tế cho thấy có nhiều vụ việc đơng sự không tự nguyện thi
hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều nơi không phải vì cơ quan thi hành
án làm sai mà vì không đồng tình với quyết định của Tòa án nên cố tình trì hoãn

việc thi hành án.
* Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
12
Đặc thù của thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ
động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ
đạo của chính quyền địa phơng, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên quan và sự
đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm
của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án không chỉ là hoạt
động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mà còn là trách
nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phơng, đoàn thể xã hội và mọi thành
viên trong cộng đồng. Thông qua công tác thi hành án, ý thức pháp luật của
nhân dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đợc nâng lên.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Thi hành án dân
sự Việt Nam
Dới thời Pháp thuộc, thi hành án dân sự hình thành với tên gọi Thừa
phát lại. Nhng đến khi Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công tác thi
hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng đã có sự thay đổi căn bản về
chất.
Nhìn lại chặng đờng lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án dân
sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chúng ta có thể chia thành các giai đoạn
sau:
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Là giai đoạn mà tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự cha đợc dựa trên
một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan Nhà nớc
có thẩm quyền ban hành (Quốc hội hoặc ủy ban Thờng vụ Quốc hội). Giai
đoạn này, công tác thi hành án dân sự đặt dới sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án.
Tuy nhiên, về vấn đề quản lý nhà nớc và hình thức tổ chức thi hành án dân sự có
những thay đổi nhất định qua các thời kỳ: 1945 - 1949, 1950 -1980, 1981 -
1989.
* Thời kỳ 1945 - 1949

13
Sau Cách mạng tháng tám 1945, Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, hệ thống t pháp mới đợc thiết lập trong cả nớc. Trên cơ sở Sắc lệnh ngày
10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc giữ tạm thời các luật, lệ hiện
hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung thống
nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật ấy "không trái với những nguyên tắc độc
lập của Nhà nớc Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa", chế định Thừa phát
lại tiếp tục đợc duy trì. Tại Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ T
pháp, phòng giám đốc Hộ vụ đợc thành lập, trong đó có Ban công lại thực hiện
nhiệm vụ quản lý Thừa phát lại. Cũng theo tinh thần Sắc lệnh 10/10/1945 nói
trên, những quy định về thủ tục thi hành án dân sự tiếp tục đợc áp dụng, đáp
ứng yêu cầu hoạt động t pháp trong những năm đầu của chính quyền cách mạng
[6]. Ngày 20/11/1994, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa
ký Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán đã đặt cơ sở
pháp lý đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Tại khoản 3, Điều 3
của Sắc lệnh qui định: Ban t pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của
thẩm phán cấp trên.
Nh vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã đợc hình thành ngay trong những
năm đầu Cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dới hai hình thức là: Thừa
phát lại và Ban t pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lợng thi hành án, nhng việc thực
hiện thi hành án do Thừa phát lại hay Ban t pháp xã tiến hành, đều thể hiện
quyền lực nhà nớc và đợc đảm bảo bởi sức mạnh cỡng chế của Nhà nớc. Điều
này đợc thể hiện tại Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1945 của Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều thứ nhất của Sắc lệnh này quy định: "Các bản
toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng Lục sự phát cho
các đơng sự để thi hành bản án, hoặc mệnh lệnh của các Tòa án hộ đều có thể
thức thi hành, ấn định". "Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu của đơng sự thi hành bản án này, các
ông Chởng lý, và Biện lý kiểm sát việc thi hành án, Cai thị chỉ huy binh lực giúp
đỡ mỗi khi đơng sự chiếu luật yêu cầu".

