ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THIẾT HÙNG
TỘI XÂM PHẠM CHỖ Ở CỦA CÔNG DÂN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THIẾT HÙNG
TỘI XÂM PHẠM CHỖ Ở CỦA CÔNG DÂN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt
HÀ NỘI - 2011
mục lục
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
mở đầu
1
Ch-ơng 1: các vấn đề chung về tội xâm phạm chỗ ở
của công dân trong luật hình sự việt nam
10
1.1.
Khái niệm quyền con ng-ời, quyền công dân, quyền tự do,
dân chủ của công dân và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
của công dân
10
1.1.1.
Khái niệm quyền con ng-ời
13
1.1.2.
Khái niệm quyền công dân
17
1.1.3.
Khái niệm quyền tự do, dân chủ của công dân
20
1.1.4.
Khái niệm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân
25
1.2.
Khái niệm tội xâm phạm chỗ ở của công dân và ý nghĩa của
việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam
29
1.2.1.
Khái niệm tội xâm phạm chỗ ở của công dân
29
1.2.2.
ý nghĩa của việc quy định tội xâm phạm chỗ ở của công dân
trong luật hình sự Việt Nam
34
1.3.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam về tội xâm phạm chỗ ở của công dân từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
35
1.3.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
tr-ớc pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985
25
1.3.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến tr-ớc
pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999
42
Ch-ơng 2: tội xâm phạm chỗ ở của công dân theo QUY
Định Của Bộ Luật Hình Sự việt nam NĂM 1999
và thực tiễn xét xử
45
2.1.
Tội xâm phạm chỗ ở của công dân theo quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999
45
2.1.1.
Các dấu hiệu pháp lý hình sự
45
2.1.2.
Hình phạt
49
2.1.3.
Phân biệt tội xâm phạm chỗ ở của công dân với một số tội
phạm khác có liên quan trong luật hình sự Việt Nam
50
2.2.
Thực tiễn xét xử tội xâm phạm chỗ ở của công dân
53
2.2.1.
Tình hình xét xử tội xâm phạm chỗ ở của công dân
53
2.2.2.
Một số tồn tại trong thực tiễn và những nguyên nhân
69
Ch-ơng 3: hoàn thiện pháp luật và Những giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của bộ luật hình sự việt nam năm 1999 về tội
xâm phạm chỗ ở của công dân
82
3.1.
Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện pháp luật các quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội xâm
phạm chỗ ở của công dân
82
3.1.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999 về tội xâm phạm chỗ ở của công dân
82
3.1.2.
ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 về tội xâm phạm chỗ ở của công dân
85
3.2.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 về tội xâm phạm chỗ ở của công dân
86
3.2.1.
Nhận xét chung
86
3.2.2.
Nội dung kiến nghị sửa đổi, bổ sung
88
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội xâm phạm chỗ ở
của công dân
91
3.3.1.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân
91
3.3.2.
Xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật ng-ời phạm
tội xâm phạm chỗ ở của công dân
93
3.3.3.
Tăng c-ờng phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và
Tòa án với các cơ quan nhà n-ớc, tổ chức xã hội và công dân
trong phát hiện, xử lý và cải tạo, giáo dục ng-ời phạm tội xâm
phạm chỗ ở của công dân
94
3.3.4.
Quản lý hành chính về trật tự xã hội, nhân khẩu, đất đai tại
địa bàn phức tạp về an ninh trật tự và có mâu thuẫn, tranh
chấp về chỗ ở
96
3.3.5.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan
đến quản lý, khám xét chỗ ở của công dân
97
kết luận
100
danh mục tài liệu tham khảo
102
Danh mục các bảng
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Sự khác nhau giữa tội xâm phạm chỗ ở của công dân với
tội xâm phạm an ninh lãnh thổ
51
2.2
Sự khác nhau giữa tội xâm phạm chỗ ở của công dân với
tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn th- tín, điện thoại, điện
tín của ng-ời khác
52
2.3
Sự khác nhau giữa tội xâm phạm chỗ ở của công dân với
tội c-ớp tài sản
53
2.4
Tỷ lệ tổng số vụ và tổng số bị cáo đã đ-a ra xét xử trên
tổng số vụ và tổng số bị cáo bị đ-a ra xét xử theo Điều
124 Bộ luật hình sự (2000-2010)
66
2.5
Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án xét xử về tội xâm phạm
chỗ ở của công dân trong 10 năm (2000-2010)
56
Danh mục các hình
Số hiệu
hình
Tên hình
Trang
1.1
Quyền con ng-ời, quyền công dân, quyền tự do, dân chủ
của công dân và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của
công dân
13
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, công
cuộc đổi mới đất nước chính thức được đặt ra với nội dung cơ bản là chuyển
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân, mở rộng tăng cường giao lưu hợp tác.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển thì công cuộc đổi
mới từ đó đến nay không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội, văn hóa, mà còn chi
phối cả nhận thức, hành động và cả thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta
trong thời gian vừa qua cùng với xu thế chung của nhân loại trên toàn thế
giới.
