ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ THANH GIANG
TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ
HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT
XỬ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG
HÀ NỘI -2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa có ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những nội dung trong luận văn
có sử dụng tài liệu tham khảo đều đƣợc trích dẫn nguồn đầy đủ và
chính xác. Trong quá trình thực hiện luận văn đƣợc sự quan tâm
hƣớng dẫn cụ thể, sâu sắc của thầy Hoàng Văn Hùng luận văn đƣợc
hoàn thành theo đúng quy trình, nội dung. Xin trân trọng cám ơn sự
quan tâm hƣớng dẫn tận tình của thầy.
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Thanh Giang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỐN KHỎI
NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI,
ĐANG BỊ XÉT XỬ 5
1.1. KHÁI NIỆM TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC
TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ 5
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI
TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ
DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ 9
1.2.1. Sự cần thiết 9
1.2.2. Ý nghĩa 10
1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỘI TRỐN KHỎI
NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI,
ĐANG BỊ XÉT XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 13
1.3.1. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang
bị xét xử trƣớc pháp điển hóa 13
1.3.2. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang
bị xét xử khi pháp điển hóa 20
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 23
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI TRỐN KHỎI NƠI
GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG
BỊ XÉT XỬ THEO QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 24
2.1. CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM 24
2.2. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM 27
2.3. MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM 28
2.4. MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM 36
2.5. HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI TỘI TRỐN KHỎI NƠI
GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢM, ĐANG
BỊ XÉT XỬ 39
2.5.1. Phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 1 Điều 311 Bộ
luật hình sự 39
2.5.2. Phạm tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 2 Điều 311 Bộ
luật hình sự 40
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 44
Chƣơng 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN
THIỆN TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN
KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ 45
3.1. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI "TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ
HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ "
TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY (2009 - 2013) 45
3.1.1. Thực trạng và diễn biến tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi
đang xét xử, đang dẫn giải 45
3.1.2. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội trốn khỏi nơi giam, giữ 47
3.1.3. Nhân thân ngƣời phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ 52
3.2. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ XÉT XỬ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC
TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ" 55
3.2.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội trốn khỏi nơi giam, giữ 55
3.2.3. Các giải pháp cụ thể 70
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 81
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
1
Bảng 3.1.
Thống kê số liệu số bị cáo và số vụ án phạm tội
trốn khỏi nơi giam, giữ trong 5 năm từ 2009
đến 2013
46
2
Bảng 3.2.
Thống kê số vụ án phạm tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp và số vụ án phạm tội trốn khỏi nơi
giam, giữ trong 5 năm từ 2009 đến 2013
47
3
Bảng 3.3.
Bảng thống kê số liệu các bị cáo đã bị xét xử về
tội trốn khỏi nơi giam, giữ với số bị cáo phạm
tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp
48
4
Bảng 3.4.
Thống kê về tình hình áp dụng hình phạt đối
với bị cáo phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ ở
Việt Nam giai đoạn 2009 - 2013
50
5
Bảng 3.5.
Thống kê số liệu các vụ phạm tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp trong thời gian từ 2009 đến 2013
51
6
Bảng 3.6.
Phân tích đặc điểm nhân thân bị cáo đã xét xử
sơ thẩm (1522/1123 Bị cáo thuộc các đối tƣợng
cần nghiên cứu mang ý nghĩa lớn nhất về mặt
nhân thân)
53
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Stt
Số hiệu biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
1
Biểu đồ 3.1.
Số vụ và số bị cáo phạm tội trốn khỏi nơi
giam, giữ đã đƣợc xét xử sơ thẩm ở Việt
Nam giai đoạn 2009 – 2013
46
2
Biểu đồ 3.2.
Cơ cấu tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong các
tội phạm nói chung giai đoạn 2009 - 2013
48
3
Biểu đồ 3.3.
Cơ cấu tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong
các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp
giai đoạn 2009 - 2013
49
4
Biểu đồ 3.4.
Cơ cấu bị cáo trốn khỏi nơi giam, giữ
trong nhóm các bị cáo phạm tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp giai đoạn 2009 - 2013
49
5
Biểu đồ 3.5.
Phân tích đặc điểm nhân thân bị cáo
54
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các cơ quan tƣ pháp
có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lực của nhân dân, nhiệm
vụ của các cơ quan tƣ pháp là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp
luật khác góp phần đảm bảo an ninh chính trị và an toàn xã hội, tạo môi
trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Ngay từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến các kỳ đại hội sau này
Đảng ta đều đánh giá cao vai trò của các cơ quan tƣ pháp đã liên tục đƣa ra
các chủ trƣơng để công tác tƣ pháp đáp ứng đƣợc trong tình hình mới nhƣ các
biện pháp về tổ chức, quy định về chức năng, quyền hạn, tăng cƣờng về cơ sở
vật chất, đào tạo, các biện pháp về pháp luật trong đó có biện pháp pháp luật
hình sự là một biện pháp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ cho hoạt
động tƣ pháp tránh khỏi sự xâm hại từ phía tội phạm.
