Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 105 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN QUỲNH TRANG





THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM







LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC













HÀ NỘI - 2008


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN QUỲNH TRANG





THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM








LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2008


3

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN QUỲNH TRANG






THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM




CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ : 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ









HÀ NỘI - 2008








1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI
PHIÊN TOÀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ. 10
1.1. KHÁI NIỆM THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ
THẨM; VỊ TRÍ, VAI TRÕ, Ý NGHĨA CỦA XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ. 10
1.1.1 KHÁI NIỆM THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH
SỰ SƠ THẨM. 10
1.1.2 VỊ TRÍ, VAI TRÕ VÀ Ý NGHĨA CỦA XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ. 19
1.1.2.1 VỊ TRÍ CỦA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ 19
1.1.2.2 VAI TRÕ, Ý NGHĨA CỦA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH
SỰ . 21
1.2 CÁC NGUYÊN TẮC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ. 23
1.2.1 NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ XÉT XỬ CÓ HỘI
THẨM NHÂN DÂN THAM GIA. 24
1.2.2 NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ
ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT . 24
1.2.3 NGUYÊN TẮC TOÀ ÁN XÉT XỬ TẬP THỂ VÀ QUYẾT
ĐỊNH THEO ĐA SỐ 25

1.2.4 NGUYÊN TẮC XÉT XỬ CÔNG KHAI. 26
1.2.5 NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC
TOÀ ÁN. 27
1.2.6 NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ
CÁO. 27
1.2.7. NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI
VÀ LIÊN TỤC. 28
1.3 THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ Ở MỘT SỐ NƢỚC
TRÊN THẾ GIỚI. 30
1.3.1. THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ CỦA
TOÀ ÁN HOA KỲ 30


2
1.3.2 THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ CỦA
TOÀ ÁN PHÁP 32
1.3.3. THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ CỦA
TOÀ ÁN AUSTRALIA. 33
1.3.4. THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI TOÀ BỒI THẨM Ở LIÊN
BANG NGA 35
1.3.5. BÀI HỌC RÖT RA TỪ KINH NGHIỆM CỦA CÁC
NƢỚC. 39
1.4. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY PHẠM VỀ
THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ TỪ NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI
BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003. 40
1.4.1 TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1959: 40
1.4.2 TỪ NĂM 1959 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LỤÂT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 1988: 41
1.4.3 TỪ NĂM 1988 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003: 43

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 44
CHƢƠNG 2:QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG. 46
2.1 CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM. 46
2.1.1 THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN TOÀ . 46
2.1.2. THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TOÀ . 49
2.1.2.1 TRÌNH TỰ XÉT HỎI. 50
2.1.2.2 KẾT THÖC XÉT HỎI. 55
2.1.3. THỦ TỤC TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ. 55
2.1.3.1 CÁC Ý KIẾN PHÁT BIỂU KHI TRANH LUẬN. 56
2.1.3.2. ĐỐI ĐÁP. 58
2.1.3.3 BỊ CÁO NÓI LỜI SAU CÙNG. 59
2.1.3.4. CÁC QUYẾT ĐỊNH TRONG PHẦN TRANH LUẬN. 59
2.1.4. THỦ TỤC NGHỊ ÁN. 61
2.1.5 . TUYÊN ÁN 62
2.2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003
VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM. 63


3
2.2.1 CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC. 63
2.2.2 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ
THẨM. 66
2.2.2.1 VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC BẮT ĐẦU
PHIÊN TOÀ. 66
2.2.2.2 VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TOÀ. 67

2.2.2.3 VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TRANH
LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ. 70
2.2.3.4 VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC NGHỊ ÁN VÀ
TUYÊN ÁN. 73
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 75
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH
SỰ. 76
3.1 NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC
TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM. 76
3.1.1 NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN. 76
3.1.2 NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN. 79
3.2 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THỦ TỤC
TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM. 80
3.2.1 YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ
THẨM. 80
3.2.2 CÁC KIẾN NGHỊ VỀ MẶT LẬP PHÁP. 84
3.2.2.1 HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ
TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ THẨM. 85
3.2.2.2 HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LIÊN
QUAN ĐẾN THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ
THẨM. 88
3.2.3 CÁC KIẾN NGHỊ VỀ THI HÀNH PHÁP LUẬT. 91
3.2.3.1 NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ,
PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN. 91


4

3.2.3.2 NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ,
PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CỦA KIỂM SÁT VIÊN. 93
3.2.3.3 PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ LUẬT SƢ CẢ VỀ SỐ LƢỢNG,
CHẤT LƢỢNG, NÂNG CAO VAI TRÕ CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ. 93
3.2.3.4. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO SỰ HIỂU BIẾT
TRONG NHÂN DÂN. 94
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 95
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 98
PHỤ LỤC 102