Theo định nghĩa chung của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp quốc về
quyền con người thì:
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và
tự do cơ bản của con người. Quyền con người là những quyền bẩm
sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta
sẽ không thể sống như một con người [74, tr. 4].
Hay nói cách khác, khái niệm quyền con người có ý nghĩa chính trị -
xã hội rất quan trọng ở chỗ nó là - một phạm trù lịch sử - cụ thể, là giá trị xã
hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc
trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ
2
cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng
pháp luật bởi các quốc gia - thành viên Liên hợp quốc, cũng như bởi cộng
đồng quốc tế.
Hiện nay, nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân, quyền tự
do, dân chủ của công dân nói chung và vấn đề bảo vệ các quyền này nói riêng
đã và đang là vấn đề được Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, cũng
như thực thi các cơ chế để bảo đảm ngày càng được chú trọng. Bởi lẽ, cùng
với quá trình giải phóng dân tộc, sự thắng lợi của nhân dân toàn thế giới trong
việc bảo vệ các quyền của con người tồn tại ở các Nhà nước độc lập, đồng
thời cụ thể hóa các tư tưởng tiến bộ trong Bản tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền vào ngày 10/12/1948 của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc, bản Hiến
pháp đầu tiên của Việt Nam được thông qua tháng 11/1946 đã có đến 11 điều
ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, trong đó có các quyền tự do, dân
chủ như: quyền bình đẳng, quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do hội
họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể và bất khả xâm phạm về nhà ở, thư tín Những quyền này cùng với
hệ thống các quyền khác tạo nên quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp
ghi nhận và bảo vệ bằng các ngành luật khác nhau.
Theo đó, quyền con người, quyền công dân, quyền tự do, dân chủ của
công dân và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân thể hiện các mức
độ khác nhau của nội hàm của khái niệm nhân quyền. Nếu quyền con người là
khái niệm ở nghĩa rộng nhất thì quyền công dân hẹp hơn, quyền tự do, dân
chủ của công dân thuộc nội dung quyền công dân và quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở của công dân lại thuộc quyền tự do, dân chủ của công dân. Đến lượt
mình, quyền công dân lại cũng thuộc nội dung quyền con người. Cho nên, suy
cho cùng, việc làm rõ khái niệm các quyền này cũng chính là góp phần nghiên
cứu việc bảo vệ quyền con người, đồng thời phản ánh sự ghi nhận, thể hiện
nội dung các quyền đó trong pháp luật của Nhà nước ra sao. Đặc biệt, hiện
3
nay cùng với nhiều thiết chế khác, quyền con người đã được nghiên cứu ở
mức độ và biên độ rộng thể hiện tính đa ngành, liên ngành không chỉ trong
nghiên cứu, giảng dạy, mà còn trong cả việc thực thi và bảo đảm các quyền
này, trong đó, luật học đi tiên phong và chính là ngành khoa học đem lại sự
bảo đảm và cơ chế, biện pháp thiết thực và hữu hiệu nhất trong việc tôn trọng
và bảo vệ các quyền con người, trong đó có quyền công dân, quyền tự do, dân
chủ của công dân và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.