Tuy nhiên hoạt động tƣ pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế nhƣ chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan tƣ pháp chƣa đƣợc hoàn thiện, đội ngũ còn thiếu và
yếu, cơ sở vật chất làm việc của các cơ quan tƣ pháp còn thiếu thốn, lạc hậu.
Những hạn chế trên ảnh hƣởng không nhỏ tới hoạt động của các cơ quan tƣ
pháp. Với tầm quan trọng nhƣ vậy, việc đảm bảo cho sự hoạt động của các cơ
quan tƣ pháp là một yêu cầu bức thiết.
Từ trƣớc khi có Bộ luật hình sự 1985, các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp đã đƣợc quy định ở nhiều văn bản khác nhau, đến khi có Bộ luật hình sự
thì loại tội phạm này đã đƣợc quy định thành một chƣơng vừa có tính chất của
tội phạm là xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp mà
còn thể hiện thái độ cƣơng quyết đấu tranh đối với loại tội phạm này.
2
Trong các tội phạm hoạt động tƣ pháp thì tội Trốn khỏi nơi giam, giữ
hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (sau đây còn gọi tắt là tội
trốn khỏi nơi giam, giữ) chiếm tỷ lệ nhiều nhất và vì vậy gây tác hại lớn
nhất đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp, trật tự an toàn xã
hội, gây mất lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Tuy nhiên, những năm
qua chƣa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ toàn diện tội phạm này mặc
dù cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề đấu tranh phòng và
chống tội phạm nói trên. Do đó, tôi đã chọn đề tài "Tội trốn khỏi nơi
giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo pháp luật
hình sự Việt Nam" để làm luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong những năm qua ít
đƣợc nghiên cứu sâu, đồng bộ và toàn diện. Cuối thập kỷ 90 các tác giả Phạm
Thanh Bình và Nguyễn Vạn Nguyên đã viết cuốn Trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, 1990, Nxb Pháp lý theo hình thức
bình luận Bộ luật hình sự, cũng giống nhƣ giáo trình của các trƣờng Đại học,
nhằm đƣa ra những khái niệm, những cấu thành cơ bản nhất của loại tội phạm
này và sau đó cũng có một số tác giả cũng đã viết về vấn đề này hoặc các
thông tƣ hƣớng dẫn cũng nhằm giải thích một số khái niệm, hƣớng dẫn về
định lƣợng nhằm đáp ứng công tác xét xử. Công trình khoa học tiếp theo là
luận án phó tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Tất Viễn đề cập đến nhóm
"Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp" trong Bộ luật hình sự không đi sâu
vào nguyên nhân và điều kiện phạm tội dƣới góc độ tội phạm học. Gần đây,
thì có công trình nghiên cứu của tác giả Trần Quân viết về "Tội trốn khỏi nơi
giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử ở Việt nam - Thực
trạng và giải pháp".
Tuy nhiên, các tác giả nghiên cứu chủ yếu về nguyên nhân và điều kiện
3
phạm tội chứ không đi sâu vào các quy định của Bộ luật hình sự do đó tôi
chọn đề tài "Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải,
đang bị xét xử theo pháp luật hình sự Việt Nam" để làm luận văn tốt
nghiệp, nhằm khái quát sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật
nói chung và pháp luật hình sự nói riêng đối với tội trốn khỏi nơi giam, đồng
thời nghiên cứu các quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội
phạm này. Phân tích và làm rõ thực trạng tội trốn khỏi nơi giam ở Việt Nam
hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm trốn khỏi nơi giam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt
nam về tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ", đánh giá đúng tình hình phạm tội, đƣa
ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
- Khái quát về mặt lịch sử lập pháp của Việt nam từ trƣớc đến nay về
tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ".
- Phân tích cơ sở trách nhiệm hình sự của tội phạm.
- Thực tiễn xét xử tội phạm trong 5 năm trở lại của tội trốn khỏi nơi
giam, giữ.
- Phƣơng hƣớng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xét xử đối với tội
"Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử".
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự
về tội trốn khỏi nơi giam, giữ theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực
tiễn xét xử tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong 5 năm gần đây (2009 - 2013).
4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện trên cơ sở của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, đồng thời sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể khác nhƣ lịch
sử, thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Lần đầu tiên với phạm vi của một luận văn cao học nghiên cứu đầy đủ,
toàn diện về tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ" trên hai phƣơng diện luật hình sự.
- Khái quát đánh giá đƣợc các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
trong đấu tranh phòng, chống tội trốn khỏi nơi giam, giữ.
- Nắm đƣợc kết quả thực tiễn xét xử tội phạm này và đề xuất các kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả xét xử.
- Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, đào tạo, các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể dùng để rút kinh nghiệm
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận. Luận văn gồm 3 chƣơng.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc
Trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử.
Chương 2: Đặc điểm pháp lý của tội Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc
trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo qui định của Bộ luật hình sự
năm 1999.
Chương 3: Thực tiễn xét xử và phƣơng hƣớng hoàn thiện tội Trốn khỏi
nơi giam, giữ hoặc Trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ
HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ
1.1. KHÁI NIỆM TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN
KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ
Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét
xử đƣợc qui định trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp của
BLHS 1999 với mục đích bảo đảm sự đúng đắn trong hoạt động tƣ pháp.