5
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
61


6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đều khẳng định
chức năng của Toà án là cơ quan xét xử của nhà nƣớc. Điều 127 Hiến pháp

hiện hành quy định: “Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phƣơng,
các toà án quân sự và các toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của
nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Toà án xét xử những vụ án hình
sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết
những việc khác theo quy định của pháp luật.
Chức năng xét xử vụ án hình sự của Toà án đƣợc thể hiện rõ ràng, tập
trung nhất tại phiên toà. Thông qua việc xét xử trực tiếp, công khai tại phiên
toà, Toà án ra bản án, quyết định giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án hình sự.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn
khác nhau từ giai đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử đến giai đoạn thi
hành bản án và do nhiều cơ quan tiến hành. Các giai đoạn này đều có một vị
trí, vai trò nhất định trong việc tìm ra sự thật của vụ án. Trong đó, hoạt động
xét xử của Toà án là rất quan trọng, đƣợc coi là trung tâm của quá trình tố tụng
hình sự. Tất cả các hoạt động khởi tố, điều tra nhằm phục vụ cho việc xét xử
của Toà án và đều đƣợc thể hiện một cách công khai tại phiên toà.
Một phiên toà nghiêm trang, đƣợc tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục
pháp luật quy định sẽ bảo đảm cho công tác xét xử đƣợc khách quan, chính
xác, thể hiện đƣợc vai trò, vị thế của toà án “Nhân danh nhà nƣớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” thực hiện chức năng xét xử nhằm bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm , không làm oan ngƣời vô tội.
Thực tiễn cho thấy mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự mới ban hành năm
2003 đã có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng về thủ tục tố tụng tại phiên toà
hình sự sơ thẩm so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, song vẫn còn nhiều


7
điểm bất cập, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ pháp hiện
nay. Hiện tƣợng vi phạm các quy định về thủ tục tố tụng vẫn xảy ra ở nhiều
phiên toà gây thiệt hại đến quyền , lợi ích của những ngƣời tham gia tố tụng,

ảnh hƣởng đến kết quả xét xử.
Một trong những nhiệm vụ của công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay theo
tinh thần của Nghị quyết số 49 ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020” đó là phải “Đổi mới việc tổ chức
phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến
hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng theo hƣớng bảo đảm tính công khai,
dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lƣợng tại các phiên toà xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp”.
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc cải cách tƣ pháp và thực trạng
tổ chức, tiến hành phiên toà hình sự, việc nghiên cứu đề tài :” thủ tục tố tụng
tại phiên toà sơ thẩm hình sự” là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phƣơng
diện lý luận cũng nhƣ phƣơng diện thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
của công tác xét xử, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của ngƣời tiến hành tố tụng
cũng nhƣ ngƣời tham gia tố tụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Toà án nhân dân là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nƣớc ở
nƣớc ta. Do đó, có rất nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả đã quan tâm, nghiên
cứu về vấn đề này. Song các tác giả chủ yếu nghiên cứu dƣới góc độ về thẩm
quyền xét xử của toà án, về vai trò, vị trí của toà án trong bộ máy nhà nƣớc.
Đối với vấn đề về thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm, hiện nay
mới chỉ có công trình nghiên cứu cấp bộ của Toà án nhân dân tối cao về “Vấn
đề tổ chức phiên toà và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại
phiên toà”. Công trình này đƣợc hoàn thành vào năm 1999, tức là trƣớc khi
ban hành Bộ luật tố tụng hình sự mới năm 2003, do đó ít nhiều đã không còn
có ý nghĩa thực tiễn.


8
Liên quan đến vấn đề này cũng có một số bài viết bao gồm: “ vai trò của
hội đồng xét xử trong việc tranh tụng tại phiên toà” của Thạc sỹ Đinh Văn Quế

- Chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao (Tạp chí Toà án nhân dân số
1 tháng 1/2004); vấn đề nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại phiên toà hình sự
của Ngô Hồng Phúc - Chánh toà hình sự- Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây (Tạp
chí Toà án nhân dân số 2/2003); về việc thực hiện thủ tục xét hỏi kết hợp với
tranh tụng tại phiên toà của Huỳnh Sáng- Chánh án toà án nhân dân tỉnh
Khánh Hoà (Tạp chí Toà án nhân dân số 3 tháng 2/2004 ); thủ tục xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế
(Luận văn thạc sỹ luật học của Tôn Thất Cẩm Đoàn năm 2003).
Các bài viết của các tác giả nói trên mới chỉ đề cập đến một giai đoạn của
quá trình xét xử vụ án hình sự. Chƣa có một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống về vấn đề thực hiện các quy định pháp luật tố tụng tại
phiên toà hình sự sơ thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự mới cũng nhƣ yêu cầu
của công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay bao gồm các giai đoạn xét hỏi, tranh
luận, nghị án, tuyên án.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt đƣợc những mục đích chính sau đây:
- Thông qua việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn
đề lý luận về thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm nhằm đƣa ra khái
niệm , lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm tố tụng; khái quát
các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này cũng nhƣ pháp luật một
số nƣớc trên thế giới.
- Đánh giá một cách có hệ thống và tƣơng đối toàn diện về thực trạng áp
dụng các quy định về thủ tục tố tụng hình sự tại phiên toà sơ thẩm ở nƣớc ta
hiện nay.