Về cơ bản, các quyền công dân, quyền tự do, dân chủ của công dân và
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân đã được cụ thể hóa và ghi
nhận trong một số điều luật của Chương V Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp
năm 1992 đã thể hiện một bước phát triển mới trong việc tiếp tục pháp điển
hóa các quyền con người, cùng với việc khẳng định khái niệm và sự tôn trọng
các quyền con người (Điều 50), cũng như bổ sung thêm nhiều các quyền và tự
do mới trên các lĩnh vực. Ngoài ra, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều Bộ luật,
Luật để tạo hệ thống công cụ pháp lý đầy đủ và cần thiết nhằm bảo vệ và bảo
đảm các quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, những quy định về các
tội xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân trong Bộ luật hình sự
năm 1985 đã không còn phù hợp và chúng đã được thay thế bằng các quy
định mới của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành (Chương XIII) và đang tiếp
tục ngày càng được hoàn thiện hơn nữa. Như vậy, một mặt điều này thể hiện
rõ Nhà nước ta không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
mặt khác, còn làm hết sức mình để bảo đảm và thực hiện quyền con người
trên thực tế, cụ thể là thông qua việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ
thống pháp luật và thực thi các biện pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế - xã
hội, văn hóa để mọi người dân có cuộc sống ngày càng đầy đủ, ấm no về vật
chất, phong phú và hạnh phúc về tinh thần, xây dựng một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, bảo đảm thực hiện, tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền
con người trên toàn đất nước Việt Nam.
4
Hai nhóm quyền tự do và dân chủ của công dân là khách thể chung
của nhóm tội xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân được quy
định tại Chương XIII Bộ luật hình sự năm 1999. Do đó, trường hợp các hành
vi phạm tội xâm phạm tới các quyền tự do, dân chủ của công dân cũng có
nghĩa là đã trực tiếp xâm hại tới các quy định của Hiến pháp và pháp luật hình
sự, đồng thời thông qua việc gây thiệt hại cho công dân, các hành vi phạm tội
này còn gián tiếp gây thiệt hại cho việc thực hiện các đường lối, chủ trương
và chính sách xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước của Đảng và Nhà nước.
Như đã đề cập, chủ trương đổi mới toàn diện đất nước được đặt ra và
triển khai từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng ta, trong đó có đề cập
đến việc "tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách hành chính nhà nước". Do đó, cùng
với cải cách hành chính, cải cách kinh tế, thì cải cách tư pháp cũng là một đòi
hỏi khách quan, cấp thiết và mang tính quy luật để có thể thích ứng với những
đổi mới về văn hóa, kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị Do đó, vấn đề này đã
chính thức được đặt ra tại các Đại hội sau đó của Đảng, đồng thời đã được
đánh dấu và ghi nhận trong các Nghị quyết 8 Trung ương khóa VII, Nghị
quyết 3 và 7 Trung ương khóa VIII, đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới" và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Cụ thể hóa điều này, đòi hỏi hệ thống
pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật hình sự (và cả pháp luật tố tụng
hình sự) nói riêng phải ngày càng hoàn thiện và thực sự là công cụ hữu hiệu
của Nhà nước ta để bảo vệ một cách tối đa và đầy đủ nhất các quyền, tự do
của con người và của công dân.
Tuy nhiên, cùng với các quá trình này, bên cạnh những ưu điểm tích
cực, chúng ta cũng có không ít những thách thức, trong đó cũng phát sinh ra
hàng loạt các loại vi phạm pháp luật và tội phạm kéo theo, trong số các tội
phạm nói chung, có nhóm tội phạm mặc dù tính chất, mức độ nguy hiểm cho
5
xã hội không cao, nhưng tác động và sự ảnh hưởng lại nghiêm trọng vì đó là
các hành vi xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân, rộng hơn nữa
là các quyền con người. Thực tiễn xét xử cho thấy, nếu năm 2000, tổng số vụ
và số bị cáo đã bị xét xử về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công
dân là 93 vụ và 177 bị cáo, thì năm 2006 tổng số vụ và số bị cáo đã bị xét xử
về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là 134 vụ và 275 bị
cáo, năm 2007, tổng số vụ và số bị cáo đã bị xét xử về các tội xâm phạm
quyền tự do, dân chủ của công dân là 115 vụ và 272 bị cáo, năm 2008, tổng
số vụ và số bị cáo đã bị xét xử về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân là 95 vụ và 249 bị cáo, năm 2009, tổng số vụ và số bị cáo đã bị xét
xử về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là 95 vụ và 269 bị
cáo và năm 2010 tổng số vụ và số bị cáo đã bị xét xử về các tội xâm phạm
quyền tự do, dân chủ của công dân là 105 vụ và 260 bị cáo Như vậy, các tội
phạm này đã có sự thay đổi và trong những năm gần đây, nhất là số bị cáo đã
gia tăng về số lượng, tính chất, mức độ và ngày càng đa dạng, phức tạp hơn.
