Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 158 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THANH HẢI





TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2010





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THANH HẢI




TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt






Hà nội - 2010


Mục lục



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


Mở đầu
1

Ch-ơng 1: Các vấn đề chung về tội gây rối trật tự
công cộng trong luật hình sự Việt Nam
7
1.1.
An toàn công cộng, trật tự công cộng với t- cách là khách thể

quan trọng đ-ợc luật hình sự Việt Nam bảo vệ
7
1.1.1.
Khái niệm an toàn công cộng, trật tự công cộng và các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
7
1.1.2.
Phân loại các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
14
1.2.
Khái niệm và phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một
số tội phạm khác trong luật hình sự Việt Nam
21
1.2.1.
Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng
21
1.2.2.
Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một số tội phạm khác
26
1.3.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt
Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến tr-ớc khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng
32
1.3.1.
Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến tr-ớc pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
32
1.3.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm

1985 đến tr-ớc pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự
năm 1999
37


Ch-ơng 2: Tội gây rối trật tự công cộng theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
và thực tiễn xét xử
47
2.1.
Tội gây rối trật tự công cộng theo quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999
47
2.1.1.
Một số điểm mới sửa đổi, bổ sung
47
2.1.2.
Các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội gây rối trật tự công cộng
55
2.1.3.
Hình phạt
66
2.2.
Thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng
69
2.2.1.
Nhận xét chung
69
2.2.2.
Tình hình xét xử tội gây rối trật tự công cộng

75
2.2.3.
Một số tồn tại, v-ớng mắc và các nguyên nhân của thực trạng này
89

Ch-ơng 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp
Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của bộ luật hình sự Việt Nam về tội gây rối
trật tự công cộng
106
3.1.
Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng
106
3.1.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng
106
3.1.2.
ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng
108
3.2.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 về tội gây rối trật tự công cộng
109
3.2.1.
Nhận xét chung
109
3.2.2.

Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể
112
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng
114

3.3.1.
Tăng c-ờng công tác h-ớng dẫn, giải thích các quy định của
Bộ luật hình sự trong t-ơng quan với các văn bản pháp luật
khác về hành vi gây rối trật tự công cộng
114
3.3.2.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân
115
3.3.3.
Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm
minh tội gây rối trật tự công cộng
121
3.3.4.
Giải pháp mang tính nghiệp vụ, chuyên ngành, quản lý hành
chính về trật tự xã hội
124
3.3.5.
Giải pháp tăng c-ờng đời sống, cơ sở vật chất, trang thiết bị,
công cụ hỗ trợ cho cán bộ, chiến sĩ, ng-ời thi hành công vụ và
trách nhiệm của đội ngũ làm công tác thi hành công vụ, bảo
vệ an toàn, trật tự xã hội
128


Kết luận
131

Danh mục Tài liệu tham khảo
134



Danh mục các bảng

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Sự khác nhau giữa tội gây rối trật tự công cộng và tội phá
rối an ninh
27
1.2
Sự khác nhau giữa tội gây rối trật tự công cộng và tội cố ý
gây th-ơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ng-ời khác
28
1.3
Sự khác nhau giữa tội gây rối trật tự công cộng và tội đua
xe trái phép
30
1.4
Sự khác nhau giữa tội gây rối trật tự công cộng và tội
chống ng-ời thi hành công vụ

31
2.1
Các nhóm quan hệ xã hội đ-ợc Bộ luật hình sự Việt Nam
bảo vệ
56
2.2
Tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng số vụ, số bị cáo
đã xử về tội gây rối trật tự công cộng trên tổng số vụ án,
số bị cáo đ-a ra xét xử trong 10 năm (2000-2009)
76
2.3
Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án xét xử về tội gây rối trật
tự công cộng trong 10 năm (2000-2009)
77
2.4
Tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tội gây rối
trật tự công cộng trong t-ơng quan với các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng trong 10 năm (2000-2009)
78
2.5
Tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tội gây rối
trật tự công cộng trong t-ơng quan với tội phá rối an ninh,
tội giết ng-ời, tội cố ý gây th-ơng tích, tội đua xe trái
phép và tội chống ng-ời thi hành công vụ trong 10 năm
(2000-2009)
80