Trong BLHS 1999 có hai nhóm tội phạm: Các tội phạm về chức vụ và các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp qui định khái niệm về Tội xâm phạm hoạt động
tƣ pháp và khái niệm về các tội phạm chức vụ. Đã có ý kiến cho rằng không
nên qui định khái niệm về các tội này cho phù hợp và tƣơng thích với các
nhóm tội phạm trong phần riêng BLHS. Tuy nhiên, do nội hàm của khái niệm
“công vụ” và khái niệm “tƣ pháp” có những cách hiểu khác nhau nên cần phải
qui định rõ để khẳng định nội dung của khái niệm tránh sự hiểu lầm và giải
thích quá rộng hoặc quá hẹp theo ý chủ quan của ngƣời áp dụng pháp luật.
Mặt khác, nếu không qui định công dân sẽ khó hiểu để áp dụng khi có liên
quan. So với khái niệm về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong Bộ luật
hình sự 1985, thì BLHS 199 có một số điểm đã đƣợc sửa đổi, bổ sung, cụ thể
ở Bộ luật hình sự 1985 nêu “ bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc, của các tổ
chức xã hội và của công dân” thì BLHS 1999 đƣợc thay bằng cụm từ “ bảo
vệ quyền lợi của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Ở BLHS 1999 khái niệm này rộng hơn, nếu nói tổ chức xã hội thì chƣa bao
hàm hết các tổ chức khác nhƣ tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị Và khi nói
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân sẽ đầy đủ và chính xác hơn
là “quyền lợi” nhƣ đã nêu trong Bộ luật hình sự năm 1985.
6
Khái niệm về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc quy định ở
Điều 292 Bộ luật hình sự 1999 cho thấy hành vi phạm tội này là các hành vi
nguy hiểm cho xã hội, do những ngƣời có nhiệm vụ tiến hành tố tụng, những
ngƣời tham gia tố tụng hoặc những ngƣời khác thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp (trong một
số trƣờng hợp còn xâm hại đến cả các quyền của công dân cũng nhƣ quyền lợi
của Nhà nƣớc, của tổ chức) thông qua hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức
vụ quyền hạn của ngƣời là cán bộ, nhân viên trong các cơ quan tƣ pháp hoặc
qua hành vi cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp do những
ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nƣớc, các tổ chức những
ngƣời tham gia tố tụng hoặc những ngƣời khác thực hiện.
Là một tội phạm trong nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp thuộc
nhóm chủ thể không phải là ngƣời có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tƣ
pháp nhƣng lại xâm hại đến sự đúng đắn của hoạt động tƣ pháp, Tội trốn
khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử do đó đƣợc
qui định tại Điều 311 Chƣơng XXII BLHS. Theo qui định này thì Tội trốn
khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử có các đặc
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tội trốn khỏi nơi giam là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đó
là hành vi gây nên (hoặc có khả năng thực tế) gây nên thiệt hại đáng kể cho
các quan hệ xã hội trong hoạt động tƣ pháp đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ.
Đây là đặc điểm thể hiện bản chất xã hội và thuộc tính khách quan của tội
phạm, là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với các hành vi vi phạm
pháp luật khác.
Thứ hai, Tội trốn khỏi nơi giam, giữ là hành vi bị luật hình sự cấm (còn
gọi là tính trái pháp luật hình sự của tội phạm). Đây là đặc điểm pháp lý
(hình thức) của các tội phạm đƣợc quy định trong luật hình sự nói chung và
7
tội trốn khỏi nơi giam, giữ nói riêng. Tính trái pháp luật hình sự thể hiện ở
việc Bộ luật hình sự năm 1999 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại Điều
311 đã ngăn cấm việc thực hiện tội phạm này bằng cách đe dọa áp dụng chế
tài hình sự (hình phạt) đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội là phạt tù có
thời hạn.v.v. Đặc điểm này lại một lần nữa cụ thể hóa Điều 2 Bộ luật hình sự
hiện hành: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới
phải chịu trách nhiệm hình sự" và cụ thể hóa cho một nguyên tắc cơ bản của
luật hình sự đó là nguyên tắc: không có tội phạm, không có hình phạt nếu
không đƣợc luật quy định.
Thứ ba, tội trốn khỏi nơi giam do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý. Cũng giống nhƣ
các tội phạm khác, chủ thể của tội trốn khỏi nơi giam nhất thiết phải là ngƣời
ở trong trạng thái bình thƣờng (tức là không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý
khác làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi), có khả
năng nhận thức đƣợc đầy đủ tính chất thực tế cũng nhƣ tính chất pháp lý của
hành vi do mình thực hiện và điều khiển đƣợc đầy đủ hành vi đó. Đồng thời,
tại thời điểm thực hiện tội phạm, ngƣời này còn phải đạt đến một độ tuổi nhất
định mà luật hình sự quy định phải chịu trách nhiệm hình sự. Cùng với năng
lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì lỗi cũng là
một đặc điểm chủ quan và mang tính bắt buộc đối với mọi cấu thành tội
phạm. Ở tội trốn khỏi nơi giam, giữ lỗi của chủ thể khi thực hiện tội phạm là
lỗi cố ý: ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi bỏ trốn là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trƣớc đƣợc hậu quả của hành vi do mình gây nên nhƣng vẫn mong
muốn cho hậu quả xảy ra.
