Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tội gián điệp trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 107 trang )


Đại học quốc gia Hà Nội
Khoa Luật
o0o





NGUYễN tHị THANH HUYềN





TộI GIáN ĐIệP TRONG LUậT HìNH Sự
vIệT nAM





Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40



Luận văn thạc sỹ luật học










Hà Nội, 2008



3
MỤC LỤC


TRANG

Mở đầu
5

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
10
1.1
Khái niệm và ý nghĩa của việc ghi nhận tội gián điệp trong
Luật hình sự Việt Nam.
10
1.2.
Lịch sử hình thành và phát triển tội gián điệp trong Luật hình
sự Việt Nam.
14

1.3
Những quy định về tội gián điệp trong pháp luật một số nước
trên thế giới.
34

Chƣơng 2. Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực
tiễn áp dụng
45
2.1
Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội gián điệp
và hình phạt áp dụng đối với tội này.
45
2.2
Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về
tội gián điệp.
63

Chƣơng 3. Nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định Bộ
luật hình sự năm 1999 về tội gián điệp.
77
3.1
Những yêu cầu đối với việc nâng cao hiệu quả những quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội gián điệp
77
3.2
Những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định của pháp luật hình sự về tội gián điệp
90

Kết luận

99

Danh mục tài liệu tham khảo
102



4
Më ®Çu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ an ninh chính trị là một hoạt động mang tính đặc thù của mỗi
quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ gắn hết
sức chặt chẽ với bảo vệ Tổ quốc. Ở Việt Nam, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước. Từ khi chính quyền
thuộc về nhân dân đến nay, bảo vệ an ninh chính trị trở thành một bộ phận
quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc góp phần đánh thắng
các thế lực đế quốc, thực dân, phản động, giữ vững sự ổn định chính trị - xã
hội, đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp
luật quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia
nói chung, đối với tội gián điệp nói riêng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
cuộc đấu tranh bảo bệ an ninh quốc gia.
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, hội nhập và mở cửa, bên cạnh những
thành tựu to lớn đã đạt được cũng không ít những khó khăn, thách thức mới.
Các thế lực thù địch đang có âm mưu chống phá nước ta trên tất cả các lĩnh
vực và bằng mọi thủ đoạn. Thực tiễn khẳng định: để đẩy mạnh công cuộc đổi
mới và phát triển đất nước, một điều kiện không thể thiếu là phải giữ vững
được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội … làm thất bại mọi âm mưu và
hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Chính vì vậy, để bảo vệ những

thành quả cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, bảo
đảm vững chắc cho công cuộc đổi mới đất nước, trấn áp mọi hoạt động trực
tiếp xâm phạm, uy hiếp đến sự tồn tại của chính quyền nhân dân là nhiệm vụ
xuyên suốt và cực kỳ quan trọng của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa


5
Việt Nam, trong đó cuộc đấu tranh chống tội gián điệp có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Trong thời gian qua, công tác điều tra, truy tố, xét xử tội gián điệp
đã góp phần có hiệu quả vào công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này
cũng đã đặt ra những vướng mắc mà khoa học luật hình sự phải nghiên cứu
giải quyết như khái niệm tội gián điệp, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng
của tội gián điệp, hình phạt đối người phạm tội… Vì vậy, việc nghiên cứu đề
tài: “Tội gián điệp trong luật hình sự Việt Nam” không những có ý nghĩa về
mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong cuộc đấu tranh bảo vệ
an ninh quốc gia, đảm bảo sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, đảm bảo
an ninh đối nội, đối ngoại của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu.
Tội gián điệp là đề tài được một số tác giả quan tâm nghiên cứu.
TS Bạch Thành Định đã có bài nghiên cứu "Một số suy nghĩ để hoàn
thiện quy định trách nhiệm hình sự Tội gián điệp" (Tạp chí Công an nhân dân,
Viện khoa học Bộ công an, số 5 - 2000); PGS. TS Kiều Đình Thụ có công
trình: Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự với các tội đặc biệt
nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3 -
1995); về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia (Tạp chí
khoa học Công an, số 3 - 1995)……… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
đó mới chỉ đề cập tới từng khía cạnh của vấn đề hoặc mang tính chung chung,
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện từ lịch
sử tội gián điệp đến những quy định của pháp luật thực định và thực tiễn áp

dụng cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật về tội phạm này.


6
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận
văn.
* Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống, toàn diện về lý
luận và thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội gián
điệp để đề xuất việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
về tội gián điệp và những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định của pháp luật hình sự về tội gián điệp góp phần giữ vững an ninh quốc
gia.
* Nhiệm vụ:
Với mục đích nêu trên, Luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm tội gián điệp và ý nghĩa của việc ghi nhận tội gián
điệp trong Luật hình sự Việt Nam.
- Khái quát sự hình thành và phát triển tội gián điệp trong lịch sử lập
pháp hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu từ khía cạnh so sánh pháp luật về tội gián điệp trong Luật
hình sự một số nước trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gián điệp theo Luật
hình sự Việt Nam hiện hành và hình phạt đối với tội phạm này.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội gián điệp.
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu tội gián điệp trong Luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về tội phạm này.