9
- Thông qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng, đƣa ra những kiến nghị giải
pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm hoàn thiện các thủ tục tố tụng tại phiên toà
hình sự sơ thẩm phục vụ nhiệm vụ cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Đề tài tập trung nghiên cứu về thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự sơ
thẩm, thực tiễn áp dụng các quy định đó và các giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn đƣợc hoàn thành trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Luận văn đã sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ phƣơng pháp
phân tích tổng hợp, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng
pháp thống kê, phƣơng pháp lý luận kết hợp với thực tiễn….
5. Cái mới về mặt khoa học:
- Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống, tƣơng đối toàn diện về cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc thực hiện thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự sơ
thẩm.
- Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay, đƣa ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực này.
Bố cục của luận văn gồm 03 chƣơng:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thủ tục tố tụng tại phiên
toà xét xử vụ án hình sự.
- Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và thủ tục
tố tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp dụng.


10
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục tố tụng
tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN
TOÀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ.

1.1. KHÁI NIỆM THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ HÌNH SỰ SƠ
THẨM; VỊ TRÍ, VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
1.1.1 Khái niệm thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm.
Trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đem lại sự bình ổn cho
đất nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc ta đã sử dụng nhiều hình thức, biện pháp, công
cụ khác nhau. Một trong những biện pháp tƣơng đối hiệu quả có tác dụng răn
đe mạnh mẽ đó là việc ban hành các văn bản pháp luật quan trọng nhƣ đề ra
các quy định về tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự áp dụng đối với
những hành vi vi phạm và ngƣời vi phạm pháp luật và Bộ luật Tố tụng hình
sự quy định trình tự thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự.
Thực hiện nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa đã đƣợc ghi nhận
trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992, bảo đảm “Mọi hành vi phạm tội phải
được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”
(Điều 3 BLHS năm 1999). Bộ luật tố tụng hình sự đã khẳng định :”Mọi hoạt
động tố tụng hình sự phải tiến hành theo quy định của Bộ luật này”. Nhƣ vậy
là để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, đúng pháp luật
bắt buộc phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và do nhiều cơ quan khác
nhau tiến hành. Tất cả các hoạt động tố tụng của các cơ quan này đều phải
đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự
phải đƣợc tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật đã quy định.


11
Theo từ điển tiếng Việt năm 2004 của Viện ngôn ngữ học, thủ tục đƣợc
hiểu là “những việc cụ thể phải làm theo một trình tự quy định để tiến hành
một công việc có tính chất chính thức“.[48]
Tố tụng là việc “Tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án hình sự “.

Phiên toà là “ Lần họp để xét xử cuả Toà án”.
Sơ thẩm là “Xét xử một vụ án với tư cách là Toà án ở cấp xử thấp
nhất”.
Hoạt động xét xử sơ thẩm là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong tố tụng
hình sự. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nƣớc, xã hội cũng nhƣ quyền
lợi chính đáng của công dân việc xét xử vụ án hình sự có thể phải trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau. Thông thƣờng, xét xử sơ thẩm là bắt buộc đối với
mọi vụ án hình sự. Trên cơ sở Cáo trạng của Viện kiểm sát chuyển sang, Toà
án cấp sơ thẩm lần đầu tiên đƣa vụ án ra xem xét công khai tại phiên toà.
Trong trƣờng hợp có kháng cáo, kháng nghị, vụ án có thể đƣợc đƣa ra xét xử
phúc thẩm và khi có một số điều kiện nhất định, vụ án có thể đƣợc xem xét
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Dù ở giai đoạn nào thì việc xét xử
cũng phải tuân theo một thủ tục nhất định đã đƣợc quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đƣợc tiến hành sau khi Toà án nhận đƣợc
bản Cáo trạng và hồ sơ vụ án do Viện Kiểm sát chuyển sang. Pháp luật tố
tụng hình sự thƣờng quy định một khoảng thời gian nhất định cho Toà án
nghiên cứu hồ sơ vụ án và chuẩn bị các công việc cần thiết cho việc mở phiên
toà sơ thẩm. Trƣớc hết, Toà án phải xác định vụ án có thuộc thẩm quyền xét
xử của mình hay không. Nếu qua nghiên cứu thấy không thuộc thẩm quyền,
Thẩm phán đƣợc phân công chủ toạ phiên toà sẽ đề nghị Chánh án Toà án
chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền. Trong trƣờng hợp vụ án thuộc thẩm
quyền, Toà án sẽ tiếp tục tiến hành các công việc khác và có thể ra một trong
các quyết định bao gồm quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định