Thứ tư, tội phạm này xâm phạm đến hoạt đúng đắn của các cơ quan tư
pháp, đồng thời xâm phạm đến chế độ giam giữ của trại giam và tạm giữ.
Hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ là xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
8
quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Các hoạt động của các cơ quan tƣ pháp
cụ thể là các quyết định tạm giam, tạm giữ, quyết định thi hành án… cần phải
đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh. Đó chính là pháp luật đƣợc thực thi có hiệu
quả trên thực tế, thể hiện thái độ tôn trọng pháp luật và khả năng cải tạo của
ngƣời phạm tội. Hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ của ngƣời bị tạm giam, bị
giam, ngƣời bị tạm giữ gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan tƣ pháp
trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, làm cho hoạt động
này bị kéo dài về thời gian hoặc vụ án có thể không thực hiện đƣợc ở các giai
đoạn do ngƣời phạm tội bỏ trốn. Hành vi trốn này làm cho tính đúng đắn của
hoạt động tƣ pháp không đƣợc tuân thủ, tức là không thể tiến hành theo luật
định khi có hành vi phạm tội xảy ra. Nhƣ phải tạm đình chỉ khi đang điều tra,
truy tố hoặc không thể thi hành án khi tội phạm đã bỏ trốn, vì thế mục đích
trừng trị và giáo dục đối với kẻ phạm tội không thể thực hiện đƣợc.
Mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2009)
không đƣa ra định nghĩa pháp lý về Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi
đang bị dẫn giải, đang bị xét xử. Song, xuất phát từ khái niệm tội phạm quy
định tại Điều 8 Bộ luật hình sự: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội,
đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cánh cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới độc lập, chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Đồng thời, dựa vào khái
niệm Tội hoạt động tƣ pháp qui định tại Điều 292 và đặc điểm pháp lý của
Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử cho
phép ta đƣa ra khái niệm về tội trốn khỏi nơi giam, giữ nhƣ sau:
9
Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử
là hành vi bỏ trốn của người đang bị giam, giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị
xét xử thực hiện một cách cố ý xâm hại đến trật tự tư pháp, đến sự hoạt động
đúng đắn của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI
TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI,
ĐANG BỊ XÉT XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.2.1. Sự cần thiết
Trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nƣớc, hệ thống các cơ quan tƣ pháp
giữ một vị trí rất quan trọng. Hệ thống tƣ pháp trƣớc hết đƣợc coi là một trong
những yếu tố của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội; thứ hai hệ thống cơ
quan tƣ pháp đƣợc coi là một khâu trong cơ cấu thực thi quyền tƣ pháp bảo
đảm việc xét xử và và giải quyết vụ án đúng đắn; và cuối cùng hệ thống tƣ
pháp đƣợc coi là một hệ thống của cả quá trình áp dụng pháp luật từ phía cơ
quan Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, hệ thống cơ quan tƣ pháp có mối liên hệ bên trong
và bên ngoài của nó. Các mối liên hệ bên ngoài nhƣ mối liên hệ giữa hệ thống
tƣ pháp và các quá trình, các yếu tố kinh tế xã hội với các cơ quan tổ chức
trong hệ thống chính trị và mối liên hệ với chính đối tƣợng của nó là vi phạm
pháp luật và tội phạm. Còn các mối liên hệ bên trong của hệ thống này đƣợc
thể hiện giữa các bộ phận hợp thành của hệ thống và sự tƣơng tác giữa các
khâu trong hệ thống tƣ pháp với nhau. Trong hệ thống đó thì Toà án giữ vị trí
trung tâm, các khâu khác giữ vị trí tƣơng đối độc lập với Toà án. Đó là các cơ
quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các cơ quan tổ chức liên quan đến
hoạt động xét xử nhƣ luật sƣ, giám định tƣ pháp, hộ tịch, lý lịch tƣ pháp, công
chứng Nhà nƣớc[45].
Với vị trí quan trọng đặc biệt, hệ thống các cơ quan tƣ pháp nói
chung và Toà án nói riêng là công cụ đắc lực để bảo vệ chế độ XHCN, bảo
10
vệ công lý, giữ gìn trật tự kỷ cƣơng xã hội, bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc,
tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, điều kiện cần
thiết để bảo đảm việc duy trì công lý nói chung và hoạt động bình thƣờng
của các cơ quan Nhà nƣớc khác là phải đảm bảo cho sự hoạt động của cơ
quan tƣ pháp đƣợc bình thƣờng.
Do đó cần thiết phải đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự. Bộ luật hình sự
1985 và Bộ luật mới 1999 đều dành một chƣơng riêng quy định về nhóm tội
này, trong đó có Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải,
đang bị xét xử Theo đó, hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị
dẫn giải, đang bị xét xử xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều
tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án, xâm phạm đến anh ninh, an toàn, trật tự
nơi giam giữ cần phải đƣợc hình sự hóa trong Bộ luật hình sự.
