Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Hình phạt tù chung thân trong Luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 91 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ HẢI YẾN




HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





HÀ NỘI - 2012



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ HẢI YẾN



HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng



HÀ NỘI - 2012

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa



Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN
7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù chung thân
7
1.1.1.
Khái niệm hình phạt tù chung thân
7
1.1.2.
Đặc điểm của hình phạt tù chung thân
8
1.2.
Mục đích của hình phạt tù chung thân
15
1.3.
Phân biệt hình phạt tù chung thân với các hình phạt chính khác
20
1.3.1.

Phân biệt hình phạt tù chung thân và hình phạt tù có thời hạn
21
1.3.2.
Phân biệt hình phạt tù chung thân với hình phạt tử hình
23
1.3.3.
Phân biệt hình phạt tù chung thân với các loại hình phạt chính khác
26
1.4.
Hình phạt tù chung thân trong pháp luật hình sự một số nước
trên thế giới
27
1.4.1.
Tổng quan về hình phạt tù chung thân trên thế giới
27
1.4.2.
Quy định hiện hành về hình phạt tù chung thân trong luật hình
sự của một số nước trên thế giới
33

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN
38
2.1.
Khái quát lịch sử các quy định về hình phạt tù chung thân
trong luật hình sự Việt Nam
38

2.1.1.
Các quy định của luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù chung

thân thời kỳ trước năm 1945
38
2.1.2.
Các quy định của luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù chung
thân thời kỳ từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước
khi có Bộ luật Hình sự năm 1985
41
2.1.3.
Các quy định của luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù chung
thân thời kỳ từ 1985 đến 1999
49
2.2.
Các quy định hiện hành về hình phạt tù chung thân trong luật
hình sự Việt Nam
53
2.2.1.
Hình phạt tù chung thân theo các quy định thuộc phần chung
Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
53
2.2.2.
Hình phạt tù chung thân theo các quy định thuộc Phần Các tội
phạm Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
64

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN
Ở NƢỚC TA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT NÀY
72
3.1.
Thực tiễn áp dụng hình phạt tù chung thân ở nước ta trong

những năm gần đây
72
3.2.
Những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng
hình phạt tù chung thân
75
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù
chung thân
85

KẾT LUẬN
91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94

PHỤ LỤC
99



Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
1.1
Hình phạt tù chung thân ở một số quốc gia và vùng lãnh

thổ trên thế giới
29
2.1
Phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa
đổi bổ sung năm 2009 (tính theo cấu thành tội phạm)
65
2.2
Các hình phạt trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự
năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (tính theo điều luật)
67
2.3
Các tội danh trong Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009 quy định có áp dụng hình phạt tù chung thân
68





MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm, Nhà nước
ta đã sử dụng đồng thời nhiều biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục,
pháp lý… Trong các biện pháp đó, hình phạt giữ một vai trò rất quan trọng.
Nhà làm luật đã xây dựng một hệ thống hình phạt đa dạng với nội dung cưỡng
chế, thuyết phục, giáo dục nặng, nhẹ khác nhau, bao gồm hình phạt chính và
hình phạt bổ sung. Hình phạt tù chung thân là một trong bảy hình phạt chính
của hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành.
Việc quy định hình phạt tù chung thân trong hệ thống hình phạt của

Nhà nước ta tạo ra khả năng phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình
phạt đối với các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt này giữ vị trí
trung chuyển giữa hình phạt tù có thời hạn tối đa là 20 năm và tử hình, làm cho
hệ thống hình phạt giữ được tính thống nhất nội tại của nó. Tuy vậy, thực tiễn áp
dụng hình phạt tù chung thân đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên
cứu để đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến hình phạt
này nhằm nâng cao hiệu quả của nó trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trong bối cảnh hội nhập, mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế, Đảng ta
có quan điểm, chủ trương mới về cải cách tư pháp:
Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp
thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, tội phạm nhũng và các loại tội phạm có tổ
chức; bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ,
quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân [10, tr. 3];
Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư
pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ
tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng
thiện trong việc xử lý người phạm tội …Quy định trách nhiệm hình
sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm
quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội [11, tr. 42].
Để thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương của Đảng, chúng ta
cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện về hình phạt nói chung và
hình phạt tù chung thân nói riêng phản ánh những đặc điểm và yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, củng cố pháp
chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp cũng như có những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả áp dụng chúng.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: "Hình phạt tù chung thân

trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
Vấn đề hình phạt được rất nhiều chuyên gia trên thế giới nghiên cứu.
Đặc biệt là ở Liên Xô trước đây, cụ thể như: Cudriapxep V.N với công trình
"Luật pháp và hành vi", Matxcơva 1983 ; Galperin I.M với công trình "Hình
phạt, chức năng xã hội và thực tiễn ứng dụng", Matxcơva, 1983; Sargorotxki
với công trình "Hình phạt, mục đích và hiệu quả của nó"; Leningrat 1973,
Lưxôp M.D với công trình "Hình phạt và việc áp dụng nó đối với các tội chức
vụ", Cazan 1987
Song song với xu hướng xóa bỏ hình phạt tử hình trên thế giới trong
những thập kỷ gần đây, hình phạt tù chung thân cũng được đưa ra nghiên cứu
với tư cách là hình phạt lựa chọn thay thế cho hình phạt tử hình. Trung tâm
nghiên cứu về hình phạt tử hình, Trường Luật, Đại học Westminster (Vương
quốc Anh) đang nghiên cứu về các hình phạt thay thế hình phạt tử hình trong

các quốc gia thành viên của Hội đồng Châu Âu đưa ra sự mâu thuẫn trong bản
thân thuật ngữ "tù chung thân" giữa các quốc gia thành viên của Hội đồng
Châu âu: sự mâu thuẫn thể hiện ở quy định về thời hạn áp dụng hình phạt tù
chung thân. Một số các quốc gia lựa chọn hình thức tù chung thân có thể được
ân giảm, còn có một số các quốc gia lại lựa chọn hình phạt tù chung thân suốt
đời (không được ân giảm) là hình phạt thay thế cho hình phạt tử hình.
Ở Anh cũng có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề hình phạt tù
chung thân - chế tài thay thế hình phạt tử hình: Nigel Walker, "Tội phạm và
hình phạt ở Anh", Nhà xuất bản Đại học Edinburgh, 1965; Giáo sư Dirk Van
Zyl Smit, bài viết "Thi hành hình phạt tù chung thân nghiêm khắc trong pháp
luật quốc gia và pháp luật quốc tế"; Hội đồng tư vấn về hệ thống hình sự, "Các
hình phạt tù: xem xét các hình phạt tối đa", HMSO, London, 1978; "Báo cáo
của Ủy ban đặc biệt thuộc Thượng viện về tội giết người và án phạt tù chung
thân", (HL paper. 78), HMSO, London, 1989; "Kết án chung thân: cải cách

pháp luật và thủ tục đối với những người bị kết án tù chung thân", Tạp chí Tư
pháp, 1996; Nicola Padfield, "Trên cả thuế quan - quyền con người và phóng
thích tù nhân án chung thân", NXB Willan, Devon, 2002; "Những tù nhân án
chung thân - Xem xét liên chủ đề bởi cơ quan điều tra nhà nước về nhà tù và
trại giam", 1999, Nicola
Padfield, Alison Liebling với Helen Arnold, "Khảo sát việc ra quyết định án
chung thân theo quyền tự quyết của Hội đồng xét xử", Nghiên cứu của Văn
phòng Bộ Nội vụ, 2000; Andrew Coyle (Giáo sư Đại học London), "Về quản
lý tù nhân tù chung thân và tù dài hạn trên thế giới trong bối cảnh quyền con
người"; Roger Hood và Stephen Shute với Aidan Wilcox, "Hệ thống ân giảm
thực tế: nghiên cứu việc ra quyết định dựa trên rủi ro", Nghiên cứu lý thuyết,
số 202, 2000; Nicola Padfield, Alison Liebling với Helen Arnold, "Tìm hiểu
việc ra quyết định ở các Ban ân giảm đối với người bị kết án tù chung thân",
Nghiên cứu lý thuyết, số 213, 2000.
Mỹ là một trong số ít các quốc gia áp dụng hình phạt tù chung thân

không được ân giảm. Mỹ đã phải bỏ ra một khoản khổng lồ trong ngân sách
quốc gia để đáp ứng yêu cầu giam giữ những phạm nhân bị kết án tù chung
thân đang ngày càng già đi và những chi phí để xét ân giảm. Nhìn thấy thực
trạng như vậy, các nhà bình luận ở Mỹ đã có một số các nghiên cứu có giá trị
để đánh giá về quá trình ra quyết định của các hội đồng xét ân giảm đối với
người bị kết án tù chung thân như: James Marquart và Jonathan Sorensen,
"Nghiên cứu quốc gia về người phạm tội được áp dụng hình phạt thay thế",
Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1997.
Như vậy, ở những quốc gia đã xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình, có
rất nhiều nghiên cứu xoay quanh vấn đề áp dụng hình phạt tù chung thân như
thế nào đối với những người phạm tội có khung hình phạt tử hình: Áp dụng
hình phạt tù chung thân được ân giảm hay áp dụng hình phạt tù chung thân
suốt đời, áp dụng loại nào vừa đảm bảo công bằng xã hội, vừa ngăn ngừa họ
phạm tội mới, lại vừa mang tính nhân đạo sâu sắc; và có nên áp dụng các hình

thức chế tài bổ sung khi áp dụng hình phạt tù chung thân thay cho hình phạt
tử hình hay không; điều kiện để tù nhân tù chung thân được xét ân giảm thời
hạn chấp hành hình phạt như thế nào cho phù hợp. Cũng có rất nhiều nghiên
cứu về vấn đề cách đối xử với người bị thi hành hình phạt tù chung thân và
những quyền mà tù nhân tù chung thân nhất thiết phải được bảo đảm. Về vấn
đề này, trong Báo cáo của Ngành tư pháp hình sự của Liên hợp quốc năm
1996 cũng đưa ra những khuyến nghị về hình phạt tù chung thân; Hội đồng
Châu âu cũng có những hướng dẫn về việc quản lý những phạm nhân tù
chung thân và dài hạn.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu
ở các mức độ khác nhau về vấn đề hình phạt và hệ thống hình phạt, trong đó
có hình phạt tù chung thân. Đó là các công trình như: "Chính sách hình sự và
hình phạt" của Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc; "Tội phạm học, luật

hình sự và tố tụng hình sự" của tập thể tác giả do Giáo sư, Tiến sĩ khoa học
Đào Trí Úc chủ biên; Luận án tiến sĩ Luật học "Các hình phạt chính trong
Luật hình sự Việt Nam" của Tiến sĩ Nguyễn Sơn; Luận văn Thạc sĩ Luật học
"Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Văn Vĩnh;
"Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam" của Đặng Đức Thạo. Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các tạp
chí chuyên ngành về vấn đề này như: "Hình phạt: một số vấn đề lý luận" của
Nguyễn Mạnh Kháng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2000; "Bàn về bản
chất và chức năng của hình phạt" của Nguyễn Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 9/2002; "Một số điểm mới của Bộ luật Hình sự 1999 về hình phạt và
quyết định hình phạt" của Đinh Văn Quế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
02/2001; "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về hệ thống hình phạt
và quyết định hình phạt" của Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Kiểm sát số 4/2001
Nhìn chung, các công trình đó đã nghiên cứu một cách tổng quát, khái
quát về những vấn đề chung của hình phạt và hệ thống hình phạt hoặc về một

loại hình phạt nào đó dưới góc độ của luật hình sự thực định. Nhưng cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử hình phạt tù
chung thân cả trên phương diện luật thực định và thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những nội dung cơ bản về
hình phạt tù chung thân (về lý luận, về lịch sử, về so sánh, về xã hội học), từ
đó đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù chung thân
trong Luật hình sự Việt Nam.
Xuất phát từ mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về hình phạt tù chung thân trong
Luật hình sự Việt Nam: Khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển, phân biệt với
các hình phạt khác trong hệ thống hình phạt;
- Đưa ra quy định về hình phạt tù chung thân trong pháp luật một số

nước trên thế giới;
- Phân tích những quy định về hình phạt tù chung thân trong Bộ luật
Hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng hình phạt này;
- Phân tích những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng
hình phạt tù chung thân và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của
hình phạt này.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp lịch sử, phương pháp
phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp logic,
phương pháp tổng hợp.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn có 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về hình phạt tù chung thân.
Chương 2: Hình phạt tù chung thân trong pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng hình phạt tù chung thân ở nước ta và
một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù chung thân.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN
1.1.1. Khái niệm hình phạt tù chung thân
Hình phạt tù chung thân là một loại hình phạt chính trong hệ thống
hình phạt, nên khái niệm hình phạt nói chung bao trùm cả khái niệm hình phạt
tù chung thân. Do vậy, muốn hiểu rõ được khái niệm hình phạt tù chung thân,
trước hết chúng ta phải nghiên cứu thế nào là hình phạt.
Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất cấu thành bởi các ngành
luật khác nhau. Gắn liền với các ngành luật đó là những biện pháp trách nhiệm
pháp lý khác nhau và những chế tài cụ thể khác nhau. Gắn liền với ngành luật
hình sự là biện pháp trách nhiệm hình sự và chế tài cụ thể để thực hiện trách
nhiệm hình sự là hình phạt. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế đặc thù của luật
hình sự được áp dụng đối với người thực hiện tội phạm. Lần đầu tiên trong lịch
sử lập pháp khái niệm về hình phạt được quy định rõ ràng, cụ thể trong Bộ
luật Hình sự năm 1999. Trước khi khái niệm về hình phạt được quy định
chính thức trong Bộ luật Hình sự, thì khái niệm về hình phạt chỉ được nghiên
cứu như là một khái niệm có tính chất khoa học trên các tạp chí khoa học, tạp
chí chuyên ngành hoặc trong các giáo trình của các trường đại học. Việc Bộ
luật Hình sự năm 1999 dành một điều quy định khái niệm về hình phạt là một
bước tiến trong công tác lập pháp. Khái niệm hình phạt quy định tại Điều 26
Bộ luật Hình sự đã nêu đầy đủ nội dung, bản chất của hình phạt: "Hình phạt

là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ
luật Hình sự và do Tòa án quyết định" [33]. Khái niệm này là sự tiếp thu
những kết quả nghiên cứu về hình phạt trong lý luận luật hình sự nước ta.
Hiện nay, giới luật học Việt Nam về cơ bản đều thống nhất với khái niệm này.

Điều 34 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định về hình phạt tù chung
thân như sau: "Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối
với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử
hình" [33].
Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn, tác động trực tiếp đến
quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án. Người bị kết án sẽ bị giam giữ
trong trại giam, nơi có chế độ giam giữ và cải tạo rất chặt chẽ và nghiêm
khắc. Có nghĩa là, tù chung thân là hình phạt tước đi quyền tự do của người bị
kết án đến hết đời, cách ly họ vĩnh viễn khỏi môi trường sống bình thường,
hay có thể gọi là tù suốt đời.
Theo Khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự hiện hành, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tù chung thân được áp dụng đối với người
phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, có thể hiểu là những trường
hợp tội phạm xâm hại đến những khách thể rất quan trọng của pháp luật hình
sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi người phạm tội rất
lớn, việc thực hiện tội phạm gây ra hậu quả đặc biệt lớn về an ninh, chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, tính mạng, sở hữu tài sản.
Trên cơ sở Khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự, Điều 26 Bộ luật Hình sự,
Điều 34 Bộ luật Hình sự, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù chung thân như
sau: Tù chung thân là hình phạt tù tước quyền tự do của người bị kết án đến
hết đời, được áp dụng đối với người phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt lớn
cho xã hội, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.
1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tù chung thân

* Đặc điểm chung:
Với tư cách là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt, Hình phạt
tù chung thân có đầy đủ những đặc điểm chung của hình phạt như sau:

Một là, hình phạt tù chung thân là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
của Nhà nước
Cưỡng chế là thuộc tính của pháp luật nói chung. V.I.Lênin đã từng
nói: "Pháp luật không có gì hết, nếu thiếu bộ máy bảo đảm cưỡng chế sự tuân
theo các quy định của pháp luật" [19]. Trong đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, được áp
dụng phổ biến và có lịch sử lâu đời. Tính cưỡng chế của hình phạt là dùng
quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo. Tức là, hình phạt được bảo đảm bằng
sức mạnh của quyền lực nhà nước. Trong lịch sử loài người, mọi hình thức
nhà nước đều sử dụng hình phạt như là biện pháp cưỡng chế để điều chỉnh các
quan hệ xã hội và áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với
những cá nhân có hành vi gây nguy hiểm cho sự tồn tại của xã hội.
Tính nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân thể hiện ở chỗ, khi
được áp dụng hình phạt có thể tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích
thiết thân nhất của người bị kết án đến hết đời, như quyền tự do, quyền chính
trị, quyền sở hữu…; gây nên những tổn hại về thể chất, vật chất và tinh thần
không chỉ cho người bị kết án mà còn cho gia đình, những người thân thích
của họ. Với tư cách là hình phạt hình sự, bất kể nặng hay nhẹ đều dẫn tới hậu
quả pháp lý chung là làm cho người bị kết án phải mang án tích trong một
thời hạn nhất định. Án tích là hậu quả tất yếu của hình phạt nói chung và của
hình phạt tù chung thân nói riêng. Đó là dấu hiệu pháp lý rất đặc trưng của
hình phạt, án tích có thể làm cho người bị kết án chịu một số hạn chế nhất
định. Và "tình tiết có án tích sẽ là đặc điểm về nhân thân bất lợi cho người có
đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi có hành
vi phạm pháp hay phạm tội" [14, tr. 27].
Hai là, Hình phạt tù chung thân gắn liền với tội phạm

Với tính chất là một dạng của trách nhiệm hình sự và một hình thức để
thực hiện trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc

phạm tội. Không có tội phạm thì không thể có hình phạt. Hình phạt là hậu quả
pháp lý của hành vi phạm tội, là thước đo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm. Như vậy, giữa tội phạm và hình phạt có mối quan hệ nhân -
quả. Quan niệm như thế nào về tội phạm thì sẽ có quan niệm tương ứng về
hình phạt. Tội phạm và hình phạt có mối quan hệ biện chứng với nhau, người
nào thực hiện tội phạm mới phải chịu hình phạt và ngược lại hình phạt chỉ áp
dụng với người thực hiện tội phạm. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt
càng nghiêm khắc. Sự cân đối giữa hình phạt với tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm tạo cơ sở để áp dụng luật hình sự một cách hợp lý, công
bằng và có hiệu quả.
Ba là, hình phạt tù chung thân được quy định trong Luật Hình sự
Trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985, Luật hình sự của nước
ta chưa đầy đủ, nên nhiều hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội đáng kể cần phải xử lý về hình sự nhưng chưa được quy định trong các
văn bản pháp luật hình sự và cũng chưa có điều kiện bổ sung pháp luật hình
sự một cách kịp thời, Nhà nước đã cho phép Tòa án áp dụng pháp luật tương
tự để xét xử những người thực hiện hành vi ấy. Ví dụ như: Pháp lệnh ngày
30/7/1967 về trừng trị các tội phản cách mạng quy định: "Đối với những tội
phản cách mạng chưa nêu trong pháp lệnh này thì áp dụng những điều về tội
phạm tương tự trong Pháp lệnh này mà xét xử". Hai pháp lệnh cùng ngày
21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và về trừng
trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân cũng quy định như vậy.
Nhược điểm của nguyên tắc này là có khả năng dẫn đến sự tùy tiện trong công
tác điều tra, truy tố, xét xử. Trong các công tác này, sự tùy tiện có thể có hại
trên cả hai mặt: hoặc không bảo vệ đúng đắn lợi ích của nhà nước, của tập
thể; hoặc vi phạm các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Vì vậy, sau các lần
pháp điển hóa, Pháp luật hình sự nước ta không cho phép áp dụng hình phạt

đối với những hành vi không được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm

và nếu hình phạt ấy cũng không được quy định trong hệ thống hình phạt hiện
hành và trong chế tài của điều luật cụ thể. Quy định này đã khẳng định không
áp dụng pháp luật tương tự trong luật hình sự. Và đây là một yêu cầu nghiêm
khắc của nguyên tắc pháp chế, bảo đảm cho pháp luật hình sự được áp dụng
thống nhất.
Chỉ có Bộ luật Hình sự mới được quy định hệ thống hình phạt hình sự;
nội dung, phạm vi, điều kiện cho phép áp dụng từng loại hình phạt cũng như
khung hình phạt của từng tội phạm cụ thể. Hiện nay, văn bản luật duy nhất
quy định các loại hình phạt là Bô luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ
sung năm 2009 (Bộ luật Hình sự hiện hành).
Trong Bộ luật Hình sự, hình phạt tù chung thân được quy định ở cả
phần chung và phần các tội phạm. Ở phần chung, Điều 34 quy định hình phạt
tù chung thân với tư cách là hình phạt chính với nội dung: đưa ra khái niệm
hình phạt tù chung thân, các trường hợp được áp dụng và không được áp dụng
hình phạt tù chung thân. Ở phần các tội phạm, hình phạt tù chung thân được
quy định là chế tài lựa chọn kèm theo các tội phạm cụ thể; được quy định chủ
yếu trong các chương về các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại
hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; các tội đặc biệt nghiêm
trọng trong các chương xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế; các tội phạm về ma túy; các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng; các tội phạm về chức vụ và các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân. Theo Bộ luật Hình sự hiện hành, hình phạt tù chung
thân được quy định tại 58/272 điều luật quy định về tội phạm.
Bốn là, Hình phạt tù chung thân do tòa án áp dụng đối với người bị
kết án
Trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai
đoạn tố tụng hình sự được quy định rất chặt chẽ, nghiêm ngặt trong Bộ luật


Tố tụng hình sự Việt Nam. Toàn bộ quá trình tố tụng hình sự đều do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện: Ở giai đoạn điều tra, do cơ quan điều
tra thực hiện các hoạt động điều tra tội phạm dưới sự kiểm sát của Viện kiểm
sát; ở giai đoạn truy tố, do Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, thay mặt
Nhà nước truy tố bị can và buộc tội bị cáo trước tòa; ở giai đoạn xét xử, Tòa
án là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(Điều 127, Hiến pháp năm 1992). Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xét xử
các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính
(Điều 1, Luật Tổ chức Tòa án năm 2002). Chỉ có tòa án mới có quyền nhân
danh Nhà nước quyết định một người có tội hay không có tội, có phải chịu
hình phạt hay không và nếu phải chịu thì loại và mức hình phạt cụ thể được
áp dụng như thế nào (Điều 26 Bộ luật Hình sự). Hình phạt do tòa án quyết
định phải được tuyên bằng một bản án trong một phiên tòa xét xử công khai
theo trình tự, thủ tục do Luật tố tụng hình sự quy định. Tòa án có toàn quyền
xét xử và quyết định hình phạt độc lập không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào. Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nước thông qua việc xét xử
để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tôn trọng, tự do tính mạng, tài sản,
danh dự nhân phẩm của công dân… góp phần giáo dục công dân tôn trọng và
chấp hành pháp luật trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Năm là, Hình phạt tù chung thân chỉ được áp dụng đối với cá nhân
người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm.
Khác với Luật hình sự một số nước trên thế giới (như Anh, Mỹ, Pháp,
Hà Lan, Bỉ, Nhật, Trung Quốc…) có quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân, theo Luật Hình sự Việt Nam thì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm hình
sự cá nhân. Vì vậy, hình phạt nói chung và hình phạt tù chung thân nói riêng chỉ
có thể áp dụng đối với chính người có hành vi phạm tội, chứ không được phép
áp dụng với các thành viên trong gia đình hoặc đối với những người thân thiết
khác của người phạm tội, ngay cả trong những trường hợp người phạm tội lẩn


tránh hình phạt. Tòa án không được áp dụng hình phạt đối với pháp nhân hoặc
tổ chức, vì luật hình sự Việt Nam không thừa nhận pháp nhân hoặc tổ chức là
chủ thể của tội phạm. Dấu hiệu này nói lên tính chất cá nhân của hình phạt.
* Đặc điểm riêng:
Là công cụ bảo đảm cho Luật Hình sự thực hiện được nhiệm vụ bảo
vệ và đấu tranh phòng, chống tội phạm, bên cạnh những đặc điểm chung, hình
phạt tù chung thân có những đặc điểm riêng vốn có của nó. Cụ thể là:
Một là, mức độ nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân trong hệ
thống hình phạt chỉ đứng sau hình phạt tử hình:
Hình phạt tù chung thân là hình phạt có khả năng tước đoạt tự do đến
hết đời, bị cách ly vĩnh viễn khỏi môi trường sống bình thường. Có nghĩa là,
người bị kết án có thể phải sống phần đời còn lại của mình trong trại giam,
toàn bộ hoạt động của người bị thi hành án tù chung thân đều bị kiểm soát
chặt chẽ và phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật: lao động, học tập,
các sinh hoạt cá nhân, công việc hàng ngày, chế độ ăn, ngủ… Hình phạt này
giữ vị trí trung chuyển giữa hình phạt tù có thời hạn tối đa là 20 năm và hình
phạt tử hình, làm cho hệ thống hình phạt giữ được tính thống nhất nội tại của
nó; tạo ra khả năng phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa trách nhiệm
hình sự đối với các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tù chung thân chỉ
được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến
mức bị xử phạt tử hình. Theo thực tiễn xét xử, đó là những trường hợp phạm
tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, tính mạng, sở hữu tài sản và có nhiều tình tiết tăng nặng đáng kể. Thông
thường hình phạt này được áp dụng đối với những trường hợp mà nếu áp
dụng hình phạt tù có thời hạn đến hai mươi năm tù thì vẫn còn nhẹ nhưng nếu
phạt tử hình thì chưa thật cần thiết.
Mục đích của hình phạt tù chung thân cũng giống như mục đích của
hình phạt nói chung, là mục đích cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt


được khi áp dụng hình phạt. Đó là mục đích: bảo đảm công bằng xã hội và
phòng ngừa tội phạm (gồm phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng). Giáo
dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân
theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn chặn người phạm tội tái
phạm, được gọi là mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt. Đối với người bị
kết án, sau khi trải qua sự mong manh giữa sự sống và cái chết, họ sẽ cảm
thấy quý trọng cuộc sống của mình hơn, yêu tự do, và sẽ quyết tâm cải tạo tốt
để trở thành người có ích cho xã hội. Từ đó, Họ có ý thức tuân theo pháp luật
và các quy tắc của cuộc sống xã hội, không phạm tội mới. Như vậy, mục đích
phòng ngừa riêng của hình phạt tù chung thân đã đạt được. Mục đích phòng
ngừa chung thể hiện rất rõ ràng, mạnh mẽ qua loại hình phạt này. Hình phạt tù
chung thân khi được áp dụng không chỉ tác động trực tiếp đến người bị kết án
mà còn tác động mạnh và gây ảnh hưởng rộng lớn đến các thành viên khác
trong xã hội, giáo dục các thành viên khác trong xã hội nâng cao ý thức pháp
luật, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Hai là, hình phạt tù chung thân là hình phạt duy nhất trong hệ thống
hình phạt có thể thay thế hình phạt tử hình:
Trong pháp luật hình sự nước ta, ranh giới về điều kiện áp dụng giữa
hình phạt tù chung thân hoặc tử hình là không rõ ràng, rành mạch, bởi vậy, tòa
án khi xét xử cần phải xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác
để đảm bảo khi áp dụng đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa
chung. "Khi cân nhắc giữa hình phạt tử hình và hình phạt tù chung thân mà cảm
thấy băn khoăn không biết nên áp dụng hình phạt nào thì cương quyết không áp
dụng hình phạt tử hình mà áp dụng hình phạt tù chung thân" [29, tr. 192].
Điều 35 Bộ luật Hình sự quy định: "Trong trường hợp người bị kết án tử hình
được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân". Chế định ân
giảm án tử hình theo Luật Hình sự Việt Nam thể hiện chính sách nhân đạo
của Đảng và Nhà nước ta đối với mọi công dân; thể hiện sự bao dung của Nhà
nước và xã hội đối với người bị kết án.


Ba là, hình phạt tù chung thân không có tính linh hoạt trong áp dụng:
Hình phạt tù chung thân không có nhiều mức độ để Tòa án có thể
lượng hóa khi áp dụng đối với từng tội phạm với mức nguy hiểm cho xã hội
khác nhau. Ví dụ như, đối với hình phạt tù có thời hạn, tòa án có thể lựa chọn
mức từ 3 tháng đến 20 năm tù. Hoặc đối với hình phạt cải tạo không giam
giữ, tùy theo tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, tòa án có thể lựa chọn
mức từ 3 tháng đến 3 năm. Hình phạt tù chung thân chỉ chứa đựng duy nhất
một mức độ không thể tăng lên hay giảm xuống để áp dụng cho mọi trường
hợp phạm tội đáng phải bị áp dụng loại hình phạt này.
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN
Điều 27 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định:
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa
họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [33].
Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự, vấn đề mục đích của hình phạt
vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau chưa thống nhất. Nhìn chung, có
thể thấy sự khác nhau căn bản của các quan điểm đó thể hiện cụ thể như sau:
1) Phần lớn các nhà luật học cho rằng mục đích của hình phạt là giáo dục, cải
tạo người phạm tội để họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có ý
thức tuân thủ pháp luật. Còn trừng trị chỉ là thuộc tính, là nội dung, là biện
pháp để đạt mục đích giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm. 2) Một số tác
giả khác lại cho rằng mục đích của hình phạt bao gồm hai yếu tố: trừng trị và
giáo dục, cải tạo. 3) Có tác giả lại cho rằng, từ góc độ hình sự và tội phạm học
có thể phân chia mục đích của hình phạt thành các loại sau: một là, cải tạo,
giáo dục phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (mục đích trực tiếp); hai là,

loại trừ nguyên nhân và điều kiện phạm tội (mục đích trung gian); ba là, loại
trừ tội phạm (mục đích cuối cùng).

Như vậy, các quan điểm chưa thống nhất ở vấn đề là có coi trừng trị là
mục đích của hình phạt hay không?
Theo tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin thì hình
phạt không phải là cái gì khác mà chính là biện pháp tự vệ của xã hội với
những hành vi xâm phạm điều kiện tồn tại của nó, không kể đó là những điều
kiện tồn tại như thế nào. C.Mác đã chỉ ra tính chất giai cấp của hình phạt và
coi hình phạt là một công cụ của giai cấp thống trị dùng để đấu tranh với tội
phạm. Tính chất giai cấp của hình phạt thể hiện ở chỗ nó bảo vệ quyền và lợi
ích của giai cấp thống trị. Nội dung giai cấp và mức độ trừng trị của hình phạt
ở mỗi chế độ khác nhau được Nhà nước quy định không giống nhau. Điều
này phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và
truyền thống của mỗi nước, mỗi dân tộc.
Trong các xã hội bóc lột, hình phạt được giai cấp thống trị sử dụng
như một công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Họ coi hình phạt là công
cụ trả thù người phạm tội. Trừng trị là một trong những mục đích quan trọng
của hình phạt. Tính chất trừng trị của các hình phạt trong xã hội này rất hà
khắc. Thể hiện ở những quy định áp dụng các hình phạt rất tàn khốc như là
chém đầu, tùng xẻo, phanh thây…, những hình phạt không những đánh vào
thân thể, nhân phẩm, danh dự của người phạm tội mà còn đánh vào cả những
người thân thích của họ.
Ở nước ta, hình phạt được quy định và áp dụng để bảo vệ chế độ chính
trị, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các
dân tộc, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục
mọi người ý thức tuân theo pháp luật đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm (Điều 1 Bộ luật Hình sự). Hình phạt trong Luật Hình sự nước ta thể

hiện bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, giá trị nhân văn và khả năng cải tạo,
giáo dục con người của xã hội mới ngay cả khi họ đã lầm lạc - có hành vi
phạm tội.

Nếu coi trừng trị là mục đích của hình phạt thì sẽ thừa nhận hình phạt
là công cụ trả thù người phạm tội. Hiểu như vậy đã hoàn toàn trái với nguyên
tắc nhân đạo của Luật hình sự nước ta. Hơn nữa, nếu quá tập trung đến việc
buộc người phạm tội phải trả giá cho những gì mà người phạm tội đã làm thì
hình phạt sẽ không có tác dụng định hướng cho hành vi của người phạm tội
cũng như của cả cộng đồng trong tương lai. Việc trừng phạt người phạm tội
trong trường hợp này sẽ không mang lai lợi ích cho xã hội, cái giá mà người
phạm tội phải trả cũng chuyển cho Nhà nước chứ không phải người bị hại, bởi
vì quyền trừng phạt thuộc về Nhà nước. Do vậy, chúng tôi đồng tình với quan
điểm cho rằng hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam không có mục đích
trừng trị. Trừng trị là nội dung, là thuộc tính, là phương thức để thực hiện
hình phạt. Với nội dung là sự tước bỏ, hạn chế nhất định về quyền và lợi ích
của người phạm tội theo quy định của pháp luật, hình phạt bản thân là sự
trừng phạt của Nhà nước đối với người phạm tội.
Như vậy, trừng trị cũng là nội dung không thể thiếu được của hình
phạt tù chung thân. Khi xác định hiệu quả của hình phạt tù chung thân hay
một loại hình phạt nào đó, yêu cầu đầu tiên là phải đánh giá được khả năng
trừng trị của nó. Nếu không có trừng trị thì không có hình phạt. Nó là tiền đề
quan trọng để đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm.
Còn nếu coi giáo dục, cải tạo người phạm tội là mục đích duy nhất của
hình phạt thì chúng ta sẽ không thể lý giải được vì sao trong hệ thống hình
phạt lại có hình phạt tử hình- loại hình phạt triệt tiêu mọi khả năng cải tạo,
giáo dục người phạm tội. Và tại sao đối với các tội phạm do vô ý, vẫn bị áp
dụng những hình phạt rất nghiêm khắc. Hơn nữa, nếu đặt vấn đề như vậy thì
căn cứ quan trọng nhất để quyết định hình phạt phải là nhân thân người phạm

tội chứ không phải tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Theo logic hình thức, chúng ta cũng có thể thấy rằng, trong "cải tạo, giáo dục
người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội…" thì cải tạo, giáo dục là
biện pháp tác động, còn mục đích là thành người có ích cho xã hội. Như vậy,

cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng không phải là mục đích cuối cùng của
hình phạt.
Như vậy, cả trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội đều không
phải là mục đích của hình phạt mà nó vừa là nội dung, vừa là thuộc tính, vừa
là phương thức thực hiện hình phạt. Mục đích của hình phạt là mục đích cuối
cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy trách nhiệm hình sự đối với
tội phạm và áp dụng hình phạt đối với cá nhân người phạm tội. Để tìm hiểu
mục đích cuối cùng của hình phạt, chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ
với vai trò xã hội của hình phạt.
Do hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nghiêm khắc nhất
trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, nên hình phạt giữ vai trò
bảo đảm các điều kiện cần thiết mà trước hết là trật tự xã hội, có nghĩa là phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, lập lại trật tự
xã hội bị vi phạm, lập lại công bằng xã hội, để xã hội tồn tại và phát triển.
Trong trường hợp này, trật tự công bằng xã hội chỉ có thể được lập lại khi
Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội một chế tài tương xứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Chính vì vậy mà nội dung
của các chế tài hình phạt bao giờ cũng là tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
của người phạm tội. Vai trò này của hình phạt đã xác định mục đích mà nó
nhằm đạt đến là bảo đảm công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm. Đó chính
là mục đích cuối cùng của hình phạt nói chung cũng như hình phạt tù chung
thân nói riêng. Còn trừng trị và cải tạo với tính cách là phương thức thực hiện
hình phạt tù chung thân, chính là biện pháp, phương thức để hình phạt tù
chung thân đạt được mục đích của mình.

Công bằng xã hội chẳng những cho phép mà còn đòi hỏi hình phạt
phải có tính trừng trị, và phải trừng trị đích đáng, xử phạt nghiêm minh những
người vi phạm điều kiện tồn tại của xã hội.
Công bằng đòi hỏi phải có sự kết hợp yếu tố trừng trị
(cưỡng chế) và yếu tố giáo dục, cải tạo (thuyết phục) ở những mức

độ, liều lượng khác nhau khi quy định các hình phạt khác nhau đối
với những tội phạm có những mức độ nguy hiểm khác nhau cho xã
hội. Nhưng trong mọi trường hợp, để bảo đảm công bằng cần tăng
cường nội dung trừng trị của hình phạt đối với những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng [54].
Công bằng xã hội đã lý giải vì sao trong hệ thống hình phạt tồn tại những
loại hình phạt khác nhau, được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng. Khi quyết
định hình phạt, nếu áp dụng hình phạt quá nặng thì sẽ không phù hợp với nguyên
tắc công bằng và nhân đạo, dẫn đến sự mất lòng tin của người dân vào tính công
minh của pháp luật và triệt tiêu sự nỗ lực phấn đấu cải tạo, giáo dục của người
phạm tội. Còn nếu áp dụng hình phạt quá nhẹ, sẽ dẫn đến tình trạng coi thường
sự uy nghiêm của pháp luật, dẫn đến việc tái phạm, tái phạm nguy hiểm thường
xuyên diễn ra. Bàn về vấn đề này V.I.Lênin đã viết: "Tác dụng phòng ngừa của
hình phạt hoàn toàn không phải ở chỗ là hình phạt đó phải nặng mà ở chỗ là
đã phạm tội thì không thoát bị trừng phạt. Điều quan trọng không phải ở chỗ
là tội phạm bị trừng phạt nặng, mà ở chỗ là không một tội phạm nào không
bị phát hiện ra". Ở đây Lênin đã nhấn mạnh hiệu quả cải tạo, giáo dục của
hình phạt phụ thuộc vào khả năng bảo đảm công bằng xã hội của nó.
Mục đích quan trọng nhất mà người áp dụng hình phạt muốn hướng
tới là phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa ở đây gồm cả phòng ngừa riêng và
phòng ngừa chung. Giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích
cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn
chặn người phạm tội tái phạm, được gọi là mục đích phòng ngừa riêng của
hình phạt. Hình phạt khi được áp dụng không chỉ tác động trực tiếp đến người

phạm tội mà nó còn ảnh hưởng đến các thành viên khác trong xã hội, giáo dục
các thành viên khác trong xã hội nâng cao ý thức pháp luật, tích cực tham gia
vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, được gọi là phòng ngừa
chung. Khi đó, sẽ làm cho mọi người hiểu rằng, hình phạt chính là hậu quả
mà kẻ phạm tội phải gánh chịu khi thực hiện hành vi phạm tội.

1.3. PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TÙ CHUNG THÂN VỚI CÁC HÌNH PHẠT
CHÍNH KHÁC
Trong xã hội, tội phạm diễn ra rất đa dạng và phong phú với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Vì vậy, xuất phát từ yêu cầu đấu
tranh phòng và chống tội phạm, đòi hỏi phải có sự đa dạng, phong phú và cân
đối về các loại hình phạt với mức độ cưỡng chế nặng, nhẹ khác nhau. Sự cân
đối giữa hình phạt với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm là cơ sở
để áp dụng luật hình sự một cách hợp lý, công bằng và có hiệu quả.
Hệ thống hình phạt của nước ta có nội dung rất rõ ràng, kết hợp hài hòa
các yếu tố cưỡng chế và thuyết phục. Bộ luật Hình sự hiện hành không quy định
cụ thể khái niệm hệ thống hình phạt. Trong khoa học luật hình sự, phần lớn các
nhà khoa học pháp lý đều cho rằng: hệ thống hình phạt là tổng thể các loại hình
phạt do Nhà nước quy định trong luật hình sự có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo
một trật tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng loại hình phạt quy định.
Điều 28 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định hệ thống hình phạt gồm
có bảy hình phạt chính và bảy hình phạt bổ sung, trong đó có hai hình phạt:
Hình phạt tiền, hình phạt trục xuất được quy định có thể áp dụng là hình phạt
chính hoặc hình phạt bổ sung tuy theo điều luật cụ thể quy định.
- Các hình phạt chính gồm có: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.
- Các hình phạt bổ sung gồm có: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; tước một số quyền công dân;
tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất.

×