12
tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định đƣa vụ án ra
xét xử.
Quá trình xét xử vụ án hình sự phải có sự tham gia của những ngƣời

tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng. Trong số những ngƣời này có
những ngƣời mà sự có mặt của họ là bắt buộc, không thể thiếu nhƣng cũng có
những ngƣời họ có mặt tại phiên toà hay không cũng không ảnh hƣởng nhiều
đến việc giải quyết vụ án. Tính chất bắt buộc hay không bắt buộc đối với việc
tham gia phiên toà cuả những ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng
có sự khác nhau giữa các nƣớc theo mô hình tố tụng tranh tụng và các nƣớc
theo mô hình tố tụng thẩm vấn. Cần phải khẳng định rằng mô hình tố tụng của
Việt Nam là kiểu tố tụng thẩm vấn có chứa đựng một số nội dung tranh tụng.
Do đó, BLTTHS của chúng ta cũng có quy định về những ngƣời cần có mặt
tại phiên toà khác với các nƣớc khác. BLTTHS năm 2003 quy định thành
phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong
trƣờng hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có
thể gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm. Các thành viên của Hội đồng xét xử
phải có mặt từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên toà. Nếu có thẩm phán
hoặc Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử đƣợc thì phải có Thẩm phán,
Hội thẩm dự khuyết thay thế. Những ngƣời này cũng phải có mặt tại phiên toà
từ đầu thì mới đƣợc tham gia xét xử. Trong trƣờng hợp không có thẩm phán,
Hội thẩm dự khuyết thay thế hoặc phải thay đổi chủ toạ phiên toà thì Toà án
phải hoãn phiên toà và vụ án phải đƣợc xét xử lại từ đầu. Quy định này nhằm
bảo đảm cho thành phần Hội đồng xét xử phải có mặt xuyên suốt trong quá
trình giải quyết vụ án, có nhƣ vậy mới nắm bắt đƣợc toàn bộ diễn biến phiên
toà, từ đó có đƣợc các quyết định đúng đắn.
Sự tham gia của Kiểm sát viên trong phiên toà hình sự sơ thẩm cũng
mang tính bắt buộc. Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định:
“Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân
dân có những quyền hạn sau đây: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong


13
hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của

những người tham gia tố tụng; kiểm sảt các bản án, quyết định của Toà án
nhân dân theo quy định của pháp luật…”. Nhƣ vậy, có thể thấy bên cạnh
quyền công tố, truy tố ngƣời phạm tội trƣớc Toà án, Kiểm sát viên tham gia
phiên toà còn có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, chấp hành các
thủ tục tố tụng tại phiên toà của ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố
tụng nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng cũng nhƣ
đảm bảo cho việc xét xử đƣợc tiến hành đúng pháp luật. Do đó, BLTTHS
năm 2003 quy định kiểm sát viên cùng cấp phải tham gia phiên toà. Nếu vụ
án có tính chất phức tạp, nghiêm trọng thì có thể có hai kiểm sát viên cùng
tham gia. Trong trƣờng hợp kiểm sát viên vắng mặt hoặc bị thay đổi thì Hội
đồng xét xử hoãn phiên toà và báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Sự có mặt của bị cáo tại phiên toà vừa là nghĩa vụ đồng thời cũng là
quyền. Họ có nghĩa vụ tham gia phiên toà vì họ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Tuy nhiên, việc họ có mặt tại phiên toà cũng là quyền để họ có thể tự bào
chữa cho mình trƣớc Toà. Vì vậy, Toà án phải triệu tập bị cáo đến phiên toà.
Nếu bị cáo không có mặt tại phiên toà thì chủ toạ phiên toà phải kiểm tra xem
họ đã nhận đƣợc giấy triệu tập hay chƣa?. Trƣờng hợp họ không đƣợc giao
giấy triệu tập hợp lệ và họ có yêu cầu thì Toà án phải hoãn phiên toà. Nếu bị
cáo vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải. Tuy nhiên, Toà án
cũng có thể xử vắng mặt bị cáo trong trƣờng hợp bị cáo trốn tránh và việc truy
nã không có kết quả; bị cáo đang ở nƣớc ngoài và không thể triệu tập đến
phiên toà; bị cáo đã đƣợc giao giấy triệu tập hợp lệ nhƣng vẫn vắng mặt mà
sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử.
Ngƣời bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên toà để làm nhiệm vụ bào
chữa cho bị cáo, giúp đỡ bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng mà
pháp luật quy định. Sự có mặt của ngƣời bào chữa sẽ đảm bảo tính dân chủ
trong hoạt động xét xử, đảm bảo cho việc tranh tụng công khai trƣớc phiên
toà. Tuy nhiên, sự có mặt của ngƣời bào chữa không phải là bắt buộc đối với