Nhƣ đã nêu, hoạt động của cơ quan tƣ pháp (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án) có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động chung của Bộ máy Nhà
nƣớc. Nó không những góp phần bảo đảm cho hoạt động bình thƣờng của
toàn xã hội thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm, bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc và của công dân, mà còn góp phần vào việc đấu tranh phòng ngừa
tội phạm, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân. Nhƣ vậy đòi hỏi cần phải
có biện pháp bảo vệ hoạt động này.
1.2.2. Ý nghĩa
Việc quy định Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn
giải, đang bị xét xử trong Chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là điều
rất cần thiết và có ý nghĩa sau:
Thứ nhất, việc qui định tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang
bị dân giải, đang bị xét xử trƣớc hết bảo vệ đƣợc lợi ích của Nhà nƣớc, của tổ
chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đề cao tính nghiêm minh và
hiệu lực của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khi qui định Tội… nhà làm luật
11
hƣớng tới mục đích mọi hành vi phạm tội đều đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý
công minh theo đúng pháp luật, thông qua đó bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà
nƣớc, xã hội và công dân. Vì vậy, việc hiện diện của tội… trong BLHS đã
góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Thứ hai, việc qui định tội tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang
bị dân giải, đang bị xét xử bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của các cơ
quan tƣ pháp tạo điều kiện cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
đƣợc thực hiện một cách có hiệu quả. Là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với ngƣời có hành vi trốn khỏi nơi giam giữ. Pháp luật hình sự của Nhà
nƣớc ta quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự “Chỉ ngƣời nào phạm một
tội đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”
(Điều 2 Bộ luật hình sự) và mọi hành vi phạm tội phải đƣợc phát hiện kịp
thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Việc Bộ luật hình sự
quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự có ý nghĩa chính trị - xã hội cũng nhƣ
pháp lý quan trọng. Hành vi ở đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp
luật, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý và đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, tức là hành vi có đầy đủ các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm. Quy định đó là một đảm bảo quan trọng cho
nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, loại trừ trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc tƣơng tự đã từng
đƣợc áp dụng trong thực tiễn tƣ pháp hình sự nƣớc ta ở thời kỳ nhất định
trƣớc pháp điển hoá lần thứ nhất thông qua Bộ luật hình sự 1985. Lý luận
hình sự xã hội chủ nghĩa và pháp luật hình sự của nƣớc ta đều khẳng định vai
trò số một của hành vi trong việc quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự sau
đó mới đến vai trò của các đặc điểm của nhân thân ngƣời phạm tội. Khi tiếp
nhận hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, có lỗi với tƣ cách
là cơ sở của trách nhiệm hình sự, khoa học luật hình sự xây dựng nên cấu
thành tội phạm mà trong đó nhân thân chỉ phản ánh một số dấu hiệu nhận
12
thức cơ bản là năng lực trách nhiệm hình sự và lứa tuổi, trình độ văn hoá
Nhƣ vậy cơ sở của trách nhiệm hình sự là hành vi phạm tội xẩy ra trong thực
tế và hành vi đó có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã đƣợc pháp luật
hình sự quy định tức là có sự thống nhất giữa hai yếu tố: Cơ sở thực tế và cơ
sở pháp lý - giữa tội phạm xảy ra và cấu thành tội phạm. Đối với các tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp cơ sở của trách nhiệm hình sự chính là hành vi xâm
phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án và đƣợc Bộ luật hình sự quy định tại chƣơng XXII phần các tội phạm.
Giải quyết vấn đề cơ sở của trách nhiệm hình sự tức là trả lời câu hỏi
tại sao một ngƣời phải chịu trách nhiệm hình sự. Để làm sáng tỏ và lý giải cụ
thể cơ sở của trách nhiệm hình sự, về mặt lý luận cần xem xét vấn đề từ cái
góc độ dấu hiệu khách quan và chủ quan của cấu thành tội phạm. Vậy yếu tố
của hành vi xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc xác lập trên cơ sở khách quan
và chủ quan nào? Về mặt khách quan đó là những yếu tố liên quan đến hành
vi bên ngoài, hành động đó phải trông thấy đƣợc, nhận thấy đƣợc nhƣ khai
báo gian dối, cản trở thi hành án Còn về mặt chủ quan đó là hoạt động nội
tâm của con ngƣời.
Từ những tính chất trên có thể xác định ranh giới của hành vi pháp luật
hay không phải là hành vi pháp luật liên quan đến hoạt động tƣ pháp của Nhà
nƣớc. Cũng nhƣ những hành vi pháp luật khác, những hành vi xâm phạm hoạt
động tƣ pháp chỉ bị trừng trị về hình sự khi luật hình sự quy định. Việc xác
định nhƣ vậy sẽ biết đƣợc hành vi nào là tội phạm xâm phạm đến hoạt động
tƣ pháp cần phải trừng trị bằng luật hình sự.