Đặc biệt, thực tiễn xã hội lại cho thấy đã tồn tại hiện tượng vi phạm và phổ
biến ở một số địa phương dưới nhiều hình thức và cách thức khác nhau, đó có
thể là hành vi bắt, giam giữ người trái pháp luật, hành vi đối xử bất bình đẳng
đối với phụ nữ, xâm phạm chỗ ở của công dân, xâm phạm quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân; v.v Ngoài ra, ở một số nơi trên phạm vi cả nước, còn
nhiều nơi, nhiều chỗ các quyền tự do, dân chủ của công dân cũng chưa được
phát huy và coi trọng, còn bị xâm phạm dưới nhiều hình thức, cách thức khác
nhau và khó nhận diện xử lý. Điều này đòi hỏi Nhà nước, xã hội và các cơ
quan chuyên trách bảo vệ pháp luật cần có những biện pháp phòng, chống có
hiệu quả hơn nữa về mặt thực tiễn - xã hội, chứ không chỉ riêng biện pháp về
mặt pháp luật.
Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, nơi sinh sống của công dân cũng
là một quyền rất cần thiết cho tự do cá nhân của mỗi công dân trong xã hội.
Chính vì vậy, quyền này cũng được Hiến pháp bảo đảm. Điều 73 Hiến pháp
6
năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: " Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của
người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho
phép ". Trong nhóm các tội xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công
dân, các hành vi phạm tội đã nêu diễn ra tương đối phổ biến, trong đó đáng
chú ý là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân trong thực tiễn nhưng việc
điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này còn chưa nhiều. Chẳng hạn, trong
mấy năm gần đây cho thấy, nếu năm 2007 là 07 vụ, 12 bị cáo; năm 2008 là 08
vụ, 17 bị cáo; năm 2009 là 09 vụ, 19 bị cáo và năm 2010 là 06 vụ và 08 bị
cáo Ngoài ra, việc áp dụng cũng chưa triệt để và quyết liệt với trường hợp
một số khó khăn, vướng mắc vì, một mặt nếu áp dụng không đúng dễ xâm
phạm, động chạm đến quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở, nhưng mặt khác, nếu không áp dụng cũng rất dễ bỏ lọt
hành vi phạm tội và người phạm tội. Đặc biệt, một số dấu hiệu định tội, định
khung đối với tội phạm này cũng cần được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hướng dẫn thống nhất trong thực tiễn xét xử.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân nói chung bắt đầu đã
được nghiên cứu, còn nghiên cứu riêng rẽ và độc lập về tội xâm phạm chỗ ở
của công dân mới chỉ được đề cập gián tiếp qua phân tích chung về cả nhóm
tội thông qua các yếu tố cấu thành tội phạm (khách thể của tội phạm, mặt
khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội
phạm) và hình phạt trên ba bình diện khoa học:
* Ở cấp độ giáo trình đại học, sách tham khảo, chuyên khảo hay sách
bình luận: 1) PGS.TS. Phạm Hồng Hải & GS.TSKH. Lê Cảm, Chương 5 -
Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, Trong sách: Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê
7
Cảm chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; 2) GS.TS. Hồ Trọng
Ngũ, Chương IV - Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân,
Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể
tác giả do GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2001; 3) TS. Trương Quang Vinh, Chương XIX - Các tội xâm phạm quyền tự
do, dân chủ của công dân, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam -
Tập I, Tập thể tác giả do GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm quyền tự
do, dân chủ của công dân; xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, Nxb. Lao
động, Hà Nội, 2003; 5) TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), TS. Đỗ Đức Hồng
Hà, TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể tác giả, Chương XIX - Các tội xâm phạm
quyền tự do, dân chủ của công dân. Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2010; 6)
TS. Trần Văn Luyện, Chương XIII - Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân, Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần
các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 7) ThS.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập
III - Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, 2002; 8) TS. Trịnh Tiến
Việt (chủ biên), Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân theo
luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.