7
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu tội gián điệp từ góc độ Luật hình sự.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng nhà nước và pháp luật với phương pháp luận là phép DVBC và
DVLS.
Để giải quyết các nghiệm vụ khoa học đặt ra từ đề tài Luận văn, Luận
văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: hệ thống, lịch sử, logic,
phân tích, tổng hợp, thống kê tư pháp hình sự và tham khảo ý kiến của các
chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của Luận văn.
Đây là công trình nghiên cứu trong khoa học Luật hình sự Việt Nam
đưa ra cái nhìn toàn diện và có hệ thống về tội gián điệp, thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này, đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với tội phạm này
trong cuộc đấu tranh phòng và chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong
giai đoạn hiện nay.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn thể hiện ở các
điểm sau:
1. Đã làm sáng tỏ khái niệm tội gián điệp, đánh giá được ý nghĩa của
việc quy định tội gián điệp trong Luật hình sự Việt Nam trước yêu cầu đấu
tranh bảo vệ an ninh quốc gia.
2. Đã khái quát được một cách có hệ thống sự hình thành và phát triển
tội gián điệp trong Luật hình sự Việt Nam.


8

3. Đã phân tích và so sánh tội gián điệp của pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới để rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ
sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong Luận văn.
4. Đề xuất được nhóm những giải pháp mang tính đồng bộ và toàn diện
nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
gián điệp trong thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
Luận văn có ý nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn trong công tác
đấu tranh phòng, chống tội gián điệp trước yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia,
góp phần xây dựng nhận thức đầy đủ, đúng đắn về tội gián điệp, đổi mới nội
dung và phương pháp đấu tranh với tội phạm này nói riêng và các tội xâm
phạm an ninh quốc gia nói chung trong tình hình mới.
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công
tác nghiên cứu và giảng dạy.
7. Bố cục của Luận văn.
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương 7 mục.









9
Chƣơng I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


1.1 KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC GHI NHẬN TỘI GIÁN ĐIỆP
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.
1.1.1. Khái niệm tội gián điệp.
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, lần đầu tiên tại Thông lệnh số 60 -
TT ngày 28/5/1947 của liên bộ Quốc phòng - Tư pháp đã xuất hiện thuật ngữ
"Tội gián điệp" thuật ngữ này qua các giai đoạn lịch sử khác nhau là không
thay đổi. Tuy nhiên, khái niệm về tội gián điệp chưa được một văn bản quy
phạm nào chính thức đề cập tới. Về mặt khoa học pháp lý hình sự đã có một
số công trình nghiên cứu liên quan đến việc làm sáng tỏ nội hàm của khái
niệm tội gián điệp, nhưng vẫn chưa có khái niệm thống nhất. Các tác giả của
giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: "tội
gián điệp là hành vi của công dân nước ngoài, người không có quốc tịch hoạt
động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Tội gián điệp cũng có thể là hành vi của
công dân Việt Nam gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo
của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc
giúp người nước ngoài hoạt động tình báo phá hoại; cung cấp hay thu thập
nhằm cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngoài hoặc những tin tức, tài liệu
khác để nước ngoài sử dụng chống lại nước Cộng hoà XHCN Việt Nam" [33,
tr 264]. Tác giả Lê Cảm đưa ra khái niệm tội gián điệp: "Tội gián điệp là việc
thực hiện bất kỳ hành vi nào (được liệt kê tại điều luật đã nêu) của người nước


10
ngoài hoặc người không có quốc tịch nhằm chống phá nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam" [6, tr 110].
Nghiên cứu luật hình sự một số nước trên thế giới cho thấy các nước
đều chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ, chính thức về tội gián điệp.
Làm rõ khái niệm tội gián điệp, theo chúng tôi, trước hết cần làm rõ

khái niệm các tội xâm phạm ANQG là gì. Trong từng thời kỳ cách mạng khác
nhau khái niệm các tội xâm phạm ANQG cũng khác nhau, khái niệm này
được thay đổi tuỳ theo sự phát triển của tình hình và các quan hệ chính trị - xã
hội trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam. Sắc lệnh số 21/SL
ngày 14 - 2 - 1946 quy định là "các hành vi làm phương hại đến nền độc lập
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà", Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách
mạng ngày 30 - 10 - 1967 quy định là "các tội phản cách mạng" được thay
bằng thuật ngữ "các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG" BLHS năm
1985 và "các tội xâm phạm ANQG" BLHS năm 1999.
Thuật ngữ “An ninh quốc gia” lần đầu xuất hiện vào những năm 70 của
thế kỷ 20 trong các sách báo nghiệp vụ của ngành Công an. Các tác giả cuốn
Từ điển nghiệp vụ Công an do Bộ Công an xuất bản năm 1977, đã lần đầu tiên
đưa ra khái niệm an ninh quốc gia: “An ninh quốc gia là sự yên ổn về chính trị
và trật tự xã hội trong phạm vi quản lý một Nhà nước, để đảm bảo chống xâm
lược và chống mọi hành vi gây rối, phá hoại, lật đổ”. Trong các văn bản pháp
luật được Nhà nước ta ban hành thời kỳ này, thuật ngữ “An ninh quốc gia”
được ghi nhận tại Điều 36 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 13-07-1982.
Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật này, khái niệm an ninh quốc gia chưa
được một văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta đề cập, làm rõ. Luật An ninh
quốc gia năm 2004 đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm an ninh quốc
gia tại Điều 3: “An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ


11
xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất
khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc”. Trong khái niệm này, an ninh quốc gia gồm hai bộ phận cấu
thành: bộ phận cấu thành thứ nhất: “Sự ổn định, phát triển bền vững của
chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” và bộ phận cấu thành thứ hai: “Sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. An ninh quốc gia sẽ không
được bảo đảm nếu bất cứ bộ phận cấu thành bị vi phạm. Việc xác định một
cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm an ninh quốc gia tại điều
luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc quy định giới hạn
các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp
dụng các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm an ninh quốc gia có hiệu quả.
Trên cơ sở khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm các tội xâm
phạm an ninh quốc gia như sau: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia là
những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực
tiếp, xâm phạm sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa
và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Và xét trên phương diện pháp lý hình sự, việc xác định đầy đủ và chính
xác nội hàm khái niệm tội gián điệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Từ sự
phân tích ở trên, đồng thời căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành, có thể đưa ra khái niệm tội gián điệp như sau: tội gián điệp là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội (được liệt kê tại điều luật đã nêu) do
người nước ngoài, người không quốc tịch hoặc công dân Việt Nam thực hiện