14
mọi vụ án. Chỉ trong trƣờng hợp bị cáo là ngƣời chƣa thành niên hoặc có
nhƣợc điểm về thể chất, tâm thần hoặc trƣờng hợp bị cáo bị truy tố đƣa ra xét
xử về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình đƣợc quy định tại BLHS năm
1999 thì bắt buộc phải có sự tham gia của ngƣòi bào chữa. Nếu ngƣời bào
chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Tuy nhiên ngay cả
trong trƣờng hợp này nếu bị cáo là ngƣời chƣa thành niên hoặc có nhƣợc
điểm về thể chất, tâm thần, nếu cả bị cáo và ngƣời đại diện hợp pháp của họ
đều từ chối ngƣời bào chữa thì Toà án vẫn tiến hành xét xử không có ngƣời
bào chữa. Việc từ chối nhờ ngƣời bào chữa phải đƣợc ghi vào biên bản phiên
toà. Nếu chỉ có bị cáo hoặc chỉ có ngƣời đại diện hợp pháp của họ từ chối
ngƣời bào chữa thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án có sự tham gia của
ngƣời bào chữa đã đƣợc cử. Còn trong các trƣờng hợp khác, ngƣời bào chữa
có thể gửi trƣớc bản bào chữa cho Toà án và dù họ có vắng mặt thì Toà án
vẫn mở phiên toà xét xử. Tuy nhiên, nếu ngƣời bào chữa có lý do chính đáng
nhƣ bị ốm, thiên tai, khó khăn về tàu xe…mà không thể có mặt tại phiên toà
thì có quyền yêu cầu Toà án hoãn phiên toà. Tuỳ từng vụ việc cụ thể, Toà án
sẽ quyết định có hoãn phiên toà hay không. [12]
Pháp luật tố tụng hình sự quy định sự tham gia của ngƣời bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hoặc những ngƣời đại diện hợp pháp của họ nhằm bảo đảm cho những
ngƣời này có điều kiện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy
nhiên, trong trƣờng hợp họ vắng mặt tại phiên toà thì tuỳ từng trƣờng hợp cụ
thể, Hội đồng xét xử có thể quyết định vẫn tiến hành xét xử nếu sự vắng mặt
của ngƣời đó không trở ngại cho việc xét xử, họ đã có lời khai tại cơ quan
điều tra…Hội đồng xét xử cũng có thể quyết định hoãn phiên toà nếu ngƣời bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc những ngƣời đại diện hợp pháp của họ vắng mặt mà gây trở
ngại cho việc xét xử, lời khai của họ là quan trọng để giải quyết chính xác



15
đƣợc vấn đề bồi thƣờng thiệt hại và việc bồi thƣờng đó không thể tách thành
vụ án dân sự thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.
Ngƣời làm chứng phải có mặt tại phiên toà nhằm làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án, bảo đảm cho các chứng cứ đƣợc kiểm tra, xác minh trực tiếp,
công khai. Sự có mặt của ngƣời làm chứng tại phiên toà có vai trò rất quan
trọng bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, nguyên tắc xác
định sự thật khách quan của vụ án. Do đó, nếu ngƣời làm chứng về những vấn
đề quan trọng vắng mặt thì tuỳ từng trƣờng hợp Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử. Trong thực tế, nếu vắng mặt ngƣời
làm chứng thì Toà án có thể công bố những lời khai của họ tại cơ quan điều
tra nếu lời khai này rõ ràng và Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Ngƣời giám định có nghĩa vụ tham gia phiên toà khi đƣợc Toà án triệu
tập. Nhƣ vậy, sự tham gia phiên toà của ngƣời giám định không phải là bắt
buộc đối với mọi vụ án mà chỉ khi có yêu cầu của Toà án. Thông thƣờng, Toà
án triệu tập ngƣời giám định khi kết luận giám định chƣa rõ ràng cần có sự
giải thích thêm hoặc kết luận giám định mâu thuẫn với các chứng cứ khác có
trong vụ án…Khi Toà án đã triệu tập mà ngƣời giám định vắng mặt thì tuỳ
từng trƣờng hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến
hành xét xử.
Tại phiên toà sơ thẩm, Thẩm phán đƣợc phân công chủ toạ phiên toà có
nhiệm vụ điều khiển việc xét xử tại phiên toà lần lƣợt theo các thủ tục sau: thủ
tục bắt đầu phiên toà, thủ tục xét hỏi tại phiên toà, thủ tục tranh luận tại phiên
toà, thủ tục nghị án và thủ tục tuyên án. Hầu hết các vụ án sự đều phải trải
qua tất cả các thủ tục trên, chỉ trừ một số trƣờng hợp đặc biệt đƣợc áp dụng
thủ tục rút gọn. Kết quả cuối cùng của việc xét xử tại phiên toà là Toà án ra
bản án, quyết định tuyên bị cáo có phạm tội hay không, hình phạt và các biện
pháp tƣ pháp khác đƣợc áp dụng đối với bị cáo. Có thể nói, bản án là văn bản
tố tụng có ý nghĩa chính trị, xã hội pháp lý quan trọng, làm phát sinh hiệu lực

thi hành trên thực tế và phải đƣợc mọi cơ quan, tổ chức và công dân tôn trọng.