* Ở cấp độ khác: Qua nghiên cứu cho thấy, trong khoa học luật hình
sự Việt Nam trước đây và hiện nay chưa có khóa luận, luận văn hay luận án
tiến sĩ luật học nào đề cập đến tội phạm này. Còn dưới góc độ bài viết chỉ có
công trình của TS. Trịnh Tiến Việt, Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân: Một số khía cạnh pháp lý hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6
(tháng 3)/2007. Tuy nhiên, bài viết này cũng chỉ đề cập chung đến cả nhóm
tội phạm xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
8
Như vậy, qua nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy: một
số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng và chung cả nhóm tội, trong đó vấn
đề về tội xâm phạm chỗ ở của công dân chỉ là một phần nhỏ trong nội dung
nghiên cứu của các tác giả trong các giáo trình, sách bình luận, nên chưa được
phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu độc lập và
đánh giá thực tiễn xét xử của Tòa án ở nước ta từ năm 2000-2010. Do đó, cho
đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, có hệ
thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dưới góc độ pháp lý hình sự
về tội xâm phạm chỗ ở của công dân. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận
để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội xâm phạm
chỗ ở của công dân, phân tích thực tiễn xét xử tội phạm này từ năm 2000-
2010, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự về tội phạm này rõ ràng vẫn có ý nghĩa về mặt chính trị -
xã hội và thực tiễn - pháp lý quan trọng. Từ những lý do trên, học viên quyết
định lựa chọn đề tài "Tội xâm phạm chỗ ở của công dân trong luật hình sự
Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý
cơ bản của tội xâm phạm chỗ ở của công dân như: khái niệm, các dấu hiệu
pháp lý và hình phạt đối với người phạm tội, phân biệt tội xâm phạm chỗ ở
của công dân với một số tội phạm khác có liên quan trong Bộ luật hình sự,
đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội xâm phạm chỗ ở của công
dân từ năm 2000-2010. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn
tại trong công tác xử lý, định tội để đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm này.
9
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội xâm
phạm chỗ ở của công dân trong luật hình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường
lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu trong đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội
học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát
thực tiễn; điều tra án điển hình để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa
học cần nghiên cứu trong luận văn này.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã tiếp thu
có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố, các đánh giá, tổng kết của
các cơ quan chuyên môn là các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến
các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1. Về lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội
phạm nói chung, tội xâm phạm chỗ ở của công dân trong khoa học luật hình
sự Việt Nam nói riêng. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về tội xâm phạm
chỗ ở của công dân trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử
hình thành và phát triển của luật hình sự nước ta về tội phạm này từ Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, phân biệt tội này và một số tội khác hay
10
có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 về tội xâm phạm chỗ ở của công dân; phân tích thông qua nghiên
cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2000-2010 và nghiên cứu
thông qua các bản án hình sự của Tòa án để đánh giá, đồng thời qua đó chỉ ra
một số mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các sai sót trong
quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải
pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự về tội xâm phạm chỗ ở của công dân ở khía cạnh lập
pháp và việc áp dụng trong thực tiễn (đó là giải pháp về mặt tội phạm học).
5.2. Về thực tiễn
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Một số đề xuất, kiến nghị
của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập
pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến
tội xâm phạm chỗ ở của công dân, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống tội này ở nước ta hiện nay và sắp tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề chung về tội xâm phạm chỗ ở của công dân
trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Tội xâm phạm chỗ ở của công dân theo quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội xâm
phạm chỗ ở của công dân.
11
12
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI XÂM PHẠM CHỖ Ở
CỦA CÔNG DÂN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN, QUYỀN TỰ
DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN VÀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ CHỖ Ở
CỦA CÔNG DÂN
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài
người, quyền con người là một trong những giá trị tinh thần cao quý nhất, cao
cả nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay. Quyền con người
là kết tinh của những giá trị văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới, thông
qua một quá trình đấu tranh lâu dài của toàn nhân loại, trong đó tất cả các dân
tộc, giai cấp và xã hội đều có phần đóng góp.
Nghiên cứu lịch sử cho thấy, mặc dù "quyền con người" mãi sau này
(thế kỷ 18) mới được khẳng định, nhưng những ý tưởng về nó lại ra đời rất
sớm cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và hình thành Nhà nước. Khi
mà trong các Nhà nước chiếm hữu nô lệ, người nô lệ bị coi là những "công cụ
biết nói" thì những tiếng kêu cứu đòi quyền được sống, được tự do, được
quyền làm người cũng xuất hiện.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học, pháp
luật dần hình thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải
thích các vấn đề tự nhiên, xã hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18
trường phái pháp luật tự nhiên với các đại diện như: Spinoda, Hobbes, Kant
đã mở ra một trang mới cho sự phát triển tư tưởng bảo vệ quyền cá nhân
chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển nhiên,
có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước, pháp luật ban phát. Tư
tưởng này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến
tàn bạo, thiết lập Nhà nước mà ở đó con người với những giá trị đích thực của
13
nó được nâng lên một bước - công dân của xã hội Nhà nước chứ không phải
thần dân của ông vua.