14
Về trình tự thi hành án, Thông t số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trởng
Bộ T pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã qui định cụ thể những nguyên tắc
chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án. Thông t đã xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa phát lại, Ban t
pháp xã và nhấn mạnh vai trò của ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ quan liên
quan trong việc hỗ trợ thi hành án.
* Thời kỳ 1950 - 1980
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cải
cách bộ máy t pháp và luật tố tụng" tạo nên sự thay đổi có tính chất bớc ngoặt
trong tổ chức và hoạt động t pháp nói chung và thi hành án dân sự nói riêng. Tại
Điều 9 Sắc lệnh qui định: "Thẩm phán huyện dới sự kiểm soát của biện lý có
nhiệm vụ đem chấp hành các án Hình về khoản bồi thờng hay bồi hoàn và các
án Hộ mà chính Tòa án huyện và Tòa án trên đã tuyên". Theo quy định này,
việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban t pháp xã thực hiện trớc đây đợc
thay thế bằng thẩm phán huyện dới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Điều này
đã làm thay đổi căn bản cơ chế tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự.Thi hành
án dân sự từ chỗ căn cứ vào yêu cầu của đơng sự đã trở thành trách nhiệm của
Nhà nớc. Tòa án chủ động thi hành án dân sự mà không chờ yêu cầu của ngời
đợc thi hành án [16], [17], [18], [19].
Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội ban hành Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 1960. Tại Điều 24 của Luật xác định: "Tại các Tòa án nhân dân địa
phơng có nhân viên thi hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết
định dân sự, những khoản xử về bồi thờng và tài sản trong các bản án, quyết
định hình sự". Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án đ-
ợc xác định rõ trong luật tổ chức Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngày 13/10/1972,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số 186/CT về tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên.
15

Nhà nớc không tổ chức cơ quan thi hành án dân sự riêng mà chỉ đặt
Chấp hành viên tại các Tòa án nhân dân địa phơng để thực hiện chuyên trách
việc thi hành án dân sự. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành những bản án,
quyết định về dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thờng, hoàn
trả lại tài sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án Tòa án nhân
dân đôn đốc, kiểm tra công tác thi hành án tại các Tòa án nhân dân cấp dới.
Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ dới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân
dân nơi mình công tác. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên có
quyền định cho đơng sự một thời hạn để thi hành án, áp dụng biện pháp cỡng chế
mà pháp luật cho phép sau khi có sự thỏa thuận của Chánh án nơi Chấp hành
viên công tác, yêu cầu lực lợng bảo vệ trật tự trị an giúp sức khi cần thiết, đề nghị
Tòa án cấp có thẩm quyền hoãn, tạm đình chỉ thi hành án. Đồng thời, Chấp hành
viên có trách nhiệm thi hành đầy đủ và nhanh chóng bản án, quyết định của Tòa án
(Điều 4, Điều 5 Quyết định số /86/ TC ngày 13/10/1972).
Ngoài ra, pháp luật còn quy định trách nhiệm của ủy ban hành chính xã,
phờng cùng các cơ quan có liên quan trong việc tổ chức hỗ trợ thi hành án.Viện
kiểm sát nhân dân các cấp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp
hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân (Điều7 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân).
* Thời kỳ 1981 - 1989
Hiến pháp 1980 ra đời đã tạo tiền đề cho sự ra đời các văn bản pháp luật
khác. Trong đó có các Đạo luật về tổ chức của bộ máy nhà nớc, nhằm kiện toàn
bộ máy nhà nớc, phân tích rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cờng hiệu
lực quản lý nhà nớc bằng pháp luật. Theo qui định tại Điều 16 Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 1981 thì việc quản lý Tòa án nhân dân địa phơng về mặt tổ
chức đợc giao cho Bộ T pháp. Nghị định số 143 /HĐBT ngày 22/11/1981 của
Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) đã qui định: Bộ T pháp có chức năng
16
quản lý Tòa án nhân dân địa phơng về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc
quản lý công tác thi hành án dân sự.