16
Cá nhân, cơ quan tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phảI
chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án. Do đó, bản án phải
đƣợc Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua tại phòng nghị án sau khi đã xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ cũng nhƣ nghe ý kiến của ngƣời tham gia
tố tụng, của kiểm sát viên.
Phiên toà sơ thẩm ở các nƣớc theo mô hình tố tụng tranh tụng có nhiều
điểm khác so với các nƣớc theo mô hình tố tụng thẩm vấn. Tại các nƣớc theo
mô hình tố tụng tranh tụng, sự tham gia của luật sƣ vào mỗi phiên toà là bắt
buộc bởi lẽ trong quá trình giải quyết vụ án theo kiểu tố tụng tranh tụng,
quyền lực đƣợc san sẻ cho Công tố viên - đại diện cho bên buộc tội và Luật sƣ
- đại diện cho bên gỡ tội. Tố tụng tranh tụng đề cao vai trò của luật sƣ và việc
tranh luận giữa luật sƣ và công tố viên là hoạt động chủ yếu, là tâm điểm của
một phiên toà. Phiên toà xét xử chính là giai đoạn điều tra vụ án. Do đó,
Thẩm phán không đƣợc nghiên cứu hồ sơ vụ án trƣớc mà mọi chứng cứ, lập
luận đều đƣợc đƣa ra tại phiên toà. Thẩm phán sẽ ra phán quyết trên cơ sở
chứng cứ và các lý lẽ mà các bên đƣa ra tại phiên toà. Phiên toà sơ thẩm do đó
cũng kéo dài hơn so với phiên toà sơ thẩm theo mô hình tố tụng thẩm vấn bởi
thực chất phiên toà chính là hoạt động điều tra công khai và chứng minh của
các bên. Trong khi phiên toà sơ thẩm theo mô hình tố tụng thẩm vấn Thẩm
phán đƣợc quyền nghiên cứu hồ sơ từ trƣớc trên cơ sở kết luận điều tra của
Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát.
Phiên toà sơ thẩm cũng có những nét khác biệt so với phiên toà phúc
thẩm. Để bảo đảm tính dân chủ, nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho
Toà án cấp trên sửa chữa, khắc phục những sai lầm nếu có của Toà án cấp
dƣới, pháp luật tố tụng hình sự quy định sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo, ngƣời
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên

quan đến vụ án và ngƣời đại diện hợp pháp của họ, ngƣời bào chữa có quyền
kháng cáo. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện kiểm sát cấp trên có quyền
kháng nghị đối với bản án hoặc một phần bản án đó. Trên cơ sở đó, Toà án


17
cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị. Khác với phiên toà sơ thẩm xem xét toàn bộ vụ án, phiên
toà phúc thẩm chỉ xem xét phần bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị
và chỉ xem xét toàn bộ vụ án nếu xét thấy cần thiết. Do mục đích của cấp xét
xử phúc thẩm là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án sơ thẩm
nên các thành viên của Hội đồng xét xử phải có trình độ chuyên môn cao.
BLTTHS năm 2003 quy định thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm phải
gồm ba thẩm phán, trong trƣờng hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm.
Giống nhƣ phiên toà sơ thẩm sự tham gia của kiểm sát viên cùng cấp là bắt
buộc. Ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự, ngƣời kháng
cáo, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị
đƣợc triệu tập tham gia phiên toà. Nếu họ vắng mặt mà có lý do chính đáng
thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử nhƣng không đƣợc ra bản án,
quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đƣơng sự vắng mặt, trong các trƣờng
hợp khác thì phải hoãn phiên toà. Còn những ngƣời khác nhƣ ngƣời không có
kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, ngƣời làm chứng…sự tham gia
phiên toà của họ do Toà án cấp phúc thẩm quyết định, nếu thấy sự có mặt của
họ là cần thiết. Phiên toà phúc thẩm cũng đƣợc tiến hành nhƣ phiên toà sơ
thẩm tức là cũng bao gồm thủ tục bắt đầu phiên toà, thủ tục xét hỏi tại phiên
toà, thủ tục nghị án, thủ tục tuyên án. Tuy nhiên, ở phần thủ tục bắt đầu phiên
toà, Toà cấp phúc thẩm chỉ kiểm tra căn cƣớc của bị cáo có kháng cáo hoặc bị
kháng cáo, kháng nghị. Trƣớc khi tiến hành xét hỏi, kiểm sát viên không đọc
bản Cáo trạng mà một thành viên Hội đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung

vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị. Trong
phần xét hỏi chủ yếu tập trung vào làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến nội
dung kháng cáo, kháng nghị. Tại phần tranh luận, kiểm sát viên phát biểu
quan điểm của Viện kiểm sát về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án sơ
thẩm và về hƣớng giải quyết vụ án.