Khác với các Nhà nước phong kiến và tư bản phương tây, chế độ Nhà
nước phong kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn
mang tính hà khắc. Song, thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc,
nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ nét trong Quốc triều Hình luật là Bộ luật
do Nguyễn Trãi soạn thảo, được ban hành năm 1843 có kế thừa, bổ sung
những luật lệ được ban hành từ rất nhiều năm trước và được nhiều Bộ luật,
luật sau này tiếp thu những tư tưởng tiến bộ. Và suốt các triều đại phong kiến
Việt Nam, vua mệnh danh là con trời, cai trị trên nền tảng tư tưởng nho giáo
bị các triết lý nho giáo, điều chỉnh hành vi của mình. Vua là cha mẹ của dân,
buộc phải thích cái dân thích, ghét cái dân ghét bởi "ý trời là lòng dân". Do
đó, vương quyền của vua bị hạn chế, dân cũng có được một số yếu tố về các
quyền dù còn nhỏ nhặt mang tính cộng đồng.
Như vậy, trong các thời kỳ cổ đại và phong kiến, tư tưởng về quyền
con người đã được đề cập đến nhưng còn rời rạc. Khi cách mạng tư sản nổ ra
thắng lợi với những tiền đề tư tưởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì
vấn đề quyền con người mới được đặt ra như một học thuyết, hay nói cách
khác, quyền con người bắt đầu được chính thức công khai thừa nhận. Có thể
nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ năm 1776 và sau đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Pháp năm 1789. Theo đó, "lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, quyền con
người chuyển từ phạm vi thỉnh cầu, yêu sách sang phạm vi thực hiện, từ lĩnh
vực triết học sang lĩnh vực pháp lý thực tiễn" [31, tr. 27].
Quyền con người, quyền công dân, quyền tự do, dân chủ của công dân
và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (hay còn gọi là quyền tự do chỗ ở) thể
hiện các mức độ khác nhau của nội hàm của khái niệm nhân quyền. Do đó,
việc làm sáng tỏ bốn khái niệm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng,
14
qua đó không chỉ nâng cao nhận thức về quyền con người, mà còn bảo đảm
cho các quyền này được thực thi và bảo vệ một cách tốt nhất trong thực tiễn,
mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét.
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Khát vọng về nhân quyền là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ
bản của toàn thể nhân loại. Quyền con người được sinh ra và đồng thời cũng
phải bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Quyền con người - nhân quyền,
dưới góc độ chung nhất được hiểu là những quyền tự nhiên, vốn có của con
người. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta khó có thể tìm thấy một định nghĩa
truyền thống hay kinh điển nào về quyền con người giống như cách làm thông
thường đối
với nhiều khái niệm khác. Vì vậy, vấn đề quyền con người không
chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp quốc tế mà còn là chế định pháp lý cơ
bản trong pháp luật của các quốc gia.
Ý thức về tôn trọng quyền con người và việc bảo vệ nhân quyền là
một quá trình lịch sử lâu dài, liên tục và gắn với lịch sử phát triển của loài
người, cũng như sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người qua các hình thái
kinh tế - xã hội, các giai đoạn đấu tranh giai cấp khác nhau, qua đó quyền con
người dần trở thành giá trị cao quý chung của toàn thể nhân loại và cộng đồng
quốc tế.
Xét riêng trong khoa học pháp lý Việt Nam, khi bàn về nhân quyền và
bảo vệ quyền con người luôn là vấn đề nóng hổi và có tính thời sự. Mặc dù có
khá nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người theo thống kê của Liên
Hợp quốc, song về khái niệm này, trước đây và hiện nay tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau, mặc dù nội hàm của khái niệm "quyền con người" về cơ bản
là thống nhất với nhau.
Có quan niệm cho rằng:
15
Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ
con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội nhất định. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên,
vừa mang tính xã hội; mang tính phổ biến nhưng lại mang tính đặc
thù; mang tính giai cấp, đồng thời mang tính nhân loại và thống
nhất với quyền dân tộc cơ bản [55, tr. 14].
"Nội dung của quyền con người được đề ra, xuất phát từ điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, từ bản chất của chế độ ta.
Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi của chủ
quyền quốc gia " [55, tr. 17].