Sau khi thực hiện việc chuyển giao công tác thi hành án dân sự, ngày
18/7/1982, Bộ T pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký Thông t liên ngành số
472 về "quản lý công tác thi hành án trong thời kỳ trớc mắt" đã qui định: ở địa
phơng tại các Tòa án cấp tỉnh có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy
của Tòa án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; ở các Tòa án cấp
huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dới sự chỉ đạo
của Chánh án. Việc quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực thi nhiệm vụ của Chấp
hành viên vẫn do Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp đảm nhiệm. Cơ chế thi
hành án này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan t pháp và Tòa án
từ Trung ơng đến địa phơng.
1.3.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 - 30/6/1993
Ngày 28/8/1989 Pháp lệnh thi hành án dân sự ra đời, đặt nền móng cho
việc tăng cờng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sở
đó, quy chế Chấp hành viên đợc ban hành kem theo Nghị định số 68/HĐBT
ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trởng. Theo quy định của các văn bản nói
trên, thì chỉ có Chấp hành viên là ngời đợc Nhà nớc giao trách nhiệm thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án (trớc đây việc thi hành án, ngoài Chấp hành
viên còn có thể do cán bộ thi hành án thực hiện). Bộ trởng Bộ T pháp quyết định
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên theo đề nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân địa phơng.
Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đơng sự với
sự chủ động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển
mới trong công tác thi hành án dân sự. Điều đó đợc thể hiện bằng việc quy
định: ngời phải thi hành án phải có đơn yêu cầu thi hành án thì Tòa án có thẩm
quyền mới tiến hành việc thi hành án (Điều 14 Pháp lệnh); Cơ quan thi hành án
chủ động ra quyết định thi hành án trong những trờng hợp nhất định nhằm bảo
17
vệ kịp thời lợi ích của Nhà nớc, quyền, lợi hợp pháp của tập thể và công dân nh
đối với những bản án, quyết định phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí, bồi thờng
thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa

Để hớng dẫn và cụ thể hóa Pháp lệnh 1981, hàng loạt những văn bản
pháp luật đã đợc ban hành nh: Thông t liên ngành số 06-89/ TTLN ngày
17/7/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ T
pháp; Thông t liên ngành số 07-89/TTLN ngày 10/12/1989 của Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ... Cùng với sự hoàn thiện hơn
về pháp luật, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án cũng đợc củng cố và tăng c-
ờng, đợc chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và chịu trách nhiệm
trớc Nhà nớc về việc thực hiện các phán quyết của Tòa án.
Tuy vậy, sự điều hành chỉ đạo công tác thi hành án vẫn cha đợc thay đổi
phù hợp. Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên thuộc Tòa án, do Tòa án trực tiếp
chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo trớc cấp trên về kết quả hoạt
động thi hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án đều
thuộc thẩm quyền của Chánh án, Chấp hành viên với trách nhiệm là "ngời đợc
Nhà nớc giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án" thực ra chỉ
là những ngời thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, không có quyền năng thực sự
để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Mặt khác, Chánh án với t cách là ngời
chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét xử lại là ngời chỉ đạo việc thi hành
những phán quyết của Tòa án nên không khách quan và quá tải về công việc.
Đội ngũ cán bộ thi hành án luôn bị xáo trộn, không đợc qui hoạch, đào tạo bồi
dỡng thờng xuyên. Cơ sở vật chất, phơng tiện phục vụ hoạt động thi hành án
hầu nh không đợc trang bị làm ảnh hởng đến công tác thi hành án.
1.3.3. Giai đoạn từ 1993 đến nay
Để khắc phục hạn chế nói trên, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX
ngày 06/10/1992 đã thông qua nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án
từ Tòa án nhân dân các cấp sang cơ quan của Chính phủ. Pháp lệnh thi hành án
dân sự 1993 thay thế Pháp lệnh dân sự năm 1989 đã tạo bớc ngoặt lớn về tổ
18
chức và hoạt động thi hành án, đa công tác này sang một giai đoạn mới, đáp ứng
yêu cầu của đất nớc trong thì kỳ đổi mới. Theo đó, công tác thi hành án dân sự
đợc chuyển từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ. Mô

hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự đợc thiết lập với hai loại cơ quan: Cơ
quan quản lý thi hành án dân sự và Cơ quan thi hành án dân sự. Địa vị pháp lý
của Chấp hành viên, quyền tự định đoạt của đơng sự tiếp tục đợc khẳng định.
Ngoài ra, Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 cũng có những qui định nhằm xác
lập cơ chế phối hợp của các ngành, cấp trong công tác thi hành án dân sự. Tuy
nhiên, do đợc ban hành trong điều kiện khẩn trơng nhằm kịp thời triển khai thi
hành nghị quyết về bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân các
cấp sang cơ quan của Chính phủ, nên những sửa đổi, bổ sung của Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 1993 là rất khiêm tốn, chủ yếu tập trung vào sự chuyển đổi
cơ chế thi hành án, mà không có sự sửa đổi, bổ sung về mặt trình tự, thủ tục thi
hành án. Do đó việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là
nhu cầu cấp bách nhằm đáp ứng thực tiễn đòi hỏi.
Ngày 14/01/2004, ủy ban Thờng vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004, với 8 chơng, 70 điều. So với Pháp lệnh năm 1993, đã
tăng thêm 1 chơng, 20 điều. Về mặt nội dung, Pháp lệnh năm 2004 đã đợc sửa
đổi, bổ sung một cách cơ bản, có nhiều nội dung đã đợc phát triển thêm, có
nhiều nội dung hoàn toàn mới đợc bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nớc, với tiến trình cải cách t pháp và cải cách hành
chính hiện nay.
1.4. Thi hành án dân sự một số nớc trên thế giới
1.4.1. Về tổ chức thi hành án dân sự
Tùy theo đặc điểm về truyền thống pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở
từng quốc gia mà tổ chức thi hành án dân sự đợc pháp luật qui định là một tổ
chức công, bán công hoặc là do t nhân đảm nhiệm [21].
* Thi hành án công
19
ở mô hình này tổ chức thi hành án bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc
bộ máy nhà nớc, các Chấp hành viên và công chức, viên chức hởng lơng từ
Ngân sách Nhà nớc. Mô hình tổ chức thi hành án công có thể phân làm hai loại:
Cơ quan thi hành án nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án và các cơ quan hành

chính t pháp hoặc cơ quan thuế.
- Cơ quan thi hành án nằm trong Tòa án
Tổ chức thi hành án ở các nớc này là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ
chức của Tòa án, Chấp hành viên là công chức đặt tại Tòa án do Chánh án hoặc
Bộ trởng Bộ t pháp bổ nhiệm. Toàn bộ hoạt động thi hành án đặt dới sự giám sát
chỉ đạo của Chánh án Tòa án địa phơng hoặc thẩm phán thi hành án. Mặc dù
vậy, hoạt động thi hành án đợc tiến hành theo một thứ tự chặt chẽ cho Chấp
hành viên tiến hành theo quy định của pháp luật.
Điển hình là Trung Quốc. Tòa án đảm nhiệm việc thi hành án dân sự,
bản án, quyết định dân sự và phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự đã có
hiệu lực pháp luật do Tòa án nhân dân sơ thẩm thi hành. Những bản án, quyết
định mà pháp luật qui định do Tòa án nhân dân thi hành sẽ do Tòa án nhân dân
nơi ngời phải thi hành án c trú hoặc nơi có tài sản của ngời phải thi hành án tiến
hành. Công tác thi hành án do Thi hành viên đảm nhiệm. Căn cứ vào yêu cầu
thực tế, Tòa án nhân dân cơ sở, Tòa án nhân dân trung cấp có thể lập cơ quan
thi hành án. Chức trách của cơ quan thi hành án do Tòa án nhân dân Tối cao
quy định.
- Cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành chính hoặc cơ quan thuế
Các cơ quan thi hành án loại này đợc chia làm hai dạng sau:
Một là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành một
hệ thống từ Trung ơng đến địa phơng thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ
quan quản lý hành chính t pháp.
20
Ví dụ nh Thái Lan: Tổ chức cơ quan thi hành án bao gồm: Ban th ký,
Ban tài chính, Ban thi hành án dân sự, Ban thực hiện dịch vụ theo chỉ định các
vụ phá sản; Trung tâm nhận giữ tài sản, Ban kết toán thi hành án và nhận giữ tài
sản của các khu vực và tỉnh thành.
Hai là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành một
hệ thống từ Trung ơng đến khu vực đặt dới sự quản lý của Hội đồng thuế quốc
gia.

Ví dụ nh ở Thụy Điển, các cơ quan thi hành án thuộc hệ thống các cơ
quan nhà nớc. ở cấp Trung ơng có cơ quan thi hành án trực thuộc Bộ tài chính,
ở địa phơng tơng đơng với 10 khu vực hành chính có 10 cơ quan thi hành án
khu vực. Trong mỗi cơ quan thi hành án có Giám đốc, Chấp hành viên, nhân
viên thanh tra với nhân viên hành chính.
* Tổ chức thi hành án bán công
Tổ chức thi hành án bán công là tổ chức thi hành án mà do công chức
thực hiện đối với một số việc thi hành án nhất định nh thu thuế, thi hành án đối
với bất động sản và quyền tài sản, tịch thu tài sản sung công quỹ, phạt tiền...
vừa cho viên chức thừa hành đảm nhiệm phần lớn công việc thi hành án dân sự
trên nguyên tắc lấy thu bù đắp chi phí thi hành án. Tơng tự nh tổ chức thi hành
án công, tổ chức thi hành án bán công cũng có thể nằm trong cơ cấu tổ chức của
Tòa án, hoặc các cơ quan hành chính.
Ví dụ ở Đức: Việc thi hành án dân sự do Tòa án khu vực đảm nhiệm. ở
Tòa án này có thẩm phán, nhân viên Tòa án, Chấp hành viên và nhân viên thi
hành án. Chấp hành viên chịu sự giám sát trực tiếp của Chánh án Tòa án cấp
khu vực. Tuy là công chức nhng Chấp hành viên thực hiện công việc của mình
một cách độc lập, có con dấu riêng, đợc hởng một khoản lơng cố định. Chấp
hành viên không làm việc tại cơ quan Tòa án mà mở văn phòng riêng và đợc
quyền tuyển nhân viên giúp việc. Chấp hành viên đợc hởng lơng, đợc hởng 15%
21
lệ phí thi hành án các khoản tiền thanh toán chi phí khác nh: đi lại, sao chụp tài
liệu.
* Tổ chức thi hành án t nhân
Là mô hình tổ chức chủ yếu theo quy chế Thừa phát lại. Thừa phát lại
do Nhà nớc bổ nhiệm, là ngời hành nghề theo quy chế tự do, Nhà nớc không trả l-
ơng mà hởng thù lao theo luật định. Thừa phát lại vừa thực hiện chức năng công
quyền (lập văn bản, thu hồi nợ, làm đại diện) và chức năng trợ giúp khác cho ngời
đợc thi hành án.Thừa phát lại - tổ chức nghề nghiệp, không phải là cơ quan nhà n-
ớc. Tuy nhiên, việc thi hành án có sự giám sát của Tòa án, trực tiếp là thẩm phán

thi hành án. Trong quá trình thi hành án, nếu có các vấn đề tranh chấp phát sinh,
thì thẩm phán thi hành án giải quyết. Thừa phát lại không phải là công chức nhà
nớc mà là ngời đợc Nhà nớc bổ nhiệm để thực hiện sứ mệnh công, nhng theo
qui chế của ngời hành nghề tự do, không ăn lơng Nhà nớc mà tự hạch toán.
Điển hình cho mô hình này là Cộng hòa Pháp.
1.4.2. Thủ tục thi hành án dân sự một số nớc trên thế giới
Theo nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Thủy, thì thủ tục thi hành
án dân sự của một số nớc trên thế giới đợc thể hiện qua những vấn đề sau:
* Về quyền yêu cầu thi hành án
Hầu hết ở các nớc đều ghi nhận nguyên tắc tự định đoạt của đơng sự,
điều đó đợc thể hiện bằng việc pháp luật qui định về quyền yêu cầu thi hành án.
Nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành, thì ngời đợc thi hành án có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cỡng chế thi hành. Cơ quan thi hành không
đợc từ chối yêu cầu của ngời đợc thi hành án nếu không có lý do đã đợc pháp
luật qui định, cho dù cơ quan thi hành án là một cơ quan nhà nớc hay hoạt động
với tính chất là tổ chức Thừa phát lại.
* Về lệ phí thi hành án
Pháp luật nhiều nớc (Pháp, Nhật, Thụy Điển...) đều cho phép cơ quan
thi hành án thu lệ phí thi hành án. Tùy điều kiện của mỗi nớc mà mức lệ phí có
22
khác nhau, nhng về nguyên tắc mức lệ phí đó thu đủ để chi phí cho hoạt động
thi hành án. Lệ phí thi hành án đợc tính trên cơ sở mức lệ phí tối thiểu (ngời yêu
cầu phải nộp khi nộp đơn yêu cầu thi hành án) và lệ phí trên giá trị tài sản thi
hành án (đợc tính theo phần trăm giá trị tài sản thi hành đợc). Ngoài ra, ngân
sách nhà nớc có thể hỗ trợ một phần cho hoạt động thi hành án, chủ yếu là việc
chi trả lơng cho Chấp hành viên, thẩm phán thi hành án nếu đó là thiết chế
thuộc bộ máy nhà nớc (Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Nhật Bản,
Singapore ).
Các chi phí cỡng chế thi hành án do ngời phải thi hành án chịu, trờng
hợp tài sản của ngời phải thi hành án không đủ thì có thể do ngời đợc thi hành

án chịu.
* Việc cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của ngời phải thi
hành án
ở nhiều nớc, pháp luật qui định ngời đợc thi hành án có nghĩa vụ cung
cấp các thông tin về điều kiện thi hành án của ngời phải thi hành án cũng nh đề
nghị biện pháp cỡng chế thi hành án cần thiết để cơ quan thi hành án thực hiện
(Thụy Điển, Nhật Bản ). ở các nớc này, việc quản lý thu nhập, tài sản của cá
nhân, tổ chức nói chung và ngời thi hành án nói riêng rất chặt chẽ, thể hiện ở hệ
thống các cơ quan đăng ký tài sản. Mọi ngời đều có quyền yêu cầu cơ quan này
cung cấp các thông tin về tài sản, nhất là các thông tin về bất động sản của một
cá nhân hay một tổ chức nào đó phải nộp một khoản lệ phí cho họ (Mỹ, Pháp,
Nhật). Ngoài ra, giữa cơ quan thi hành án và cơ quan đăng ký tài sản có thể trao
đổi thông tin qua mạng máy tính khi cần xác định điều kiện tài sản của ngời
phải thi hành án.
* Về thời hiệu thi hành án
ở các nớc khác nhau, thời hiệu thi hành án đợc quy định cũng khác
nhau. Nhng so sánh với Việt Nam, thì các nớc qui định thời hiệu thi hành án dài
hơn. Ví dụ ở Cộng hòa Liên bang Đức, thời hiệu thi hành án là 30 năm kể từ
23
ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; ở Thụy Điển thời hiệu thi hành
án là 10 năm. Hết 10 năm ngời phải thi hành án có đơn yêu cầu chấm dứt việc
thi hành án, nhng sau 11 năm có đơn yêu cầu của ngời đợc thi hành án thì Tòa
án vẫn phải thi hành án.
* Các biện pháp chế tài đối với ngời cố tình không thi hành án
Pháp luật nhiều nớc qui định các biện pháp chế tài có tính cỡng bức đối
với ngời phải thi hành án, nếu họ cố tình không chấp hành các yêu cầu của chấp
hành viên, cố tình không thi hành án.
Ví dụ nh ở Cộng hòa Liên bang Đức: chấp hành viên có quyền yêu cầu
cảnh sát áp giải đơng sự theo giấy triệu tập đến cơ quan thi hành án nếu đơng sự
cố tình trốn tránh, tuy đợc báo gọi nhiều lần mà không đến. Chấp hành viên có

quyền khám nhà và những nơi cất giữ tài sản của con nợ, có quyền cho mở khóa
nhà, khóa phòng hoặc ngăn có chứa đồ đạc bị khóa, nếu thấy việc đó cần thiết
cho việc thi hành án. Nếu con nợ chống đối hoặc phản kháng lại, Chấp hành
viên có quyền dùng vũ lực và yêu cầu cảnh sát hỗ trợ. Trờng hợp đơng sự không
có tài sản gì để thi hành án thì chủ nợ đợc quyền yêu cầu Tòa thi hành án triệu
tập con nợ đến Tòa để buộc con nợ phải tuyên thệ về việc không có tài sản đó.
Nếu con nợ không chịu tuyên thệ thì chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án bắt giam
cho đến khi con nợ đồng ý tuyên thệ.
ở Thụy Điển, Chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp phạt tiền,
nếu đã phạt tiền mà con nợ vẫn không đến thì cơ quan thi hành án có quyền yêu
cầu cảnh sát bắt họ. Cơ quan thi hành án cũng có quyền yêu cầu cảnh sát tạm
bắt giữ con nợ, khi con nợ cố tình trì hoãn không lập danh sách kê khai tài sản
của mình theo yêu cầu của cơ quan thi hành án.
Cộng hòa Pháp: Theo Bộ luật tố tụng dân sự của Pháp thì: một bản án,
quyết định chỉ đợc đa ra thi hành nếu đơng sự xuất trình một bản sao có ghi "để
thi hành", trừ khi pháp luật có quy định khác; bản án chỉ đợc thi hành khi ngời
phải thi hành án đã đợc tống đạt, trừ trờng hợp họ tự nguyện thi hành. Theo quy
24
định của pháp luật thì các giấy tờ có hiệu lực thi hành ngoài bản án của Tòa án
còn có các văn bản công chứng có ghi "để thi hành", trích lục biên bản hòa giải
thành, séc thanh toán
Thái Lan: Khi nhận đợc đơn đề nghị ra lệnh thi hành án của ngời đợc
thanh toán thi hành án, Tòa án ra một mệnh lệnh gọi là: "Lệnh thi hành án " và
gửi thẳng lệnh này cho Chấp hành viên do Tòa án chỉ định để tổ chức thi hành.
Trong lệnh này, Tòa án phải ghi rõ những việc phải làm để Chấp hành viên làm
căn cứ thi hành.
Nhật Bản: ở Nhật Bản, tài liệu cơ bản nhất cho các thủ tục thi hành c-
ỡng chế và tiêu chuẩn duy nhất để cơ quan thi hành án thực hiện việc thi hành
bằng biện pháp cỡng chế là chứng th nghĩa vụ dân sự, bao gồm: Bản án, quyết
định của Tòa án; yêu cầu về thanh toán kèm theo tuyên bố về thi hành tạm thời,

quyết định về lệ phí kiện tụng và các chứng th đã đợc cơ quan công chứng xác
nhận.
* Các biện pháp cỡng chế
Đây là biện pháp đợc áp dụng khi đơng sự không tự nguyện thi hành.
ở Thụy Điển: Các biện pháp cỡng chế có thể áp dụng là: kê biên tài
sản; trừ lơng hoặc tiền công của con nợ; đuổi ngời thuê nhà ra khỏi nhà cho
thuê; phá dỡ các công trình xây dựng, can thiệp vào việc thực hiện các hợp
đồng, khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản bị xâm chiếm, một số biện
pháp mang tính chất cảnh báo đối với những hành vi chống đối (nh yêu cầu bắt
giam) của con nợ và ngời có liên quan.
ở Thái Lan: Các biện pháp cỡng chế đợc thể hiện bằng các "Lệnh thi
hành án" của Tòa án gồm: Lệnh tịch thu tài sản, lệnh thu theo thu nhập của ngời
thi hành án, lệnh trục xuất ngời phải thi hành án ra khỏi nhà, lệnh tháo dỡ nhà.
* Những tài sản không đợc kê biên
Xuất phát từ chính sách nhân đạo, pháp luật các nớc đều có quy định
những tài sản cơ quan thi hành án không đợc kê biên ở mức độ nhất định nhằm
25

×