18
Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm,
bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, nếu những bản án này bị
phát hiện có vi phạm pháp luật nhƣ việc điều tra xét hỏi tại phiên toà phiến
diện hoặc không đầy đủ, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sự vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố , xét xử…thì Chánh án Toà án hoặc Viện
trƣởng Viện kiểm sát từ cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên có quyền kháng
nghị. Khi đó, Toà án có thẩm quyền sẽ mở phiên toà giám đốc thẩm. Khác với
phiên toà sơ thẩm, tại phiên toà giám đốc thẩm, Toà án thƣờng không bắt
buộc phải triệu tập những ngƣời tham gia tố tụng đến phiên toà mà chỉ khi xét
thấy cần thiết. Phiên toà giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện trƣởng
Viện kiểm sát cùng cấp. Phiên toà giám đốc thẩm không tiến hành tại phòng
xử án nhƣ đối với phiên toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm mà đƣợc tiến
hành nhƣ một phiên họp. Do đó, thủ tục tố tụng của phiên toà giám đốc thẩm
cũng có những điểm khác so với phiên toà sơ thẩm, tức là phiên toà giám đốc
thẩm không chia thành các thủ tục bắt đầu phiên toà, thủ tục xét hỏi, thủ tục
tranh luận, thủ tục nghị án và tuyên án. Phiên toà giám đốc thẩm đƣợc tiến
hành theo trình tự sau: chủ toạ phiên toà tuyên bố bắt đầu phiên toà vầ vụ án
nào đƣợc đƣa ra xét xử. Sau đó, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm
trình bày tóm tắt nội dung vụ án, nội dung kháng nghị. Các thành viên khác
của Hội đồng giám đốc thẩm phát biểu ý kiến. Trong trƣờng hợp ngƣời bị kết
án, ngƣời bào chữa, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng

nghị đƣợc triệu tập thì những ngƣời này đƣợc trình bày ý kiến của mình. Đại
diện viện kiểm sát phát biểu kết luận về nội dung kháng nghị và hƣớng giải
quyết vụ án. Cuối cùng, các thành viên Hội đồng Giám đốc thẩm thảo luận về
vụ án và biểu quyết để ra quyết định.
Cũng nhƣ Giám đốc thẩm, tái thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố
tụng hình sự nhằm sửa chữa những sai lầm trong trƣờng hợp bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng nghị vì có những tình tiết


19
mới đƣợc phát hiện có thể làm thay đổi nội dung của bản án, quyết định mà
Toà án đã không biết đƣợc khi ra bản án, quyết định đó. Việc xét xử theo thủ
tục tái thẩm đƣợc tiến hành tƣơng tự nhƣ thủ tục giám đốc thẩm.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu, thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự
sơ thẩm là quá trình giải quyết một vụ án theo một trình tự nhất định đƣợc
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự do Toà án có thẩm quyền sau khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án , lần đầu tiên đƣa vụ án hình sự ra xem xét công khai
tại phiên toà nhằm đƣa ra bản án, quyết định xét xử đúng ngƣời, đúng tội.
1.1.2 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của xét xử sơ thẩm trong vụ án hình sự.
1.1.2.1 Vị trí của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong tố tụng hình sự
Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã ghi nhận:“Mọi người
đều được hưởng quyền bình đẳng, được xem xét công bằng và công
khai bởi một Toà án độc lập và không thiên vị trong việc quyết định các
quyền và nghĩa vụ của họ“. Khẳng định quyền này, BLTTHS Việt Nam quy
định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật “. (Điều 9 BLTTHS năm 2003).
Nhƣ đã đề cập ở phần 1.1.1, quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và cuối cùng là giai đoạn thi hành án.
* Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố

tụng hình sự, trong đó các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có
dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
* Giai đoạn điều tra vụ án hình sự: là giai đoạn tiếp theo sau giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự trong đó cơ quan điều tra và cơ quan khác đƣợc giao
đƣợc giao một số hoạt động điều tra đƣợc sử dụng các biện pháp do BLTTHS
quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tộivà
những vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án.


20
* Giai đoạn truy tố: Khi đã có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và
ngƣời phạm tội, cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và quyết định đề
nghị truy tố bị can trƣớc Toà án. Quyết định đề nghị truy tố bị can trƣớc Toà
án đƣợc chuyển đến cho Viện kiểm sát cùng toàn bộ hồ sơ vụ án. Viện kiểm
sát nghiên cứu hồ sơ thấy đủ cơ sở thì quyết định truy tố ngƣời phạm tội ra
trƣớc Toà án bằng bản cáo trạng và gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố
đến Toà án.
* Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: là giai đoạn tiếp theo của quá
trình tố tụng, trong đó Toà án có thẩm quyền lần đầu tiên đƣa vụ án hình sự ra
xem xét công khai trƣớc phiên toà nhằm ra bản án, quyết định phù hợp.
* Giai đoạn xét xử phúc thẩm: là giai đoạn tiếp theo khi bản án, quyết
định cuả Toà án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị, Toà án cấp trên trực tiếp sẽ mở phiên toà xem xét lại bản án, quyết định
đó.
* Giai đoạn thi hành án: là một giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự
trong đó các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành các công việc mà
BLTTHS quy định nhằm đƣa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Toà án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế.
Nhƣ vậy, có thể thấy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đƣợc xác định nhƣ

là một công đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhƣng là một công
đoạn đặc biệt quan trọng. Việc xét xử sơ thẩm chỉ đƣợc tiến hành khi cơ quan
điều tra đã điều tra vụ án, Viện kiểm sát đã truy tố bị can ra trƣớc Toà bằng
một bản Cáo trạng. Trên cơ sở hồ sơ vụ án và quyết định truy tố do Viện kiểm
sát chuyển sang, Toà án lần đầu tiên sẽ nghiên cứu để quyết định có đƣa vụ án
ra xét xử hay không? Nhƣ vậy, vụ án hình sự lần đầu tiên sẽ đƣợc đƣa ra xem
xét công khai tại phiên toà. Tất cả các chứng cứ thu thập đƣợc trong giai đoạn
điều tra cùng với các chứng cứ mới đƣợc đƣa ra tại phiên toà sẽ đƣợc kiểm
tra, xem xét một cách khách quan, toàn diện, trực tiếp, công khai tại phiên toà.
Nếu nhƣ bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, bản cáo trạng của Viện