12
với lỗi cố ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, khả
năng quốc phòng, an ninh đối ngoại của đất nước, sự tồn tại và sự vững mạnh
của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam với mục đích chống chính quyền
nhân dân.
1.1.2 Ý nghĩa của việc ghi nhận tội gián điệp trong Luật hình sự
Việt Nam.
Trước yêu cầu đấu tranh bảo vệ ANQG qua các giai đoạn cách mạng,

đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi cả nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trước âm mưu "diễn biến hoà
bình" và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đối
với sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta thì việc ghi nhận tội gián điệp trong
Luật hình sự Việt Nam rõ ràng có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện:
Thứ nhất, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, khả năng
quốc phòng, an ninh đối ngoại của đất nước, sự tồn tại và sự vững mạnh của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nếu được coi là khách thể trực tiếp
được đặc biệt bảo vệ bằng pháp luật hình sự thì sẽ góp phần quyết định làm
cho nền tảng chính trị - xã hội của đất nước được yên ổn, nhân dân các dân tộc
được sống an toàn và hạnh phúc.
Thứ hai, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, khả năng
quốc phòng, an ninh đối ngoại của đất nước, sự tồn tại và sự vững mạnh của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nếu được bảo vệ tốt bằng pháp luật nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng thì không những sẽ hỗ trợ đắc lực cho
việc nâng cao uy tín và vị thế của quốc gia trước dư luận của cộng đồng quốc
tế, mà còn góp phần thực hiện tốt chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị và
hợp tác của Nhà nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới để cùng
nhau chung sức gìn giữ hoà bình và an ninh của nhân loại.


13
Thứ ba, việc quy định tội gián điệp trong Bộ luật hình sự có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với việc xác định giới hạn hành vi nguy hiểm xâm phạm
an ninh quốc gia nói chung, cũng như xác định chính xác hành vi cụ thể nào
xâm phạm khách thể trực tiếp của tội gián điệp để từ đó quyết định loại và
mức hình phạt tương ứng, tạo cơ sở vững chắc cho đấu tranh phòng, chống tội
phạm này một cách có hiệu quả.
Và cuối cùng, tư tưởng bảo vệ quyền con người được phán ánh thông
qua việc nhà làm luật quy định trong cấu thành tội gián điệp mức hình phạt

được áp dụng đối với người phạm tội từ nặng đến nhẹ căn cứ vào mức độ
nghiêm trọng của hành vi cũng như người phạm tội được hưởng một trong
mười biện pháp tha miễn (miễn trách nhiệm hình sự) nếu người đã nhận làm
gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn
khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Từ đó cho thấy mối liên hệ
chặt chẽ và thống nhất, biện chứng và hữu cơ, tương hỗ và qua lại giữa an
ninh quốc gia và các quyền con người dưới góc độ luật hình sự. An ninh quốc
gia của bất kỳ một nhà nước nào sẽ không bao giờ được yên ổn trước nguy cơ
bị uy hiếp bởi các tội xâm hại hòa bình và nhân loại nếu việc bảo vệ nó không
kèm theo việc thực thi một chính sách đối nội nhân đạo, tôn trọng và bảo vệ
tốt các quyền tự do của con người và của công dân ngay trên lãnh thổ của đất
nước mình, và các quyền con người dù có được ghi nhận trong các văn bản
của Liên hợp quốc, cũng như trong Hiến pháp và các văn bản luật khác của
các quốc gia thành viên Liên hợp quốc cũng sẽ không bao giờ được thực thi
trong đời sống xã hội hàng ngày của mỗi quốc gia nếu như việc bảo vệ các
quyền đó tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm lại không được gắn liền chặt chẽ
và mật thiết với việc bảo vệ các nền tảng đảm bảo một cách vững chắc cho
việc thực thi các quyền đó một cách hữu hiệu an ninh quốc gia.


14
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỘI GIÁN ĐIỆP TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.
Việt Nam là một nước có hơn hai nghìn năm lịch sử, trong cuộc đấu
tranh xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân nhiệm vụ bảo vệ an ninh đối
nội, đối ngoại của Nhà nước, sự vững mạnh của chính quyền nhân dân là vấn
đề quan trọng và xuyên suốt. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát
triển tội gián điệp trong luật hình sự Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng khi
nghiên cứu tội gián điệp, có ý nghĩa trong việc nhận thức những di sản lịch sử
do quá khứ để lại, hơn thế nữa, việc nghiên cứu vấn đề này còn là cơ sở cho

việc kế thừa và phát huy những kinh nghiệm của các thế hệ đi trước trong
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự không
thể tách rời nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể cũng như quan hệ
xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, càng không thể thoát ly các đặc điểm về
chính trị, kinh tế, xã hội văn hóa của từng thời kỳ lịch sử mà trong đó các văn
bản pháp luật hình sự được ban hành.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự chúng ta thấy rõ vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của pháp luật hình sự trong từng giai đoạn lịch sử, mới có thể hiểu
đầy đủ, đúng đắn nội dung của các quy phạm và chính sách hình sự của Nhà
nước. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội gián điệp có thể chia thành
các thời kỳ sau:
1.2.1. Lịch sử hình thành, phát triển tội gián điệp thời kỳ phong
kiến
Trong lịch sử Việt Nam, thời đại Hùng Vương, An Dương Vương với
sự ra đời của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc có vị trí rất quan trọng, đánh dấu
sự phát triển nhảy vọt về mọi mặt của tiến trình lịch sử dân tộc, từ thời đại
mông muội dã man sang thời đại văn minh. Tuy nhiên Nhà nước Âu Lạc tồn