Pháp luật chỉ ghi nhận những hành vi có khả năng biểu hiện ra bên
ngoài, tức là cách cƣ xử có ý thức của con ngƣời ra thế giới khách quan bằng
hành động hoặc không hành động. Tuy hành vi của con ngƣời do hoạt động
nội tại điều khiển nhƣng không phải mọi hoạt động tâm lý bên trong của họ
đều bộc lộ ra bên ngoài, và khi nó không bộc lộ ra bên ngoài thì pháp luật sẽ
13
không tác động đến, những tƣ tƣởng, suy nghĩ của con ngƣời dù nguy hiểm
đến đâu cũng không thể là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi
đƣợc quy định trong luật hình sự đƣợc thể hiện dƣới dạng hành động (là hình
thức xử sự tích cực của con ngƣời): nhƣ kết luận giám định sai sự thật, ra bản
án trái pháp luật Bên cạnh đó là trƣờng hợp không hành động, không hề
biểu hiện tâm lý ra bên ngoài bằng những hành vi, cử chỉ nhƣng luật hình sự
vẫn quy định là tội phạm nhƣ từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định,
không tố giác tội phạm
Vì vậy, việc qui định tội tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang
bị dân giải, đang bị xét xử có ý nghĩa là cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời có hành vi phạm tội, thông quá đó tính nghiêm minh
của pháp luật đƣợc tôn trọng, các quyền và lộ ích hợp pháp đƣợc bảo đảm.
Thứ ba, việc qui định tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị
dân giải, đang bị xét xử góp phần đề cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần
trách nhiệm của những cán bộ công tác trong các cơ quan tƣ pháp. Đồng thời,
giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự giác của công dân tham
gia vào công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Cùng với các biện
pháp khác, hỗ trợ cho các biện pháp khác trong công cuộc xây dựng con
ngƣời mới xã hội chủ nghĩa, thiết lập lại kỷ cƣơng xã hội.
1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỘI TRỐN KHỎI
NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT
XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.3.1. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải,
đang bị xét xử trƣớc pháp điển hóa
2.3.1.1. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ
luật Gia Long
Bộ luật Hồng Đức đƣợc biên soạn và ban hành dƣới triều Lê Thánh
tông niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) bao gồm 6 quyển, 722 điều, 13
14
chƣơng trong đó một chƣơng quy định chung về tội phạm và hình phạt. Đây
là bộ luật tƣơng đối hoàn chỉnh điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội lúc bấy
giờ gồm cả quan hệ hình sự, tố tụng hình sự cả quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình. Ngay từ thời kỳ này nhà nƣớc phong kiến Việt Nam đã có sự quan
tâm đối với các loại tội phạm về lĩnh vực tƣ pháp, đặc biệt là trong 722 điều
luật đã có đến 13 điều ở chƣơng 12 (chƣơng Bộ vong) quy định các vấn đề về
tội phạm bỏ trốn.
Trong bộ luật đã quy định rất chặt chẽ về loại tội phạm này, cụ thể là
với một hành vi của ngƣời phạm tội bỏ trốn thì bộ luật còn quy định các chế
tài khác có liên quan nhƣ Điều 651: “Ngƣời coi tù để mất tù thì biếm một tƣ,
cho hạn 100 ngày để bắt lại. Bắt không đƣớc thì bị tội nhẹ hơn tù trốn 2
bực… Quan án không biết hay biết thì bị phạt 30 quan tiền, quan án bực dƣới
bị biếm một tƣ. Nếu biết mà còn dung túng thì thêm một bực tội”[31]. Các
chế tài xử phạt đối với tƣớng lĩnh đi bắt kẻ chạy trốn không hoàn thành nhiệm
vụ Điều 645, quy định trách nhiệm bắt phạm nhân Điều 647, thôn xã chứa
chấp kẻ bỏ trốn Điêu 657, che giấu kẻ bỏ trốn Điều 654, xử phạt kẻ làm lộ tin
đuổi bắt phạm nhân để phạm nhân trốn thoát Điều 648. Điều 652 quy định về
chống lại ngục quan để trốn chạy, Điều 653 quy định những kẻ chạy ra nƣớc
ngoài thì xử tội phản nghịch, tịch biên gia sản, vợ con sung công.