Quan điểm khác đã đưa ra định nghĩa tương đối khác biệt khi chỉ ra
một số điểm hợp lý với Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, các văn bản
quốc tế về quyền con người và phù hợp với các giá trị nền tảng của quyền con
người, nhưng đặc biệt lại nêu cả nghĩa vụ của con người trong thời kỳ đổi
mới, điều mà các khái niệm khác không đề cập. Theo đó, "quyền con người là
nhân phẩm, các nhu cầu (về vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ
của con người được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia " [52, tr. 19].
Ngoài ra, nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa của việc nghiên cứu
về quyền con người, GS. TSKH. Lê Cảm đã đưa ra khái niệm bao hàm đầy đủ
nội dung của nó:
Quyền con người - một phạm trù lịch sử - cụ thể, là giá trị
xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân
loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không
thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái
đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia -
16
thành viên Liên Hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [7, tr.
12].
Theo tác giả, khái niệm này có ý nghĩa rất lớn không chỉ về mặt quan
hệ quốc tế - ngoại giao, lịch sử - chính trị, pháp luật, mà còn có giá trị về mặt
khoa học - thực tiễn trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay.
Quyền con người có quan hệ biện chứng với nhiều thiết chế như:
phẩm giá con người, nhu cầu, khả năng của con người, quyền công dân, phát
triển con người, an ninh quốc gia, an ninh quốc tế, tự do, dân chủ , đặc biệt là
mối quan hệ với thiết chế nhà nước và pháp luật. Xuất phát từ chỗ quyền con
người có đặc tính "tự nhiên", "bẩm sinh vốn có", Nhà nước không thể không
thừa nhận. Ngược lại, quyền con người chỉ có giá trị thực tế và được bảo đảm
khi được Nhà nước ghi nhận bằng pháp luật. Do vậy, quyền con người là khái
niệm bao gồm hai thành tố - tự do, phẩm giá vốn có, nhu cầu tự nhiên, chính
đáng của con người và sự ghi nhận, bảo đảm của Nhà nước bằng pháp luật đối
với chính các quyền đó. Cho nên, dưới góc độ nội hàm và ý nghĩa của nó,
khái niệm quyền con người được hiểu là "các quyền mà con người vẫn có và
chỉ con người mới có, đồng thời là sự tự do, nhân phẩm vốn có, nhu cầu, lợi
ích chính đáng của con người được Nhà nước thừa nhận và pháp luật bảo vệ"
[65, tr. 37]. Hay nói cách khác, quyền con người là các quyền tối thiểu mà các
cá nhân, từng con người cụ thể phải có, quyền con người đòi hỏi Nhà nước
thừa nhận và tôn trọng các quyền này, đồng thời bảo vệ nó bằng pháp luật.
Tóm lại, dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi, khái niệm quyền con
người được hiểu là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được
pháp luật bảo đảm do cá nhân con người nắm giữ trong các quan hệ của
mình với các cá nhân khác và với Nhà nước. Như vậy, một số đặc trưng cơ
bản được thừa nhận chung về khái niệm quyền con người như sau:
17
Một là, quyền con người có tính giai cấp, tính giai cấp thể hiện việc
Nhà nước ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp và pháp luật.
Hai là, quyền con người là các quyền tự nhiên mà các cá nhân, từng con
người cụ thể phải có, nó là đặc trưng tự nhiên vốn có của con người sinh ra
trên trái đất, cần được Nhà nước, xã hội tôn trọng và bảo vệ. Quyền con người
là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất, đó là những đặc quyền mang
tính tự nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát
triển. Chính vì vậy, quyền con người thể hiện tính nhân đạo và tính pháp luật.
Ba là, quyền con người có mối liên hệ với kinh tế, văn hóa, xã hội,
truyền thống - lịch sử. Trong các yếu tố đó, "yếu tố về kinh tế là định hướng
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề về quyền con người" [24, tr. 23].
Quyền con người góp phần thúc đẩy và duy trì sự tăng trưởng kinh tế bền
vững, đồng thời chỉ khi các quyền con người được bảo đảm mới tạo ra sự
năng động của xã hội trên mọi lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kinh tế.
Bốn là, quyền con người có mối quan hệ chặt chẽ với dân chủ và pháp
luật. Dân chủ tạo điều kiện cho quyền con người phát triển, mở rộng và ngược
lại quyền con người là nhân tố để thúc đẩy dân chủ phát triển hơn. Còn với
pháp luật, - lại có vai trò quan trọng trong việc ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, và ngược lại đến lượt mình, quyền con
người lại là điều kiện để thúc đẩy pháp luật tiến bộ, phát triển và vì con người,
đồng thời làm cho pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn.