15
tại không được bao lâu thì Triệu Đà tiến hành chiến tranh xâm lược. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta cuối cùng bị thất bại, đất nước bước vào thảm
họa hơn 1000 năm Bắc thuộc, đầy gian lao thử thách khắc nghiệt. Những tài
liệu nói về pháp luật nói chung thời kỳ này hầu như không tìm thấy. Nhưng có
lẽ đó là một thứ luật tục hay tập quán pháp, nhưng chắc chắn chưa phải là luật
riêng của một địa phương mà là luật chung của người Lạc Việt [30; tr24].
Từ năm 111 trước Công nguyên trở đi, sau khi Triệu Đà bị các triều
đình Hán tộc đánh bại, Âu Lạc trở thành quận huyện của Nhà nước phong
kiến phương Bắc cho đến thể kỷ X mới giành lại được nền độc lập tự chủ thực
sự. Trong khoảng thời gian dài hơn một nghìn năm ấy, nhân dân ta không

ngừng nổi dậy đấu tranh chống chính quyền đô hộ. Một số cuộc khởi nghĩa đã
giành được thắng lợi, nhưng kết quả là đã không duy trì và giữ vững thành quả
được bao lâu như khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Lý Bí … Nguồn tư
liệu về tình hình lập pháp thời kỳ này quá ít ỏi, chưa cho phép chúng ta dựng
lại bức tranh về pháp luật ở nước ta dưới ách đô hộ của các đế chế Trung Hoa.
Trong lĩnh vực pháp luật về hình luật, pháp luật Hán giữ vai trò thống trị. Hậu
Hán thư chép rằng chính quyền đô hộ đặt lệ phong hầu, cắt đất thưởng cho
những kẻ có công trấn áp kẻ phản nghịch.
Đến đầu thế kỷ thứ X chúng ta giành lại được độc lập (từ họ Khúc đến
Ngô, Đinh, Tiền Lê) Nhà nước ta là Nhà nước độc lập tự chủ dựa trên nền
tảng phương thức sản xuất châu Á đang phát triển. Vì thế, pháp luật dưới hình
thức tục lệ còn rất phổ biến và đóng vai trò quan trọng, nhất là trong lĩnh vực
hôn nhân gia đình và các quan hệ dân sự. Tài liệu để nghiên cứu tình hình
pháp luật về hình luật hầu như vắng, thiếu, chúng ta chỉ còn biết vài nét về các
hình phạt nặng về thời kỳ này.


16
Giai đoạn củng cố và phát triển Nhà nước Trung ương tập quyền thời
Lý – Trần – Hồ (từ những thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XV). Thời kỳ đầu (thế kỷ
XI) có thể nói là giai đoạn cao nhất của hình thái Á châu ở Việt Nam. Từ thế
kỷ thứ XII đến thế kỷ thứ XIV, khi mà chế độ tiểu tư hữu phát triển, chế độ tư
hữu về ruộng đất phát triển mạnh và được pháp luật bảo vệ đã phá vỡ từng
bước chế độ sở hữu công xã, chế độ bóc lột thần dân thông qua ruộng đất ngày
càng rõ rệt. Vì thế, mặc dù nguồn tư liệu pháp luật thời kỳ này còn rất nhiều
tản mạn, nhưng qua tìm hiểu có thể thấy, cùng với sự phát triển của chế độ
Trung ương tập quyền, đến thời kỳ hoạt động lập pháp của Nhà nước đã bắt
đầu phát triển, được thể chế hóa và quy định chặt chẽ. Pháp luật thời Lý cũng
như thời Trần trước hết là bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của vua quan
và tầng lớp trên trong xã hội, bảo vệ nhà nước Trung ương tập quyền. Việc

quy định các tội thập ác phán ánh rất rõ điều này. Năm 1042 vua Lý đã quy
định thể lệ chuộc tội là những người già trên 70 tuổi và trẻ em dưới 15 tuổi,
những người có nhược tật, những người họ nhà vua và có công lớn nếu phạm
tội có thể chuộc bằng tiền, trừ phạm tội thập ác (Phản quốc, đại nghịch, giết
vua, giết cha mẹ, nổi loạn, phản bội, hung ác bạo nghịch, không có đạo đức,
bất kính, bất hiếu, loạn luân). Quy định này cho thấy những hành động chống
đối lại Nhà nước Trung ương bị ghép vào tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu
loạn là những tội xếp hàng đầu trong mười tội thập ác. Pháp luật thời Trần quy
định: mưu phản thì phải giết hết thân tộc.
Sang thế kỷ XV, căm thù quân xâm lược nhà Minh, Lê Lợi đã triệu tập
quân sỹ, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trải qua 10 năm trường kỳ gian
khổ, giành lại nền độc lập dân tộc, đưa nước ta bước vào thời kỳ mới; thời kỳ
phát triển nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền. Các triều vua Lê đã ra
sức hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định trật tự xã hội, củng cố chính
quyền, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế – văn hóa và toàn bộ các lĩnh vực của