21
kiểm sát chỉ là những kết luận sơ bộ về vụ án thì bản án của Toà án mới là kết
luận chính thức và công khai về việc bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội
thì bị cáo phạm tội gì , theo quy định tại điều nào, khoản nào của Bộ luật hình
sự và mức hình phạt cụ thể đƣợc áp dụng đối với bị cáo.
Với vị trí là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình
sự, giai đoạn xét xử có mối quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng khác.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, là cơ sở để
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo, cụ thể là
cơ sở để cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra, viện kiểm sát ra
quyết định truy tố và có nhƣ vậy, Toà án mới tiến hành xét xử đƣợc vụ án.
Không có các giai đoạn này, Toà án không thể đơn phƣơng đƣa vụ án ra xét
xử đƣợc. Tuy nhiên, các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, điều tra chỉ nhằm
thu thập chứng cứ phục vụ cho việc truy tố, xét xử của Toà án. Giai đoạn thi
hành án chỉ có thể đƣợc thực hiện khi Toà án đã ra bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật.
1.1.2.2 Vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .
Trong tố tụng hình sự, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có vai trò đặc biệt

quan trọng mang tính quyết định trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan
vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích chính
đáng của công dân.
Với ý nghĩa là một cuộc điều tra công khai, tại phiên toà sơ thẩm Toà
án sẽ xem xét một cách toàn diện các chứng cứ đã đƣợc thu thập đƣợc trong
giai đoạn điều tra. Toà án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ đã
đƣợc thu thập và kiểm tra công khai tại phiên toà. Trong thực tiễn không ít
trƣờng hợp sau khi xét hỏi và tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã có
những quyết định khác với đề nghị của Viện kiểm sát trong Cáo trạng nhƣ
tuyên bố bị cáo không có tội, thay đổi tội danh theo hƣớng nhẹ hơn Bên
cạnh việc kiểm tra tính hợp pháp, tính khách quan, tính liên quan của các


22
chứng cứ đã có ở giai đoạn điều tra, Toà án cũng xem xét các chứng cứ mới
đƣợc phát hiện trong quá trình xét xử. Điều này sẽ góp phần làm sáng tỏ vụ
án, khắc phục những thiếu sót, sai lầm nếu có trong giai đoạn điều tra.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
các quyền lợi ích hợp pháp và quyền tự do dân chủ của công dân. Tại phiên
toà, những ngƣời tham gia tố tụng đƣợc bình đẳng với nhau và bình đẳng cả
với đại diện Viện kiểm sát trong việc xuất trình các chứng cứ, tranh luận và
đƣa ra các yêu cầu nhƣ đề nghị thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng, yêu cầu triệu
tập thêm nhân chứng. Ngƣời tham gia tố tụng đƣợc trực tiếp nghe lời khai, lời
trình bày của những ngƣời tham gia tố tụng khác, đƣợc đối chất và tự mình
hoặc nhờ ngƣời khác đƣa ra những lý lẽ để bảo vệ mình. Có thể nói, phiên toà
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là nơi thể hiện đầy đủ nhất quyền dân chủ của
công dân.
Bằng việc xét hỏi và tranh luận tại phiên toà và việc áp dụng nghiêm
minh hình phạt đối với ngƣời phạm tội, ngƣời phạm tội và ngƣời tham dự
phiên toà sẽ hiểu rõ các quy định của pháp luật, hiểu rõ quan điểm, chính sách

của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội để tránh vi phạm pháp luật. Điều này
giúp nâng cao ý thức pháp luật cuả công dân trong cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Khác với các hình thức xét xử khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bắt
buộc đối với bất kỳ vụ án nào. Đây đƣợc coi là bƣớc xét xử lần một của việc
thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Tuy nhiên, không phải vụ án nào cũng
trải qua hai cấp xét xử. Việc xét xử phúc thẩm chỉ đặt ra khi có kháng cáo,
kháng nghị. Do đó, một phiên toà đƣợc tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định, tạo điều kiện để ngƣời tham gia tố tụng đƣợc tranh
luận công khai sẽ là cơ sở để có để có đƣợc bản án, quyết định khách quan,
toàn diện, chính xác. Điều này sẽ tạo đƣợc lòng tin trong nhân dân, làm giảm
tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, bản án sơ thẩm sẽ có
hiệu lực pháp luật góp phần tiết kiệm đƣợc thời gian, tiền bạc của nhà nƣớc

×