Năm là, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật, trong đó nó được quy định trong các văn bản pháp luật quốc tế và cả các
văn bản pháp luật quốc gia. Đặc biệt là, trong Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam, các quyền con người được bảo đảm về: dân sự và chính trị; về thực hiện
các quyền con người về kinh tế, văn hóa và xã hội và; bảo đảm quyền của phụ
nữ, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, gia đình, người già, người tàn tật; v.v
18
1.1.2. Khái niệm quyền công dân
Các quốc gia xây dựng các thiết chế bảo đảm thực hiện việc bảo vệ
quyền con người, cụ thể như: bảo đảm tính đồng bộ và khả thi của các quy
định về quyền con người và quyền công dân, xây dựng các thiết chế tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các thủ tục tố tụng,
thủ tục hành chính để bảo vệ quyền con người, cũng như tránh sự lạm dụng
để xâm phạm quyền con người, cụ thể hóa và nội luật hóa các quyền con
người trong pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc gia. Việc nghiên cứu làm rõ
khái niệm quyền công dân trong mối tương quan với quyền con người là yêu
cầu cần thiết vì mối quan hệ chặt chẽ giữa hai khái niệm này.
Khái niệm quyền con người thường gắn liền với khái niệm quyền
công dân - quyền được quy định bởi pháp luật quốc gia. Quyền công dân
được hiểu là khả năng tự do lựa chọn hành vi của công dân mà Nhà nước
phải bảo đảm khi công dân yêu cầu. "Quyền của công dân liên quan đến
nghĩa vụ tương ứng của Nhà nước là phải bảo đảm các điều kiện cần thiết
cho công dân thực hiện các quyền đã được pháp luật quy định" [63, tr. 649].
Khái niệm công dân chỉ mối quan hệ giữa Nhà nước với các cá nhân sinh
sống trên lãnh thổ một quốc gia.
Theo tập thể tác giả trong Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam quan
niệm rằng: "Công dân là bộ phận dân cư chủ yếu của một Nhà nước bao gồm
những người được xác định lệ thuộc pháp lý đối với Nhà nước đó" [13, tr. 251].
Sự lệ thuộc pháp lý được nhắc đến trong định nghĩa trên được biểu hiện bởi
dấu hiệu quốc tịch. Quốc tịch thể hiện sự quy thuộc của một cá nhân vào một
quốc gia nào đó. Luật Quốc tịch Việt Nam định nghĩa:
Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá
nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và
19
quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đối với công dân Việt Nam [50, Điều 1].
Như vậy, quốc tịch là dấu hiệu được pháp luật mọi quốc gia trên thế
giới sử dụng để xác định tư cách công dân của nước mình. Người có quốc tịch
nước nào thì là công dân của nước đó. Hiến pháp và Luật Quốc tịch nước ta
quy định: "Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có
quốc tịch Việt Nam" [45, Điều 49]; "Người có quốc tịch Việt Nam là công dân
Việt Nam" [50, Điều 5].
Quốc tịch xác định một cá nhân là công dân của một quốc gia, đồng
thời là căn cứ phát sinh mối quan hệ quyền - nghĩa vụ giữa cá nhân này với
quốc gia đó. Mối quan hệ quyền - nghĩa vụ giữa nhà nước với công dân (cá
nhân mang quốc tịch nước mình) thể hiện như sau:
Một là, về phía Nhà nước, có quyền quy định các quyền, nghĩa vụ của
công dân bằng pháp luật, đồng thời còn có quyền phán xét các hành vi vi
phạm pháp luật của công dân, cũng như có nghĩa vụ bảo vệ các quyền, lợi ích
của công dân khi bị xâm phạm đến.
Hai là, về phía công dân, phải có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật do Nhà nước đặt ra, đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu Nhà nước bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Do đó, quyền công dân là một khía cạnh biểu hiện của mối quan hệ
pháp lý giữa một bên là Nhà nước và công dân. Vì vậy, dưới góc độ khoa học,
theo chúng tôi khái niệm quyền công dân được hiểu là những quyền mà
công dân được hưởng khi Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện trong
thực tế. (Các quyền công dân gồm các quyền về chính trị, các quyền về kinh
tế, các quyền về văn hóa - xã hội, các quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân).
Giữa hai khái niệm quyền con người và quyền công dân thì khái niệm
quyền công dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia, được
pháp luật của mỗi quốc gia ghi nhận. Ngoài ra, trong khi quyền con người là