17
đời sống xã hội. Về kinh tế đã xoá bỏ về cơ bản chế độ điền trang, thái ấp thay
cho chế độ cấp hộ điền. Chế độ tư hữu về ruộng đất của giai cấp địa chủ phát
triển mạnh. Trong xã hội có hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ, các
tầng lớp thủ công và thương nhân còn nhỏ bé và nhìn chung chưa tách khỏi
nông nghiệp. Bộ máy chính quyền chặt chẽ nhằm chi phối xuống tận các địa
phương, đồng thời tập trung quyền lực tối cao vào bộ máy trung ương, đứng
đầu là vua. Do nhu cầu phát triển của nhà nước phong kiến Trung ương tập
quyền, các hoạt động lập pháp của nhà Lê được đẩy mạnh. Ngay sau khi lên
ngôi, năm 1428, Lê Lợi đã bàn với đại thần định một số luật lệ về hiện trạng
và phân chia ruộng đất công làng xã, dưới thời Lê Thái Tông, một số nguyên
tắc xét xử các vụ kiện cáo và một số điều luật nghiêm cấm nạn hối lộ, hoạt
động giao thiệp với nước ngoài được xây dựng thêm. Sang thời kỳ Lê Thánh

Tông, triều đình ban bố nhiều quy định về việc trấn áp các hành vi chống đối,
làm nguy hại đến an ninh quốc gia và địa vị thống trị của giai cấp phong kiến
… Triều Lê Sơ đã để lại những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực pháp luật và
đánh dấu bằng sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức, đây được coi là bộ luật quan
trọng nhất và chính thống nhất của triều Lê [21; tr12]. Quốc Triều hình luật là
bộ luật xưa nhất còn lưu giữ được đầy đủ, bộ luật có 13 chương, cộng lại có
722 điều, phân làm 6 quyển. Nghiên cứu luật hình trong Quốc triều hình luật
thấy, luật hình được quy định ở hầu hết các chương. Xếp hàng đầu là mười tội
ác (thập ác) được quy định ở điều 2 chương Danh lệ, trong đó Bộ luật quy
định cụ thể: mưu phản là mưu mô làm nguy đến xã tắc, mưu chống đối là mưu
phản nước theo giặc, là tội nặng nhất xâm hại đến sự tồn tại và quyền thống trị
của nhà nước phong kiến, đến sự tồn vong của quốc gia. Những người phạm
tội này phải chịu hình phạt cao nhất và thuộc diện “bát nghị” cũng không được
chiếu cố và không được chuộc bằng tiền. Điều 4 chương Danh lệ quy định:
phàm những người thuộc tám điều nghị xét giảm tội trên này, mà phạm vào tử


18
tội, thì các quan nghị án phải khai rõ tội trạng và hình phạt nên thế nào, làm
thành bản tâu, dâng lên vua để xét nghị. Từ tội lưu trở xuống được giảm một
bậc, nếu phạm tội thập ác thì không theo luật này, và điều 5 chương Danh lệ
cũng quy định: những họ bà phi của Hoàng Thái Tử từ đại công trở lên mà
phạm tử tội, thì cũng phải làm thành bản tâu dâng lên vua xét định, từ tội lưu
trở xuống được giảm một bậc, nếu tội thập ác, giết người, gian dâm, trộm cắp
trong cung cấm, ăn hối lộ làm trái phép thì không theo luật này. Điều 16
chương Danh lệ quy định thêm: từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống cùng
những người bị ác tật, phạm tội phản nghịch đáng phải tội chết phải tâu lên
vua xét định. Bộ luật Hồng Đức quy định các trường hợp được tha tội tại điều
18 chương Danh lệ nhưng người phạm tội thập ác thì không áp dụng điều này.
Cùng đó, tại điều 25 chương này cũng quy định: những người tố cáo việc mưu

phản, mưu đại nghịch cũng tiết lộ những việc lớn của nhà nước thì được
thưởng tước ba tư trở lên. Người nhà những người phạm tội mưu phản giấu tội
cho họ đều không được áp dụng điều 39 là không phải tội. Hành vi phản
nghịch còn được luật quy định ở rải rác các điều như điều 14, điều 108 và điều
138 chương Vi chế. Chương Quân chính có các điều 15, điều 35. Các điều 1,
điều 24 tại Chương Hộ hôn; các điều 1, điều 2 chương Đạo tặc, điều 37
chương Đấu tụng, điều 5 chương Trá nguỵ và điều 9 chương Bộ vong. Đặc
biệt liên quan đến an ninh quốc gia tại điều 26 chương Cấm vệ có quy định
những người tiết lộ việc quân cơ ra nước ngoài đều phải tội chém, và điều 15
chương Quân chính quy định: khi có việc đi đánh dẹp bí mật, kẻ nào báo cho
giặc biết tin trước, cùng là thông đồng với người ngoài để làm gián điệp thì bị
chém. Người biết mà dung túng thì cũng cùng một tội. Như vậy, chúng ta thấy
để đáp ứng nhu cầu phát triển của nhà nước cũng như của chế độ phong kiến
đương thời, hoạt động lập pháp thời Lê Sơ rất quan tâm và chú trọng việc tập
trung bảo vệ quyền thống trị của vua, một loạt các hành vi phản nghịch được


19
luật điều chỉnh trong đó lần đầu tiên cụm từ “gián điệp” xuất hiện, tuy Bộ
Quốc triều hình luật chưa khái quát cụ thể về hành vi gián điệp nhưng đã kế
thừa và phát huy những thành tựu của các vương triều trước và có giá trị đặc
biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam.
Sang thời kỳ nội chiến phân liệt đến khi thống nhất đất nước (Từ thế kỷ
XVI đến cuối thể kỷ XVIII), triều Lê mất dần đi vai trò lịch sử của nó, đất
nước bước vào thời kỳ hỗn loạn, các mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt và
quyết liệt, các tập đoàn phong kiến tranh giành nhau quyền lực, gây nên
những cuộc nội chiến kéo dài và phân chia đất nước thành những miền, đặt
dưới những chính quyền riêng biệt khác nhau. Đây là giai đoạn đầy biến động
và phức tạp của lịch sử dân tộc, vì thế nguồn tư liệu nghiên cứu pháp luật giai
đoạn này rất rời rạc và tản mạn, nhưng nhìn chung Bộ luật Hồng Đức vẫn

được áp dụng trong suốt các thể kỷ sau và được coi là mẫu mực để noi theo.
Thế kỷ thứ XVIII khép lại với sự chấm dứt của vương triều Tây Sơn và
tiếp theo nó là một vương triều mới: Triều Nguyễn từ 1802 đến Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Sau khi lên ngôi, Gia Long và các vua tiếp theo đã thiết
lập ở nước ta chế độ Quân chủ chuyên chế, tăng cường bộ máy đàn áp và các
công cụ thống trị, thi hành hàng loạt các biện pháp nhằm củng cố bảo vệ
quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến, vì thế nhà Nguyễn đặc biệt quan
tâm đến việc xây dựng pháp luật. Sản phẩm tiêu biểu là Bộ luật Hoàng triều
luật lệ ban hành năm 1815, thường gọi là Bộ luật Gia Long. Nghiên cứu lịch
sử hình thành và phát triển tội gián điệp trong Hoàng Việt luật lệ ta thấy: thứ
nhất, cũng như pháp luật thời kỳ nhà Lê pháp luật thời kỳ này không có quy
định cụ thể về tội gián điệp nhưng có quy định một số tội chống chính quyền
như mưu phản, mưu đại nghịch, phản bội. Một số loại tội phạm xâm hại tới sự
tồn tại của chế độ phong kiến chế tài hình sự mang tính chất tàn ác hơn nhiều.


20
Điều 223 – Mưu đại nghịch – Hoàng việt luật lệ quy định: “Phàm kẻ mưu
phản không làm lợi cho đất nước, mưu hại xã tắc và đại nghịch không có lợi
đối với vua, mưu phá huỷ tôn miếu, sơn lăng và cung quyết. Chỉ nhúng tay
vào âm mưu mà không chia cầm đầu hay tòng phạm đã, hay chưa làm đều bị
xử tử bằng lăng trì. Ông nội, cha con, cháu, anh em và người ở cùng trong một
nhà, như trong tộc, không để tang thân thuộc, bà ngoại cha vợ, rể, không chia
khác nhau theo họ, chánh phạm hay mới quen. Chú bác, con của anh em
không hạn đã hay chưa ở riêng, quê quán khác nhau. Nam từ 16 tuổi trở lên,
không kể là bịnh nặng, tàn phế, đều đem chém hết. Con trai từ 15 tuổi trở
xuống và mẹ của chánh phạm, con gái thê thiếp, chị em, bao nhiêu thê thiếp
ấy đem phát cho làm nô lệ cho các bực đại công thần. Của cải của chính phạm,
cho vào nhà quan” [24, tr555]. Trách nhiệm hình sự đối với các tội mưu phản
đại nghịch, mưu phản, được quy định ở thời điểm biểu lộ ý định phạm tội tại

Điều 223, 224 Hoàng Việt luật lệ. Ví dụ Điều 224 – Mưu phản – Hoàng việt
luật lệ quy định: “phàm kẻ mưu phản gài mưu trong nước nghe lịnh nước
ngoài. Chỉ là cùng mưu thì cũng không chia cầm đầu hay tòng phạm mà đem
chém hết ráo” [24, tr 560]. Kẻ phản (như phản lại nước mình) mà tự thú thì
được giảm hai bậc tội. Kẻ bỏ trốn và kẻ phản quốc, dù không tự thú, nhưng trở
về nhà thì giảm hai bực tội. Thứ hai, pháp luật nhà Nguyễn hết sức coi trọng
việc bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền, vì vậy đã quy
định mười tội ác (thập ác) là các tội xâm hại đến các quan hệ xã hội quan
trọng nhất của chế độ phong kiến với các chế tài hình sự nghiêm khắc nhất,
không được ân giảm đối với bất cứ tầng lớp nào. Đảm bảo sự tồn tại của nhà
nước phong kiến, pháp luật đặc biệt coi trọng việc bảo vệ quân đội, trong đó
có Điều 184 – Tiết lộ đại sự của quân đội – Hoàng Việt luật lệ quy định: phàm
triều đình cùng thảo luận kế hoạch với Tổng binh và các tướng quân về việc
tấn công giặc ngoại biên và bắt sống đồ đảng phản nghịch. Đó là đại sự tối


21
mật, nếu nghe được mà tiết lộ cho địch biết thì bị tội chém. Nhìn chung pháp
luật nhà Nguyễn mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật hình sự phong kiến
Trung Quốc rất nặng nề, có tiếp thu các giá trị lập pháp hình sự của thời nhà
Lê, cùng với những sáng tạo nhất định, thể hiện kỹ thuật lập pháp hình sự ở
trình độ cao so với các nước trong khu vực, nhưng vẫn chưa có quy định cụ
thể về tội gián điệp.
Nghiên cứu pháp luật hình sự thời kỳ phong kiến quy định tội gián điệp,
chúng ta có thể rút ra những nhận xét sau:
Thứ nhất, cùng với quá trình hình thành và phát triển của nhà nước, hệ
thống pháp luật cũng từng bước hình thành và được nhà nước quan tâm xây
dựng, từ việc hoàn chỉnh và bảo tồn các luật tục cổ xưa (Thời Hùng Vương –
Bắc thuộc) đến việc xây dựng các bộ luật tổng hợp và đồ sộ như: Bộ Quốc
triều hình luật, Bộ Hoàng triều luật lệ, sự phát triển của hệ thống pháp luật cho

thấy mục đích bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến đương thời.
Các hành vi mưu phản, mưu chống đối là loại tội nặng xâm hại đến sự tồn tại
và quyền thống trị của nhà nước phong kiến, đến sự tồn vong của quốc gia xếp
hàng đầu trong mười tội ác và phải chịu hình phạt cao nhất.
Thứ hai, pháp luật không có điều nào quy định cụ thể về tội danh tội
gián điệp nhưng có liệt kê các hành vi để lộ quân cơ hay làm gián điệp thì bị
chém.
1.2.2. Lịch sử hình thành, phát triển tội gián điệp trước khi pháp
điển hóa hình sự năm 1985
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta trở thành chủ nhân của đất nước và
làm chủ vận mệnh của mình. Để bảo vệ thành quả cách mạng, nhiệm vụ hàng
đầu của toàn dân ta là sử dụng mọi lực lượng, biện pháp và hình thức đấu


22
tranh để bảo vệ chính quyền cách mạng, chống lại những âm mưu đen tối của
kẻ thù bên trong và các thế lực đế quốc. Xét trên phương diện pháp luật hình
sự, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định các tội xâm phạm
an ninh quốc gia nói chung và tội gián điệp nói riêng được Nhà nước ta rất chú
trọng và luôn có những bổ sung kịp thời trước những đòi hỏi khách quan của
tình hình và nhiệm vụ chung của sự nghiệp cách mạng. Có thể thấy rõ điều
này qua tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật trong giai đoạn này.
Ngay từ những ngày đầu chính quyền mới được thành lập, ở miền Bắc,
nhân dân ta phải chống chọi với hậu quả của nạn đói và phải đối phó với 20
vạn quân Tưởng cùng bè lũ tay sai lợi dụng danh nghĩa đồng minh hòng thực
hiện âm mưu thủ tiêu chính quyền cách mạng; ở miền Nam, thực dân Anh và
quân đội Pháp kéo đến chiếm lại Nam bộ, mưu toan làm bàn đạp chiếm lại
toàn bộ nước ta. Trước âm mưu thâm độc của kẻ thù ngày 25 tháng 11 năm
1945 Đảng ta đã ra Chỉ thị kháng chiến cứu quốc chỉ rõ nhiệm vụ của toàn

Đảng, toàn dân là: “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài
trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”. Trên cơ sở đó, ngày 28 tháng 5
năm 1947 liên Bộ Quốc phòng - Tư pháp ban hành Thông lệnh số 60 – TL.
Thông lệnh nêu rõ: Tòa án binh tại mặt trận có thẩm quyền xét xử những
người thuộc bất cứ hạng nào quả tang phạm vào, ở những địa phương tác
chiến, một trong những tội sau này:
- Phản quốc
- Gián điệp
- Cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng
Tòa án binh tại mặt trận có quyền tuyên án đến tử hình.


23
Việc ban hành Thông lệnh trên phản ánh nhiệm vụ bảo vệ vững mạnh
của chính quyền nhân dân mới giành được. Mặc dù Thông lệnh chưa quy định
rõ tội gián điệp là gì, những hành vi nào phạm tội gián điệp, nhưng lần đầu
tiên Thông lệnh đã đề cập đến tội danh gián điệp. Bên cạnh những văn bản
quy phạm pháp luật hình sự mới được ban hành nhằm bảo vệ những thành quả
cách mạng, Nhà nước dân chủ mới còn ban hành Sắc lệnh số 21 ngày
14/2/1946 về tổ chức Toà án quân sự và trừng trị các hành động phương hại
đến nền độc lập của nước nhà. Điều 2 Sắc lệnh quy định: Toà án quân sự xử
tất cả các người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8 dương
lịch năm 1945, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ
Cộng hoà. Trừ những việc nào mà phạm nhân là binh sỹ, dù là tòng phạm hay
chính phạm thì thuộc về nhà binh tự xử lấy. Sắc lệnh cũng cho phép áp dụng
một số điều khoản của pháp luật hình sự cũ phục vụ cho ổn định trật tự xã hội
mới trong lúc chưa kịp xây dựng các văn bản mới với lưu ý rằng việc áp dụng
một số điều khoản được quy định trong An Nam hình luật, Hoàng Việt hình
luật và Bộ hình luật tu chính phải đảm bảo điều kiện là nội dung không trái
với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Cách mạng Việt Nam chuyển sang cục diện mới, diễn biến vô cùng phức tạp.
Thực dân Pháp đẩy mạnh hoạt động quân sự, kích động các thế lực phản động
gây phỉ, gây bạo loạn, chống phá cách mạng quyết liệt; đồng thời tăng cường
hoạt động do thám, gián điệp, chúng chú trọng tung gián điệp vào nội bộ các
cơ quan kháng chiến, các đơn vị quân đội. Nhiều cơ quan, đơn vị mất cảnh
giác đã để lộ tài liệu hoặc để bọn do thám hoạt động gây tác hại lớn. Đặc biệt
từ sau năm 1950, “Pháp coi hoạt động gián điệp là một chính sách quan trọng
phục vụ cuộc chiến tranh tổng lực”. Trước tình hình đó, Đảng xác định rõ: lúc
này cuộc đấu tranh chống bọn gián điệp … là một bộ phận quan trọng của