Bộ luật Hồng Đức quy định rất rõ và rất nhiều hành vi bỏ trốn bị xử
phạt và hình phạt cũng rất nghiêm khắc Điều 650 “Những bị tội lƣu, đồ chƣa
đến hạn tha mà bỏ trốn thì đều xử chém. Ngƣời cai quản lơ đễng để tù đồ, lƣu
trốn thì thì xử nhẹ hơn ba bực tội tù trốn đó, quan ti, giám đƣơng bị xử biếm,
phạt. Cố ý thả cho tù trốn thì xử đồng tội với nó. Nếu bắt lại đƣợc thì đƣợc trừ
tội. Tù phạm trốn đến làng xã nào thì quan xã đó phải bắt nộp quan. Nếu dung
túng bao che thì xử tội nhƣ tù trốn đó, nhƣng nhẹ hơn một bực”.[31]
Nhƣ vậy, từ thế kỷ XV nhà nƣớc phong kiến đã rất quan tâm đến việc
15
cai quản tù nhân và nghiêm trị những hành vi xâm phạm đến việc quy định
của nhà nƣớc. Trong Bộ luật Hồng Đức quy định nhiều hành vi liên quan đến
hành vi bỏ trốn của phạm nhân. Những hành vi này đều bị xử lý về hình sự
nhƣ hành vi bỏ trốn của phạm nhân, hành vi bao che ngƣời bỏ trốn, không tố
giác ngƣời bỏ trốn, chứa chấp ngƣời bỏ trốn, hành vi cai tù để phạm nhân bỏ
trốn, hành vi truy bắt ngƣời bỏ trốn không đạt kết quả…
Các hành vi trên đều bị xử lý rất nghiêm khắc, các tù nhân bị lƣu hay
đồ mà bỏ trốn thì đều phải chịu chung một hình phạt nhƣ nhau là chém (tử
hình), các hành vi khác liên quan đến tù nhân bỏ trốn của những ngƣời coi
ngục, quan ty giám, ngƣời che giấu… đều bị coi là có tội và đều bị xử phạt.
Hoàng Việt Luật Lệ (hay còn gọi là Bộ Luật Gia Long) là một trong hai
Bộ luật lớn nhất của các triều đình phong kiến Việt Nam đƣợc ban hành vào
năm Gia Long thứ 12- Tây lịch 1813[30]. Bộ luật đƣợc xây dựng dựa trên sự
đúc kết của luật nhà Thanh (Trung Quốc) và Bộ luật Hồng Đức - gồm có 398
điều chia thành 22 quyển điều chỉnh hầu hét các quan hệ trong xã hội thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau. Các triều đại nhà Nguyễn sau này đều trị vì đất
nƣớc thông qua Bộ luật này.
Trong Bộ luật có các điều quy định về tội phạm bỏ trốn nhƣ: Quy định
các hành vi bỏ trốn của ngƣời là tội phạm, các hành vi liên quan đến tội phạm
bỏ trốn tại các điều:
- Điều 24 Ngƣời phạm tội cùng trốn (Mục về luật lệ)
- Điều 354 Tù trốn khỏi nhà giam và phản đối giam, đang trốn
- Điều 355 Tội lƣu đồ bỏ trốn
- Điều 357 Coi tù nhân không cẩn thận bị xẩy tù
- Điều 358 Biết tình mà chứa giấu tội nhân
- Điều 364 Cho ngƣời tù dao nhọn để họ trốn thoát
Trong Bộ luật Gia Long cũng quy định rất nhiều hành vi liên quan đến
16
việc bỏ trốn kể cả các hành vi bỏ trốn khi bị dẫn giải, khi đang hỏi cung…
Hình phạt cũng rất nghiêm khắc, đối với tù nhân bị lƣu, đồ bỏ trốn ở nơi làm
việc hoặc trong khi dẫn giải thì đều chung hình phạt: Mỗi ngày 50 roi, 30
ngày thêm bực tội. Tuy nhiên so với Điều 650 Bộ luật Hồng Đức thì nhẹ hơn
rất nhiều (hình phạt đối với tội lƣu, đồ mà bỏ trốn là chém). Đối với tù trốn
khỏi nơi giam, giữ, tù phá ngục chạy trốn thì những tù nhân phạm tội roi,
trƣợng, đồ, lƣu đang bị giam, giữ cầm mà trốn thoát nhà giam, giữ và tự mở
xiềng xích vƣợt ngục trốn thì tăng hai bực tội đã phạm. Nếu cùng bỏ trốn thì
mức phạt nặng hơn là phạt trăm trƣợng, lƣu ba ngàn dặm. Các hành vi phá
ngục của chạy trốn thì không phân biệt tội nặng nhẹ đều bị tội chém.
1.3.1.2. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong các bộ luật thời Pháp thuộc
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam đất nƣớc ta bị chia cắt
thành: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ ứng với mỗi vùng miền này thực dân Pháp
ban hành một bộ luật thay thế cho Bộ luật Gia Long đang áp dụng trên cả
nƣớc. Đó là Bộ luật hình An nam năm 1921 ở Bắc Kỳ, Bộ Hoàng Việt hình
luật năm 1933 ở Trung kỳ, Bộ luật Canh Cải năm 1912 ở Nam Kỳ. Các bộ
luật này cũng đều có các quy định về tội trốn khỏi nơi giam, giữ.