2.6
Về hình phạt và các biện pháp tha miễn trách nhiệm hình
sự và hình phạt áp dụng đối với bị cáo bị Tòa án xét xử về

tội gây rối trật tự công cộng trong 10 năm (2000-2009)
83
2.7
Phân tích đặc điểm nhân thân của các bị cáo bị Tòa án
xét xử về tội gây rối trật tự công cộng trong 10 năm
(2000-2009)
84
2.8
Loại tội và số vụ án thực hiện trên địa bàn thành phố Hà
Nội qua nghiên cứu ngẫu nhiên tổng số 172 bản án
86

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của
Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền
làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời pháp luật
hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục người ý thức
chấp hành và tuân theo pháp luật.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của cả nước đã có những khởi
sắc đáng mừng, từ đó có những tác động tích cực đến đời sống của toàn bộ
nhân dân cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực đã đạt được, chúng ta
không thể không thấy những khó khăn và thách thức to lớn đặt ra với toàn
Đảng và toàn dân, đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội (nhất từ sau khi
Hà Nội được mở rộng ra bao trùm lên toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh và
bốn xã thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình), thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; v.v

Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng nói riêng và đặc biệt là tội gây rối trật tự công cộng trên các
thành phố, khu đô thị, thị xã lớn đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy
loại tội phạm này không có tính nguy hiểm cao so với các loại tội phạm khác
nhưng nó có tính phổ biến, đa dạng hình thức và có ảnh hưởng không nhỏ đến
tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tội phạm này thể hiện ở chỗ - hành vi
gây rối trật tự công cộng xâm phạm nghiêm trọng các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực công cộng, gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
nước và công dân, hành vi này được thực hiện công khai và thường ở những
nơi đông người, biểu hiện ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của

2
Nhà nước. Hình thức biểu hiện của hành vi gây rối thường là: Hành hung,
đánh lộn, đập phá, gây lộn xộn ở nơi đông người, tụ tập đi xe máy tốc độ cao,
lạng lách, đánh võng, gây huyên náo đường phố và ngày càng có xu hướng
gia tăng, kèm theo đó là các hành vi hủy hoại tài sản, chống người thi hành
công vụ, cố ý gây thương tích, thậm chí là giết người; v.v Qua các số liệu
thống kê chính thức được thu thập từ các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án
trong cả nước, đặc biệt là các thành phố lớn cho thấy, diễn biến của loại hành
vi và tội phạm này ngày càng phức tạp (ví dụ: vụ án gây rối trật tự công cộng
và hủy hoại tài sản tại 178 Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội năm 2008; vụ án đua
xe trái phép và gây rối trật tự công cộng tại quận Hoàng Kiếm, Hà Nội năm
2009), với nhiều hình thức vi phạm và phạm tội khác nhau, trong đó đáng báo
động là số lượng những người phạm tội tham gia ngày một đông hơn, trẻ hơn
và trong độ tuổi học sinh, sinh viên chiếm tỷ lệ cao (ví dụ: vụ án gây rối trật
tự công cộng tại Đồng Nai năm 2009 với 46 bị cáo; vụ án gây rối trật tự công
cộng và hủy hoại tài sản tại tỉnh Phú Yên năm 2006 với 37 bị cáo; vụ án giết
người và gây rối trật tự công cộng tại thành phố Đà Nẵng năm 2007 với 18 bị
cáo; v.v ). Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, từ năm 2005 đến năm 2008,
tổng số vi phạm pháp luật hình sự trong học sinh, sinh viên khoảng hơn 8.000

trường hợp, trong đó các hành vi đánh nhau gây rối trật tự công cộng (hơn
2.000 trường hợp), các tội phạm ma túy (815 trường hợp), giết người (83 vụ),
cướp tài sản (1.372 vụ), xâm hại sức khỏe, tính mạng (1.117 vụ) [3]. Bên cạnh
đó, dưới góc độ thực tiễn xét xử cho thấy nếu năm 2007, Tòa án xét xử tổng
số 320 vụ án và 983 bị cáo về tội gây rối trật tự công cộng, thì đến năm 2008
là 288 vụ án và 1.004 bị cáo, đến năm 2009 là 320 vụ án và 1.170 bị cáo, có
sự gia tăng về số vụ và đặc biệt là số bị cáo tham gia [70], xảy ra trên nhiều
lĩnh vực, khu vực với quy mô, mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Vì vậy, để làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của tội gây rối trật tự công
cộng, phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một số tội phạm khác, phân
tích lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về tội gây rối

3
trật tự công cộng từ năm 1945 đến nay, đánh giá thực tiễn xét xử loại tội
phạm này ở nước ta trong thời gian vừa qua (2000-2009), trên cơ sở đó, chỉ ra
một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn, lý luận và các nguyên nhân cơ bản,
qua đó bước đầu tìm giải pháp hoàn thiện trên phương diện lập pháp hình sự
và giải pháp về mặt thực tiễn (góc độ tội phạm học) để góp phần phòng,
chống tội phạm này, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội có ý nghĩa chính
trị - pháp lý và lý luận - thực tiễn quan trọng. Đây còn là lý do để chúng tôi
quyết định lựa chọn đề tài: "Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự
Việt Nam" làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới khoa học của luận văn
Chương XIX Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2009) quy định về các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng. Các nội dung chính cũng như các điều luật trong chương này,
trong đó có sự phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội gây rối trật tự
công cộng đã được một số nhà khoa học - luật gia hình sự quan tâm nghiên
cứu, đồng thời thể hiện ở một số sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và
giáo trình đại học, chẳng hạn như:

1) GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm)", do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003.
2) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm)", do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2001.
3) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XXV - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam", (Tập II), do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2010.

4
4) TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 - Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng, Trong sách: "Luật hình sự Việt Nam" (Quyển 2 - Phần các
tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
5) TS. Trương Quang Vinh, Bình luận các điều 241 đến 256, Trong
sách: "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999" (tái bản có
sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
6) TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), TS. Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh
Tiến Việt và tập thể tác giả, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành", Nxb
Lao động, Hà Nội, 2010.
7) TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật
tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2002.
8) TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999", Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.

9) ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự -
Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; v.v
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu trên chỉ xem xét tội gây
rối trật tự công cộng với ý nghĩa là một tội phạm để bình luận các dấu hiệu
pháp lý hình sự và hình phạt, cũng như phân tích việc định tội danh trong
tương quan giữa tội phạm này với tội phá rối an ninh, tội giết người, tội chống
người thi hành công vụ, tội gây rối trật tự công cộng hoặc chỉ xem xét dưới
góc độ phòng ngừa dưới góc tội phạm học cả nhóm tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng trong Bộ luật hình sự năm 1999, mà chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống và ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học dưới góc độ pháp lý hình sự về tội gây rối trật tự công

5
cộng. Do đó, điểm mới về mặt khoa học của đề tài là lần đầu tiên trong khoa học
luật hình sự đề cập đến riêng tội phạm này dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật
học.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý
cơ bản của các tội xâm phạm trật tự công cộng như: khái niệm, các dấu hiệu
pháp lý, hình phạt, phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với các tội phạm khác,
đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng trên
địa bàn cả nước, đặc biệt là qua các vụ án tại một số thành phố lớn (như: Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng; v.v ). Trên cơ sở đó, luận văn
chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, định tội để đề xuất một số
kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về xử lý loại tội phạm
này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội gây
rối trật tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học
pháp lý như: lịch sử, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật
hình sự, tội phạm học và triết học, những luận điểm khoa học trong các công
trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí trong và
ngoài nước.

6
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học
luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả
đã làm rõ các vấn đề chung tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự
Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy
định trong luật hình sự nước ta về tội phạm này từ năm 1945 đến nay, phân
biệt tội phạm này với một số tội phạm khác hay có sự nhầm lẫn trong thực
tiễn; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội gây rối trật
tự công cộng và thực tiễn xét xử (2000-2009), qua đó chỉ ra nguyên nhân của
thực trạng này và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp
khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội gây
rối trật tự công cộng ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận

cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên,
học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như
phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự
Việt Nam liên quan đến tội gây rối trật tự công cộng, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này, cũng như giữ
vững an ninh trật tự, an toàn xã hội hiện nay ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề chung về tội gây rối trật tự công cộng trong
luật hình sự Việt Nam.

7
Chương 2: Tội gây rối trật tự công cộng theo quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công
cộng.

8
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VỚI TƯ CÁCH LÀ
KHÁCH THỂ QUAN TRỌNG ĐƯỢC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM BẢO VỆ
1.1.1. Khái niệm an toàn công cộng, trật tự công cộng và các tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
Công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và những hành vi vi
phạm pháp luật nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn

là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta năm 1991 đã viết: "Kết hợp lực
lượng chuyên trách, nửa chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với
phong trào quần chúng. Kết hợp biện pháp phòng ngừa, giáo dục là cơ bản
với trấn áp, trừng trị các loại tội phạm " [20, tr. 17]. Thực hiện nhiệm vụ
quan trọng này, trước tiên phải xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,
bảo đảm Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, "pháp chế như là tính thiêng liêng của pháp
luật, tính bền vững của các quy phạm pháp lý Pháp chế có mối quan hệ chặt
chẽ với pháp luật, với bình đẳng và với sự tuân thủ luật pháp, không một ai,
không một người nào có bất kỳ một đặc quyền nào trước pháp luật " [1, tr.
100-102].
Sau nữa, phải tổ chức được mọi tầng lớp nhân dân cùng các cơ quan bảo
vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội tham gia vào cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm mọi hành động xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, trật tự

9
công cộng, an toàn xã hội đều bị xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội.
Đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
phải kể đến luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất trong hệ thống
pháp luật của Nhà nước quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là
các tội phạm và danh mục hình phạt và các biện pháp pháp lý hình sự cần áp
dụng đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó.
Luật hình sự đã xác định các khách thể cần được xác lập và bảo vệ trong Điều 1
Bộ luật hình sự. Do đó, với tư cách là khách thể quan trọng được luật hình sự
bảo vệ, đòi hỏi phải làm rõ hai phạm trù "an toàn công cộng" và "trật tự công
cộng".

Trước hết, "an toàn công cộng" không được đề cập với tư cách là một
thuật ngữ trong các Từ điển, tuy nhiên, xét riêng cụm từ "an toàn" được hiểu:
"Yên ổn hoàn toàn không nguy hiểm" [90, tr. 26], còn "công cộng" được hiểu là
"chung cho hoặc thuộc về mọi người" [90, tr. 345]. Do đó, dưới góc độ pháp lý,
"an toàn công cộng" được hiểu là trạng thái ổn định, hoàn toàn không có nguy
hiểm đối với mọi người xung quanh hoặc an toàn xã hội đối với mọi người.
Trong khi đó, nếu "trật tự" được hiểu là "tình trạng ổn định, có tổ
chức, có kỹ thuật" [90, tr. 1641] thì chỉ riêng Từ điển Luật học lại có giải
thích "trật tự công cộng". Theo đó, trật tự công cộng được hiểu là:
Trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng.
Những nơi phục vụ lợi ích công cộng như đường phố, quảng
trường, công viên, bệnh viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, bãi biển, khu
nghỉ mát được tổ chức sắp xếp ngăn nắp, các quy ước chung
được mọi người tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh. Quy tắc bắt
buộc phải tuân theo để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, thể hiện
toàn bộ yêu cầu cơ bản của xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội [78, tr. 809].

10
Như vậy, xét riêng trong lĩnh vực chung của xã hội, an toàn công
cộng, trật tự công cộng được coi là điều kiện bảo đảm cho mọi công dân có cơ
hội tồn tại, phát triển và sử dụng tốt năng lực, cống hiến của mình để xây
dựng một xã hội văn minh, dân chủ, giàu đẹp, có cuộc sống ấm no, bình đẳng,
tiến bộ và hạnh phúc. Cho nên, dưới bất kỳ hình thức nào, bằng cách này hay
cách khác, việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng không
những là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, mà
đến lượt mình, Nhà nước lại đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi công
dân phải tuân thủ một cách nghiêm túc pháp luật và các quy tắc của cuộc sống
xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho nên, dưới góc độ pháp lý, tất cả các hành vi xâm

phạm "an toàn công cộng, trật tự công cộng" đều gây nên những thiệt hại
nhất định cho cuộc sống bình thường của công dân cần thiết phải bị xử lý, tùy
theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình
thức xử lý khác nhau từ xử phạt hành chính đến xử lý hình sự.
Có thể nói, ngay từ khi giành được chính quyền, bên cạnh việc bảo vệ
thành quả cách mạng, Đảng và Nhà nước ta cũng quan tâm đến việc bảo vệ an
toàn công cộng, trật tự công cộng không chỉ bằng việc ban hành hàng loạt các
văn bản có liên quan đến lĩnh vực này, mà còn có những biện pháp thiết thực
để đưa các văn bản đó vào thực tiễn cuộc sống. Hiến pháp Việt Nam năm
1992 đã nhấn mạnh: "Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của
Nhà nước và lợi ích công cộng" (Điều 78) và "Công dân có nghĩa vụ tuân
theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc của sinh hoạt
công cộng" (Điều 79). Nói một cách khác, tôn trọng và bảo vệ "an toàn công
cộng, trật tự công cộng là một trong những thước đo, tiêu chí để đánh giá sự
ổn định của xã hội, đánh giá sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, khả
năng quản lý của các cơ quan, tổ chức, đồng thời nó cũng đánh giá được ý
thức pháp luật, văn minh pháp lý của công dân" [31, tr. 439].

11
Đặc biệt, ngày 31/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
09/1998/NQ-CP về Tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg
phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Qua năm năm thực
hiện các văn bản trên, chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng: từng
bước nâng cao nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm đấu tranh phòng,
chống tội phạm; tạo lập cơ chế phối hợp đồng bộ, phát huy được sức mạnh
tổng hợp của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng,
chống tội phạm; từng bước kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, làm
giảm một số loại tội phạm nghiêm trọng; giữ vững an ninh chính trị và trật tự

an toàn xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 09/CP và
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm từ nay đến năm 2010, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 37/2004/Ct-TTg "Về việc tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm
của Chính phủ đến năm 2010" ngày 08/11/2004, trong đó nhấn mạnh:
Một là, về mục tiêu, yêu cầu: "1. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội trong mọi tình huống, tạo ra môi trường xã hội ổn định phục
vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Giữ vững kỷ cương pháp luật, sự nghiêm
minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa ".
Hai là, về chủ trương, biện pháp: " 3. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền về Nghị quyết số 09/CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm để mọi người dân nhận thức đầy đủ và tự giác thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội; kịp thời biểu dương những gương người tốt, việc tốt và các
điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân phòng, chống tội phạm 6. Tiếp
tục thực hiện bốn đề án của Chương trình là: "Phát động toàn dân tham gia
phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục, cải tạo người

12
phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư"; "Xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về phòng, chống tội phạm, tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật
và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh trật tự"; "Đấu tranh phòng, chống
các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm và tội phạm có tính
quốc tế"; "Đấu tranh phòng, chống các loại tội xâm hại trẻ em; tội phạm
trong lứa tuổi chưa thành niên".
Nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ bổ sung một số đề án, dự án,
chương trình hành động nhằm tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc mới
nổi lên về an ninh trật tự và nâng cao năng lực hoạt động phòng, chống tội

phạm. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tội phạm học và khoa học phòng,
chống tội phạm. Nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự
báo tình hình tội phạm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ".
Để bảo vệ "an toàn công cộng, trật tự công cộng" với tư cách là khách
thể quan trọng được luật hình sự xác lập và bảo vệ, ngay từ Bộ luật hình sự
đầu tiên của nước ta năm 1985, nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng được xếp chung tại Chương VIII: "Các tội xâm phạm an toàn, trật
tự công cộng, trật tự quản lý hành chính" với ba nhóm quan hệ xã hội được
luật hình sự xác lập và bảo vệ - an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự
quản lý hành chính. Quá trình áp dụng pháp luật cho thấy, các tội phạm được
quy định ở chương này có các khách thể loại khác nhau. Các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng xâm phạm vào những quy định, quy tắc bảo
đảm an toàn, trật tự trong cuộc sống của mọi công dân. Còn các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành chính xâm phạm vào hoạt động bình thường của cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội. Mặt khác, nhóm các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng chiếm số lượng lớn nhất so với các loại tội phạm ở các
chương khác Bộ luật hình sự, do đó, cần phải tách riêng nhóm tội xâm phạm
an toàn công cộng, trật tự công cộng với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính. Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định Chương XIX - "Các
tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" để làm cơ sở pháp lý để

13
truy cứu trách nhiệm hình sự những người có hành vi xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, qua đó gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của tổ
chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến
các hoạt động bình thường, ổn định của xã hội và nơi công cộng.
Trong khi đó, xét riêng dưới góc độ khoa học, quan điểm về khái niệm
"các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" mặc dù còn nhiều ý
kiến khác nhau, song tựu trung lại tổng hợp các quan điểm đó vẫn thống nhất
trong việc nêu ra bản chất pháp lý của nhóm tội phạm này.

Có tác giả quan niệm:
Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm vào những quy định của
nhà nước về an toàn, trật tự công cộng trong các lĩnh vực giao
thông vận tải, phòng cháy chữa cháy, tin học, lao động sản xuất,
quản lý vũ khí, phương tiện, công cụ hỗ trợ, chất cháy, chất độc,
chất phóng xạ, và trong những lĩnh vực khác của trật tự xã hội gây
nên những thiệt hại về tính mạng, tổn hại đến sức khỏe, tài sản của
Nhà nước và của công dân [44, tr. 494].
Quan điểm này có nhân tố hợp lý là đã phân loại đầy đủ và chi tiết
từng nhóm tội xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau liên quan đến an toàn
công cộng, trật tự công cộng, tuy nhiên lại chưa thấy nêu dấu hiệu chủ thể của
nhóm tội phạm này trong khái niệm đã nêu.
Tác giả khác lại cho rằng:
Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại Chương XIX của Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công
cộng, gây ra những thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nhân dân,
gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và của cá nhân [85, tr. 401].

14
Quan điểm này nêu tương đối đầy đủ nội dung, nhưng trong dấu hiệu
chủ thể của nhóm tội phạm này còn chưa nêu dấu hiệu "đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự", vì đây là một dấu hiệu hoàn toàn khác với dấu hiệu "có năng
lực trách nhiệm hình sự".
Tương tự, có tác giả quan niệm:
Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, do người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào

những quy định của Nhà nước về an toàn công cộng, trật tự công
cộng, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức,
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm
đến hoạt động bình thường ở những nơi công cộng [31, tr. 439].
Quan điểm này nêu tương đối đầy đủ nội dung, trong đó nhấn mạnh
thêm việc các hành vi xâm phạm đến cả "hoạt động bình thường ở những nơi
công cộng, nhưng trong dấu hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này còn chưa nêu
dấu hiệu "đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự" như quan điểm đã nêu trên, vì đây là
một dấu hiệu hoàn toàn khác với dấu hiệu "có năng lực trách nhiệm hình sự".
Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự, các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những
người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về
an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà
nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, đồng
thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công
cộng.
Từ khái niệm này, chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về an

15
toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà
nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, đồng
thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công
cộng.
Hai là, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội do những người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Ba là, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng được những

người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, không có mục đích chống chính quyền nhân
dân.
1.1.2. Phân loại các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
Phân loại tội phạm có thể dựa vào tiêu chí (căn cứ) khác nhau như:
Tính chất nguy hiểm cho xã hội và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội; mức cao nhất của khung hình phạt (chế tài); hình thức lỗi cố ý hay
vô ý; khách thể (quan hệ xã hội) được luật hình sự xác định và bảo vệ bị tội
phạm xâm hại Việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự trên cơ sở
khoa học - thực tiễn sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc áp dụng đúng đắn
và chính xác các quy định của pháp luật trong công tác truy cứu trách nhiệm
hình sự người phạm tội, xác định rõ thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử,
cũng như phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người
phạm tội. Khi viết về vai trò và giá trị thực tiễn của chế định phân loại tội
phạm, GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã viết:
Phân loại tội phạm đúng không chỉ là một trong những căn
cứ quan trọng để phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, cũng
như áp dụng chính xác một loạt các chế định khác của Phần chung
luật hình sự (như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án
treo, xác định tái phạm ), mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc

16
xây dựng một cách chính xác và khoa học các chế tài pháp lý hình
sự trong Phần riêng của nó [12, tr. 316].
Trong khi đó, việc phân loại các tội phạm cụ thể - các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng có ý nghĩa quan trọng ở chỗ - làm rõ khách
thể của tội phạm xâm hại đến quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ,
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hình thức lỗi
của từng loại tội phạm, cũng như các chế tài pháp lý được áp dụng. Qua nghiên
cứu cho thấy, về cơ bản các nhà khoa học - luật gia [31, tr. 439], [37, tr. 649],

[62, tr. 244], [85, tr. 401], đều căn cứ vào sự phân loại các nhóm tội phạm
theo Bộ luật hình sự năm 1999 (từng nhóm quan hệ xã hội mà một nhóm tội
phạm xâm phạm đến) để thống nhất chia thành các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng thành hai nhóm chính như sau:
* Nhóm thứ nhất - Các tội xâm phạm an toàn công cộng. Nhóm tội
phạm này rất đa dạng trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội về xâm
phạm đến các quy định về an toàn công cộng như: các quy tắc của đời sống xã
hội, ở những nơi công cộng trên các lĩnh vực giao thông vận tải (đường sắt,
đường bộ, đường thủy, đường không), trong lao động sản xuất, quản lý vũ
khí, chất cháy, chất nổ; v.v Việc quy định những vấn đề này nhằm bảo đảm
an toàn tài sản của Nhà nước, của tổ chức, an toàn về tính mạng, sức khỏe và
tài sản của công dân, bảo đảm sự bình yên, ổn định của xã hội.
Nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng bao gồm 47 tội danh
trong Bộ luật hình sự năm 1999 (có 04 tội danh được bổ sung theo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự ngày 19/6/2009 của Quốc hội),
cụ thể là: 1) Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ (Điều 202); 2) Tội cản trở giao thông đường bộ (Điều 203); 3) Tội đưa vào sử
dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn (Điều 204);
4) Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương
tiện giao thông đường bộ (Điều 205); 5) Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206);
6) Tội đua xe trái phép (Điều 207); 7) Tội vi phạm quy định về điều khiển

17
phương tiện giao thông đường sắt (Điều 208); 8) Tội cản trở giao thông đường
sắt (Điều 209); 9) Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường sắt
không bảo đảm an toàn (Điều 210); 10) Tội điều động hoặc giao cho người
không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt (Điều 211);
11) Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy
(Điều 212); 12) Tội cản trở giao thông đường thủy (Điều 213); 13) Tội đưa vào
sử dụng các phương tiện giao thông đường thủy không bảo đảm an toàn (Điều

214); 14) Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường thủy (Điều 215); 15) Tội vi phạm quy định điều
khiển tàu bay (Điều 216); 16) Tội cản trở giao thông đường không (Điều 217);
17) Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm
an toàn (Điều 218); 18) Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện
điều khiển các phương tiện giao thông đường không (Điều 219); 19) Tội vi
phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông (Điều
220); 20) Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221); 21) Tội điều khiển tàu
bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (Điều 222); 22) Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy
định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 223); 23)
Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút tin học (Điều 224); 24)
Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện
tử (Điều 225); 25) Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính
(Điều 226); 26) Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác (Điều 226a); 27) Tội sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b); 28) Tội vi phạm quy định về an
toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người (Điều 227);
29) Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228); 30) Tội vi
phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 229); 31) Tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230); 32) Tội khủng bố (Điều
230a); 33) Tội tài trợ khủng bố (Điều 230b); 34) Tội phá hủy công trình,

18
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231); 35) Tội chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều
232); 36) Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 233); 37) Tội vi phạm quy

định về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ (Điều 234); 38) Tội thiếu
trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm
trọng (Điều 235); 39) Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ (Điều 236); 40) Tội vi phạm quy định về
quản lý chất phóng xạ (Điều 237); 41) Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc (Điều 238); 42) Tội vi phạm
quy định về quản lý chất cháy, chất độc (Điều 239); 43) Tội vi phạm quy định về
phòng cháy, chữa cháy (Điều 240); 44) Tội vi phạm quy định về an toàn vận
hành công trình điện (Điều 241); 45) Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa
bệnh, sản xuất, pha chế thuốc, cấp phát thuốc, bán thuốc hoặc dịch vụ y tế khác
(Điều 242); 46) Tội phá thai trái phép (Điều 243) và; 47) Tội vi phạm quy định
về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều 244).
* Nhóm thứ hai - Các tội xâm phạm trật tự công cộng. Nhóm tội phạm
này cũng đa dạng và xâm phạm đến các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực
trật tự công cộng, là các quy định ở những nơi công cộng như nhà ga, bến xe, rạp
hát, công viên, đường phố hay những nơi tập trung đông dân cư có liên quan đến
nếp sống văn minh, quy tắc chung mà mọi người đều biết, nhận thức và thừa
nhận.
Các tội xâm phạm trật tự công cộng bao gồm 12 tội danh quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1999, cụ thể là: 1) Tội gây rối trật tự công cộng
(Điều 245); 2) Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt (Điều 246); 3) Tội hành
nghề mê tín, dị đoan (Điều 247); 4) Tội đánh bạc (Điều 248); 5) Tội tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 249); 6) Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có (Điều 250); 7) Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do
phạm tội mà có - nay tội phạm này đổi tên thành tội rửa tiền (Điều 251); 8)
Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp (Điều

×