24
cuộc đấu tranh chống xâm lược, và ngày 25 tháng 9 năm 1948 Ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 25 về việc “Đề phòng gián điệp chui vào hàng
ngũ của Đảng và các cơ quan chính quyền”, Chỉ thị nhấn mạnh thêm vấn đề
phòng gian bảo mật là một công tác cấp thiết của cấp bộ Đảng và chính quyền
các cấp, việc giữ bí mật lại càng quan trọng hơn lúc nào hết, đặc biệt là đề
phòng việc nội gián chui vào nội bộ. Đồng thời, để cụ thể hóa các chủ trương,
chính sách của Đảng về đấu tranh chống phản cách mạng, Nhà nước đã ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tội gián điệp. Để xử lý
người phạm tội gián điệp một cách hiệu quả, Sắc lệnh số 146 ngày 02/3/1948
về “bắt buộc phải tịch thu gia sản trong các vụ xử gián điệp hay phản quốc”,
tại Điều 1 quy định: “Các Tòa án quân sự và Tòa án binh khi xử một vụ gián
điệp hay phản quốc bắt buộc phải tuyên, ngoài hình phạt chính theo luật hiện
hành, hình phạt phụ là tịch thu một phần hay tất cả gia sản của các phạm
nhân” [2, tr 215]. Và đáng chú ý, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt Sắc lệnh
quy định về việc giữ bí mật như Sắc lệnh số 95 ngày 13/8/1949 về bí mật kinh
tế; Sắc lệnh 128 ngày 17/7/1950 về bí mật công văn, thư tín, Sắc lệnh số 154
ngày 17/11/1950 về bí mật cơ quan, bí mật công tác của Chính phủ; Sắc lệnh

số 69 ngày 10/12/1951 về bí mật của Nhà nước. Cụ thể, Điều 4 Sắc lệnh 69
quy định: ai phạm vào một trong những tội dưới đây sẽ bị truy tố trước Tòa án
như tội phản quốc:
1. Cố ý tiết lộ, hoặc bán bí mật quốc gia cho địch, hay là cho tay
sai của địch.
2. Lợi dụng bí mật quốc gia để lấy lợi.
3. Dò xét bí mật quốc gia, mua lấy cắp những tài liệu bí mật quốc
gia [2, tr 133].


25
Ngày 21 tháng 01 năm 1949 Ban Thường vụ Trung ương ra Thông tri
về việc “Pháp mua chuộc Công an làm gián điệp”, vì vậy những tên gián điệp
bị phát hiện ở thời kỳ này, đều bị xét xử về tội phản quốc.
Năm 1953, tình hình và nhiệm vụ cụ thể của cách mạng có những thay
đổi nhất định, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 133 ngày 20/01/1953 quy
định “trừng trị những tội phạm xâm hại đến an toàn Nhà nước, đối nội và đối
ngoại”. Điều 1 của Sắc lệnh chỉ rõ: để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân,
đẩy mạnh kháng chiến dành độc lập, thống nhất cho dân tộc, nay ban hành Sắc
lệnh này nhằm mục đích trừng trị các loại Việt gian, phản động và xét xử
những âm mưu và hành động phản quốc. Đây là một vản bản pháp luật hình
sự quy định tương đối hoàn chỉnh về tội gián điệp là cơ sở cho việc xử lý tội
phạm, cụ thể:
Điều 6: kẻ nào tham gia các đảng phái, các tổ chức Việt gian, phản
động, tuyên truyền lôi kéo nhân dân theo địch, hoặc hoạt động gián
điệp cho địch, sẽ bị xử phạt như sau:
a. Bọn chỉ huy các cấp sẽ bị xử tử hình, hoặc phạt tù từ 10 năm đến
chung thân.
b. Tay chân đắc lực của bọn trên, sẽ bị xử phạt từ 10 năm trở xuống,
kẻ nào đã làm hại nhiều, sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân

hoặc sẽ bị xử tử hình.
c. Bọn đỡ đầu hoặc dùng mọi cách giúp đỡ các tổ chức phản động
trên hoạt động, thì tuỳ tội nặng nhẹ mà xử phạt.
Điều 7: Kẻ nào phạm tội làm gián điệp cho địch như:
- Làm nội gián trong các tổ chức quân, dân, chính;
- Cố ý tiết lộ hoặc bán bí mật quốc gia cho địch;


26
- Dò xét bí mật quốc gia;
- Mua, cướp, lấy cắp những tài liệu bí mật quốc gia;
- Làm dấu hiệu cho địch bắn phá hoặc lùng bắt cơ quan, cán bộ,
nhân dân;
- Làm liên lạc đưa thư, tài liệu, tin tức, đưa người cho địch;
Sẽ bị xử phạt như sau:
a. Bọn tổ chức, chỉ huy hoặc bọn hoạt động đắc lực sẽ bị xử tử hình,
hoặc sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân;
b. Bọn gián điệp thường, tội trạng tương đối nhẹ sẽ bị phạt tù từ 10
năm trở xuống.
Như vậy việc xử lý người phạm tội gián điệp Sắc lệnh có nhiều điểm
mới là: Thứ nhất, có tiêu đề tội danh về tội gián điệp và liệt kê các hành vi nào
phạm vào tội gián điệp; thứ hai, Sắc lệnh căn cứ vào mức độ và tính chất nguy
hiểm của hành vi, vai trò của từng người mà quy định khung hình phạt có mức
độ nghiêm khắc tương ứng, hình phạt cao nhất được áp dụng là tử hình; và
cuối cùng cấu thành tội phạm không nêu ra mục đích phản quốc nhưng rõ ràng
hành vi của cấu thành tội gián điệp uy hiếp trực tiếp đến sự tồn tại của chính
quyền nhân dân thể hiện rõ mục đích chống cách mạng, chống lại Tổ quốc của
kẻ phạm tội nên nhà làm luật nêu ra dấu hiệu “cho địch” trong cấu thành tội
phạm.
Đối với địa chủ Việt Nam, Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 151 – SL

ngày 12 tháng 4 năm 1953 về “trừng trị địa chủ chống pháp luật”, tại Điều 6
Sắc lệnh có quy định: địa chủ nào phạm tội cấu kết với đế quốc, nguỵ quyền,
gián điệp, thành lập hay cầm đầu những tổ chức, đảng phái phản động để

×