Theo Bộ Hoàng Việt hình luật áp dụng tại Trung kỳ thì tội trốn khỏi
nơi giam và hình phạt đƣợc quy định tại chƣơng 15: Tù phạm trốn tránh chức
trách ngƣời canh giữ… bao gồm 11 điều từ Điều 234 đến Điều 244 quy định
các hành vi bỏ trốn đƣợc coi là tội phạm. Nhƣ các quy định về tù nhân phạm
tội đại hình bỏ trốn (Điều 235), hành hung, dùng thủ đoạn, đƣợc giúp sức để
bỏ trốn (Điều 237), trốn khi đã thành án mà đang bị giam hoặc đang bị dẫn
giải (Điều 243), các quy định về hành vi cũng nhƣ các chế tài cũng rất rõ ràng
nhƣ quy định tại Điều 244: “… ngƣời phạm nào đã bị bắt hoặc bị giam mà
toan trốn đi hoặc đã trốn đi, chỉ riêng về việc trốn đi đó mà nghĩ xử nếu ngƣời
phạm ấy mà can cứu hoặc can án thuộc về tội trừng trị: mà toan trốn đi sẽ
17
phải tội phạt giam, giữ từ 1 đến 6 tháng, nếu trốn đi sẽ phải phạt giam từ 6
tháng đến 1 năm, nếu can cứu hoặc can án về tội đại hình mà toan trốn đi sẽ
phải phạt giam từ 2 đế 3 năm, đã trốn đi sẽ phải phạt giam từ 4 năm đến 5
năm. Khi nào trốn đi hoặc toan trốn đi mà có hành hung hoặc dùng cách leo
trèo xoi phá, nếu can cứu hoặc can án về tội trừng trị sẽ phải tội phạt giam từ
4 năm đến 5 năm, nếu can cứu hoặc can án thuộc về tội đại hình sẽ phải tội
khổ sai từ 5 năm đến 10 năm, trừ ra trong khi hành hung, ngƣời đào phạm lại
can một tội đại hình khác, thì sẽ theo tội nặng hơn mà nghĩ xử”. Điều luật quy
định tội phạm là những ngƣời bị bắt, bị giam, tạm giam, mà bỏ trốn và kể cả
trƣờng hợp chuẩn bị trốn cũng bị xử lý theo bộ luật này.
Nhƣ vậy, có thể thấy các triều đại phong kiến (kể cả thời kỳ thực dân
Pháp đô hộ nƣớc ta) đều quy định về tội trốn khỏi nơi giam với hình phạt rất
nghiêm khắc.
1.3.1.3. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ sau năm 1945 trong pháp luật
hình sự Việt Nam trước khi pháp điển hóa luật hình sự lần thứ nhất
Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời với Tuyên ngôn độc lập
ngày 02/9/1945, bộ máy Nhà nƣớc kiểu mới trong đó có các thiết chế tƣ pháp
đã đƣợc thiết lập. Để thực hiện quyền lực tƣ pháp, các cơ quan tƣ pháp đƣợc
thành lập nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ, Chính phủ lâm thời Việt Nam
dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 trong khi Nhà
nƣớc chƣa ban hành đƣợc pháp luật thống nhất trong cả nƣớc thì các
luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên nhƣ cũ,
nếu những luật lệ ấy không trái với chính thể dân chủ cộng hoà và không
phƣơng hại đến nền độc lập của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vì thế tội
trốn khỏi nơi giam, giữ đƣợc quy định trong các Bộ luật cũ vẫn tạm thời đƣợc
áp dụng. Đến ngày 10-7-1959 Toà án nhân dân tối cao ra chỉ thị số 772-
TATC cho các toà án đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của đế quốc và phong
18
kiến (trƣớc đấy Bộ Tƣ pháp cũng đã ra thông tƣ số 19-VHH/HS ngày 30-6-
1955 yêu cầu toà án không nên áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến).
Năm 1954 Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, ở
Miền Bắc Nhà nƣớc đã ban hành nhiều văn bản về pháp luật trong đó có các
văn bản về hình sự và tố tụng hình sự. Đó là các sắc luật về trừng trị tội phạm,
trong đó có quy định về tội trốn khỏi nơi giam, giữ. Sắc luật số 02/SLt ngày
18/6/1957 quy định các trƣờng hợp phạm pháp quả tang và các trƣờng hợp
khẩn cấp nhƣ sau:
Điều 1: Kịp thời giữ kẻ phạm pháp đã gây thiệt hại đến an toàn của Nhà
nƣớc, đến trật tự xã hội, đến tài sản của Nhà nƣớc, đến tính mệnh, tài sản của
nhân dân nay quy định những trƣờng hợp sau đây là phạm pháp quả tang mà
công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Uỷ ban hành chính, Toà án
nhân dân, đồn công an nơi gần nhất:
1. Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì
bị phát giác ngay;
2. Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp;
3. Đang bị giam, giữ mà lẩn trốn;
4. Đang có lệnh truy nã mà lẩn trốn.[36]
Theo Sắc luật này thì hành vi lẩn trốn của ngƣời đang bị giam cũng đã
quy định là phạm pháp hình sự mà bất cứ ai cũng có quyền bắt giữ và giải đến
Uỷ ban hành chính, Toà án nhân dân hoặc đồn công an nơi gần nhất. Chính phủ
cũng quy định tại Nghị định số 301-TTg ngày 10/7/1957 hƣớng dẫn thi hành
sắc luật số 103/Sl/005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thƣ tín của nhân dân nhƣ sau:
Điều 22: “Nếu trong khi thi hành việc bắt, tạm giam, giam, tạm giữ,
khám ngƣời, khám nhà ở mà gặp những trƣờng hợp cần thiết sau đây, ngƣời
thi hành nhiệm vụ có thể dùng vũ khí: