Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa - luan an tien sy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 124 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TÀO DUY TÙNG






CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2014



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TÀO DUY TÙNG






CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt



HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Tào Duy Tùng












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI
8
1.1.
Khái niệm và những đặc điểm về các tội xâm phạm sức khỏe
của con người
8
1.1.1.
Khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe của con người
8
1.1.2.
Những đặc điểm về các tội xâm phạm sức khỏe của con người
11
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các tội xâm
phạm sức khỏe của con người trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay
14
1.2.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
15
1.2.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
17
1.2.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
20

1.3.
Các tội xâm phạm sức khỏe của con người trong Bộ luật hình
sự một số nước trên thế giới
22
1.3.1.
Bộ luật hình sự Liên bang Nga
22
1.3.2.
Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
24
1.3.3.
Bộ luật hình sự Nhật Bản
26
1.3.4.
Bộ luật hình sự vương quốc Thụy Điển
28

5

Chương 2: CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
THANH HÓA
31
2.1.
Các tội xâm phạm sức khỏe con người trong Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành
31
2.1.1.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác (Điều 104)
31
2.1.2.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105)
34
2.1.3.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106)
36
2.1.4.
Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107)
37
2.1.5.
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 108)
39
2.1.6.
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính (Điều 109)
40
2.1.7.
Tội hành hạ người khác (Điều 110)
41
2.2.
Thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
43
2.2.1.

Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội địa bàn tỉnh Thanh Hóa
43
2.2.2.
Tình hình xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
44
2.3.
Một số tồn tại trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sức
khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
53
2.4.
Nguyên nhân
59
2.4.1.
Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm
sức khỏe của con người chưa thật hoàn thiện
59

6
2.4.2.
Sự yếu kém trong công tác phát hiện, xử lý các tội phạm xâm
phạm sức khỏe của con người
59
2.4.3.
Các tồn tại trong công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật
62
2.4.4.
Sự tác động tiêu cực của kinh tế - xã hội
63
2.4.5.

Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, trật tự, an
toàn xã hội chưa tốt
68

Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA
CON NGƢỜI VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
71
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm sức khỏe của con người
71
3.2.
Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội
xâm phạm sức khỏe của con người
73
3.2.1.
Hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác (Điều 104)
73
3.2.2.
Hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 105)
79
3.2.3.
Hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng (Điều 106)

85
3.2.4.
Hoàn thiện về tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107)
88
3.2.5.
Hoàn thiện tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác (Điều 108)
89
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sức khỏe của con người
91

7
3.3.1.
Nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các tội xâm phạm
sức khỏe con người (công tác điều tra, truy tố, xét xử)
91
3.3.2.
Nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến và
giáo dục pháp luật
94
3.3.3.
Biện pháp về kinh tế - xã hội
94
3.3.4.
Biện pháp về quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, trật tự,
an toàn xã hội
97


KẾT LUẬN
99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101

PHỤ LỤC
106

8
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 8 năm
(2006 - 2013)
44
2.2
Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 8 năm
(2006 - 2013)
45
2.3

Số vụ, số bị cáo đã xét xử sơ thẩm về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác so với
nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai
đoạn 8 năm (2006 - 2013)
47
2.4
Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác so với các tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn 8 năm (2006 - 2013)
48
2.5
Số vụ và số bị cáo đã được xét xử sơ thẩm về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa và trên cả nước trong
giai đoạn 8 năm (2006 - 2013)
49
2.6
Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử với số vụ và số bị can đã
bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 8 năm (2006 - 2013)
51
2.7
Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 8 năm (2006 - 2013)
52



9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi chính
sách xã hội và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Đấu tranh bảo vệ quyền
con người là trách nhiệm của Nhà nước và mọi cá nhân trong xã hội, tại
khoản 1 Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm" [44].
Do vậy, khi có bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến các quyền con
người đều bị trừng trị rất nghiêm khắc. Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009 đã dành một chương riêng quy định trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con
người, trong đó các tội xâm phạm sức khỏe của con người chiếm một vị trí
quan trọng, được đặt ở vị trí thứ hai sau khách thể "tính mạng" của con người.
Cùng với tình hình đổi mới và đi lên chung của đất nước, tỉnh Thanh
Hóa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đã ngày càng khẳng định được vị trí
của mình. Là một tỉnh lớn, dân số đông đứng thứ ba của đất nước, lại nằm ở
vị trí giao thông thuận lợi nên Thanh Hóa thu hút được nhiều đầu tư của nhà
nước và nước ngoài đầu tư vào các khu công nghiệp, đặc biệt là khu kinh tế
tổng hợp Nghi Sơn đã làm cho kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày
càng được cải thiện, tình hình an ninh trật tự xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên,
cùng với đó nền kinh tế này cũng nảy sinh và tồn tại cả những mặt trái của nó,
đó là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, sự tha hóa trong lối sống,
đạo đức, sự xuất hiện ngày càng nhiều các tệ nạn xã hội cũng như các hành vi

phạm tội, đặc biệt là các hành vi như trộm cắp, cướp giật, ma túy, mại dâm,

10
xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác trong đó các hành
vi xâm phạm sức khỏe của người khác đang có chiều hướng ngày càng gia
tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm trên địa bàn. Các tội phạm phạm
này có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội, nó trực tiếp xâm phạm tới khách
thể của luật hình sự bảo vệ đó là sức khỏe của con người. Vì vậy, việc tìm
hiểu về các tội xâm phạm sức khỏe của con người, đánh giá thực tiễn xét xử,
cũng như đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự và những biện pháp phòng
ngừa là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn.
Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, những năm gần đây, tình
hình tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa diễn biến phức tạp; xuất
hiện những loại tội phạm mới, có những loại có chiều hướng gia tăng. Trung
bình mỗi năm xảy ra khoảng 1.500 đến 1.600 vụ phạm tội, trong đó các tội
xâm phạm sức khỏe của con người chiếm khoảng 12%. Theo báo cáo tổng kết
công tác xét xử hàng năm của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, trong giai
đoạn 8 năm (2006 - 2013) xảy ra 1.453 vụ, trong đó có 1.449 vụ về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (chiếm
99,72%); đặc biệt về tính chất, mức độ của các hành vi xâm phạm sức khỏe
của con người ngày càng nghiêm trọng, nhiều vụ từ xích mích nhỏ nhưng các
đối tượng sẵn sàng dùng hung khí nguy hiểm để giải quyết, đã xuất hiện một
số băng, nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen, bảo kê, đòi nợ, xiết
nợ, hoạt động ngang nhiên, coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng đến đời sống
nhân dân
Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về các
tội phạm này ở các điều 104, 105, 106, 107, 108, 109 và 110 có nhiều nội dung
còn chưa thống nhất, không cụ thể, chưa có hướng dẫn thi hành gây khó khăn,
lúng túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng, như: Việc áp dụng
tình tiết gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; tình tiết dùng hung khí nguy hiểm; trường

hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh gây hậu quả một người bị thương

11
tật từ 31% đến 60% và nhiều người người khác bị thương tật dưới 31% và
tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 31% Do đó, chưa đáp ứng
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày 10/9/2012, Thủ tướng Chính
phủ đã có Quyết định số 1236/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch tổng kết
thi hành Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, các Bộ, ngành, địa phương sẽ
đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thực tiễn hơn 10 năm thi
hành Bộ luật hình sự từ đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, góp
phần đáp ứng yêu cầu mới của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo đảm ổn định lâu dài, thúc đẩy phát triển của đất nước.
Nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của đề tài trong thực tiễn cũng như
để chuẩn bị sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm
2009, với kiến thức được trang bị và những tìm hiểu thực tế trong công tác tại
Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, tác giả lựa chọn đề tài "Các tội xâm phạm
sức khỏe của con người theo Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về các tội xâm
phạm sức khỏe của con người dưới các góc độ và mức độ khác nhau như:
* Dưới góc độ luận án tiễn sĩ, luận văn thạc sĩ luật học, có các công
trình sau: "Đặc điểm tội phạm học của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và các giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa", của Nguyễn Hữu Cầu, Luận án tiến sĩ
luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2002; "Phòng ngừa tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh", của Nguyễn Mạnh Hùng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2011; "Đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế", của Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa

12
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002; "Đấu tranh, phòng chống các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh", của Phạm Thị Hoài Phương, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; v.v
* Dưới góc độ đề tài khoa học, bài viết trên báo, tạp chí, có nhiều
công trình, bài viết như: "Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự
1999" của PGS.TS. Trần Văn Luyện, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
3/2001; "Bàn về việc áp dụng một số tình tiết định khung tăng nặng trong tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác", của Vũ
Hồng Thiêm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10/2005; "Xung quanh việc nhận
thức và áp dụng Điều 104 Bộ luật hình sự", của ThS. Phạm Văn Thiệu, Tạp
chí Kiểm sát, số 11/2008 v.v
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, giáo trình, có các công trình sau:
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, "Chương IV- Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người trong Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm)", tập thể tác giả do TSKH.GS. Lê Cảm chủ
biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), của GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2003; "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của con người" của tác giả PGS.TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000; "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự. Tập 1, Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người: Bình luận
chuyên sâu", của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; v.v
Tuy nhiên, các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến các tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên khía cạnh

pháp lý hình sự, hoặc nghiên cứu đối với từng tội phạm cụ thể trong phạm vi
toàn quốc hoặc thuần túy dưới góc độ tội phạm học, chưa có công trình nào

13
nghiên cứu về nhóm các tội xâm phạm sức khoẻ của con người và phân tích
thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đồng thời đề xuất giải pháp
hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm này.
Vì lý do đó, đề tài "Các tội xâm phạm sức khỏe của con người theo
Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" nhằm
nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, lý giải nguyên nhân
phạm tội, những đặc điểm nhân thân người phạm tội và đặc biệt tổng kết tình
hình áp dụng trên thực tế giai đoạn 8 năm (2006 - 2013) để từ đó đưa ra các
biện pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự, đồng thời nâng cao hiệu
quả áp dụng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ khái niệm, những dấu
hiệu pháp lý hình sự và hình phạt đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con
người; thực tiễn xét xử các tội phạm này trong giai đoạn 8 năm (2006 - 2013);
kết quả đấu tranh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và đưa ra giải pháp hoàn
thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sức khoẻ
của con người và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
1) Xây dựng khái niệm, phân tích những dấu hiệu pháp lý hình sự và
hình phạt đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người;
2) Đánh giá thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sức khỏe của con người
trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 8 năm (2006 -

2013), có sự so sánh, đối chiếu với địa bàn cả nước;

14
3) Phân tích kết quả đấu tranh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa
án và đưa ra các nguyên nhân cơ bản; ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội;
4) Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm sức khỏe của con người;
5) Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sức khỏe của con người.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của nó: Các tội xâm
phạm sức khỏe của con người theo Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 8 năm (2006 - 2013).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về công tác đấu tranh,
phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện
trong các nghị quyết Đại hội Đảng X, XI và các nghị quyết của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, và nhất là
trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể là: Phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh để phân tích
các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn. Luận văn này là công trình khoa học đầu tiên trong


15
khoa học luật hình sự Việt Nam nghiên cứu cụ thể về khái niệm, các dấu
hiệu pháp lý hình sự và hình phạt đối với các tội xâm phạm sức khỏe của
con người; thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sức khỏe của con người trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn 8 năm (2006 - 2013); kết quả đấu
tranh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và đưa ra giải pháp hoàn thiện các
quy định của Bộ luật hình sự và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung.
Những đánh giá, phân tích về thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sức
khỏe của con người còn làm tư liệu cho các nhà làm luật nước ta nghiên cứu
khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội phạm này dưới
khía cạnh lập pháp hình sự để nâng cao hiệu quả áp dụng và đấu tranh,
phòng ngừa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng, cả nước nói chung.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm sức khỏe của
con người.
Chương 2: Các tội xâm phạm sức khỏe của con người trong Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các
tội xâm phạm sức khỏe của con người và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng.

16
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI


1.1. KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC
KHỎE CỦA CON NGƢỜI
1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe của con ngƣời
Quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người nằm trong hệ
thống các quyền cơ bản của con người được pháp luật quốc tế và pháp luật
của nhiều quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Trong thời đại toàn cầu hóa, việc đảm
bảo quyền con người nói chung và quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe
nói riêng được xem là thước đo trình độ phát triển, tính ưu việt của mọi chế
độ. Quyền này được ghi nhận trong rất nhiều văn kiện quốc tế như Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị của con người năm 1966 (ICCPR) Trong đó, ICCPR
là điều ước quốc tế quan trọng nhất bảo vệ và thúc đẩy các quyền dân sự và
chính trị của mọi cá nhân trong cộng đồng nhân loại. Tại Điều 7 ICCPR đã
khẳng định "Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân
đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y
học hay khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó" [51]. Việc
đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục là một quy phạm tập
quán quốc tế (international custom law) về quyền con người, bởi vậy, tất cả
các quốc gia trên thế giới đều có nghĩa vụ phải tuân thủ, bất kể quốc gia đó có
là thành viên của ICCPR hay bất cứ điều ước quốc tế nào khác có liên quan
hay không.
Ngoài ra, quyền này còn được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong hệ
thống pháp luật của từng quốc gia. Tại Việt Nam, quyền này được ghi nhận

17
trong Hiến pháp và các văn bản luật, văn bản dưới luật khác. Có thể nói
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đánh dấu
một bước phát triển to lớn trên lĩnh vực quyền con người. Nếu như quyền
con người trong Hiến pháp 1992 sửa đổi chỉ có một điều (Điều 50) quy
định về quyền con người thì Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương quy

định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân (chương II). Trong
chương này, tất cả các quyền con người, trong đó có quyền được tôn trọng và
bảo vệ sức khỏe được quy định cụ thể và tương thích với các công ước quốc
tế về quyền con người. Tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ
về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm" [44].
Đặc biệt, quyền này còn được bảo vệ bởi văn bản luật quan trọng là
Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự Việt Nam cũng cấm những hành vi trái pháp
luật xâm phạm đến sức khỏe, thân thể của người khác và đưa ra những chế tài
đối với loại hành vi này.
Tuy nhiên, để hiểu rõ khái niệm "các tội xâm phạm sức khỏe của con
người", chúng ta cần tìm hiểu khái niệm "sức khỏe". Sức khỏe là tài sản quý
giá nhất của mỗi con người chúng ta và được coi là giá trị chung của nhân
loại. Theo quan niệm của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì "Sức khỏe là
trạng thái sảng khoái về mặt thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là
không có bệnh hay tật, không yếu đuối mà là ở trạng thái có thể chất tốt, trí
tuệ phát triển và xã hội lành mạnh" [61]. Như vậy, sức khỏe là trạng thái hoàn
chỉnh về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không chỉ có bệnh và thương tật, do
đó có thể bị xâm phạm bằng hành động hoặc không hành động. Sức khỏe là
tài sản riêng của mỗi con người đồng thời cũng là tài sản quý giá chung của
cả cộng đồng. Vì vậy, mỗi người đều được quyền tôn trọng và bảo vệ sức khỏe
của mình.

18
Trong các Giáo trình luật hình sự Việt Nam và một số tài liệu nghiên
cứu, bình luận chuyên sâu hiện nay chủ yếu đưa ra khái niệm chung về các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, ít có
khái niệm riêng về các tội xâm phạm sức khỏe của con người, có thể điểm

qua như sau:
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa quan niệm: "Các tội xâm phạm sức khỏe là
những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm
phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác" [20, tr. 409].
TS. Trần Thị Quang Vinh quan niệm các tội xâm phạm sức khỏe của
con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cố ý hoặc vô ý xâm phạm
đến sức khỏe của con người [59, tr. 61].
PGS.TS. Trần Văn Luyện quan niệm các tội xâm phạm sức khỏe của
con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe
dọa gây tổn hại đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe của con
người [28, tr. 60].
TS. Đỗ Đức Hồng Hà quan niệm: "Các tội xâm phạm sức khỏe của
con người là hành vi có lỗi, xâm phạm quan hệ nhân thân mà nội dung của nó
là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người" [26, tr. 278].
Về cơ bản các quan điểm trên đều tiếp cận dưới góc độ pháp lý, đều
phản ánh nội hàm khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe của con người. Các
khái niệm trên đều phản ánh được đặc điểm của các tội xâm phạm sức khỏe
của con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có dấu hiệu lỗi và xâm
phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người.
Tuy nhiên, ở chừng mực nhất định, có quan điểm lại không đề cập đến
dấu hiệu chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự, dấu hiệu tuổi chịu
trách nhiệm hình sự của chủ thể hoặc chưa khẳng định rõ khách thể của tội
phạm này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người được
pháp luật bảo vệ.

19
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật
hình sự, các tội xâm phạm sức khỏe của con người là những hành vi (hành
động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu

trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới quyền
được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác được Hiến pháp và pháp
luật hình sự ghi nhận, bảo vệ.
1.1.2. Những đặc điểm về các tội xâm phạm sức khỏe của con ngƣời
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản
của các tội xâm phạm sức khỏe của con người như sau:
Một là, các tội xâm phạm sức khỏe của con người là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm
sức khỏe là những hành vi có tính chất gây tổn hại cho sức khỏe của con
người. Những hành vi đó có thể là hành động hoặc có thể không hành động.
Hậu quả của hành vi khách quan nói trên là những thiệt hại gây ra cho quyền
được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất
là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe. Thương tích là vết thương trên cơ
thể của nạn nhân, vì thế sức khỏe của họ bị suy giảm, còn tổn hại về sức khỏe
là tình trạng rối loạn chức năng hoạt động của một hoặc nhiều bộ phận của cơ
thế con người do hành vi phạm tội gây ra, vì thế sức khỏe của họ bị suy giảm
như sự rối loạn hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, hệ thần kinh
Hai là, các tội xâm phạm sức khỏe của con người được quy định trong
Bộ luật hình sự. Theo Điều 8 Bộ luật hình sự thì hành vi nguy hiểm cho xã
hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu "… được quy định trong Bộ luật hình
sự…". Và tại Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: "Chỉ người nào phạm một tội
đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự…" [40].
Như vậy, cũng giống như các tội phạm khác, tính được quy định trong
Bộ luật hình sự là dấu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm trong

20
các tội xâm phạm sức khỏe của con người. Việc quy định những hành vi nguy
hiểm cho xã hội được coi là tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sức
khỏe của con người nói riêng phải được quy định trong Bộ luật hình sự là cơ
sở bảo đảm cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm được thống nhất, bảo

đảm cho quyền con người, trong đó có quyền được tôn trọng và bảo vệ sức
khỏe khỏi bị xâm phạm bởi hành vi xử lý tùy tiện.
Ba là, các tội xâm phạm sức khỏe của con người do những người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm được hiểu là con
người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội ở thời điểm họ có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật. Cũng như các tội phạm khác, chủ thể của các tội xâm phạm sức khỏe của
con người là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự theo luật định. Năng lực chịu trách nhiệm hình sự là năng lực
nhận thức và điều khiển hành vi. Năng lực chịu trách nhiệm hình sự là điều
kiện cần thiết để có thể xác định một người có lỗi hay không khi họ thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có năng lực trách nhiệm hình sự
mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là
người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức
được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, có khả năng điều khiển
được hành vi ấy. Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Việt Nam là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc
trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Các tội xâm phạm sức khỏe của con người đòi hỏi người phạm tội
phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là khi thực hiện hành vi
phạm tội họ có khả năng nhận thức được hành vi xâm phạm sức khỏe của
người khác là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật ngăn cấm và họ có khả năng
điều khiển, kiềm chế hành vi của mình để không thực hiện hành vi nguy hiểm
đó nhưng họ vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

21
Bên cạnh năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của các tội xâm phạm
sức khỏe của con người phải là người đạt tới độ tuổi nhất định. Điều 12 Bộ
luật hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [40].
Trong các tội xâm phạm sức khỏe có hai tội đòi hỏi chủ thể phải là
chủ thể đặc biệt. Ngoài dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
luật định, chủ thể đòi hỏi phải có quan hệ thân thuộc với nạn nhân, trong đó
nạn nhân là người lệ thuộc vào người phạm tội (Điều 110) hoặc phải là người
đang trong khi thi hành công vụ (Điều 107).
Bốn là, chủ thể thực hiện các tội xâm phạm sức khỏe của con người là
người thực hiện hành vi phạm tội một cách có lỗi (cố ý hoặc vô ý). Lỗi là dấu
hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của các tội xâm phạm sức khỏe của con
người cũng như trong mặt chủ quan của mọi cấu thành tội phạm. Lỗi trong
cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sức khỏe của con người có thể là lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý.
Với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Trong
trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội thấy trước hậu quả thương tích
hoặc hậu quả tổn hại cho sức khỏe có thể xảy ra (hoặc tất nhiên xảy ra) nhưng
vì mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp lỗi
cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức hành vi của mình có khả năng gây
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác, thấy trước hậu quả gây
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe có thể xảy ra nhưng để đạt được mục đích
của mình người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra hay nói cách
khác, họ có ý thức chấp nhận hậu quả đó (nếu xảy ra). Với lỗi vô ý, có thể là

22
lỗi vô ý do cẩu thả hoặc lỗi vô ý vì quá tự tin. Trong trường hợp lỗi vô ý do
cẩu thả, người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể

ngăn ngừa được. Trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin, người phạm tội không
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Năm là, các tội xâm phạm sức khỏe của con người xâm phạm tới quyền
được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người được Hiến pháp và pháp luật
hình sự ghi nhận, bảo vệ. Tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm
phạ m về thân thể , đ ư ợ c pháp luậ t bả o hộ về sứ c
khỏ e, danh dự và nhân phẩ m; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm" [44]. So sánh với các quyền hiến định khác của
con người thì quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong những quyền thiết
thân của con người nên những tội xâm phạm đến các quyền này có tính nguy
hiểm cao cho xã hội.
Đối tượng của nhóm tội này là những chủ thể có quyền được tôn trọng
và bảo vệ về tính mạng, sức khỏe những người đang sống, đang tồn tại với tư
cách là thực thể tự nhiên và xã hội.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN NAY
Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm sức khỏe của con người gắn liền với sự hình thành
và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung kề từ ngày thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (02/9/1945). Nó gắn liền với các giai đoạn
cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp đến cuộc kháng

23
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Khi đất nước được thống nhất, cả nước
cùng đi lên chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những cơ sở về chính trị, kinh tế - xã
hội để thống nhất về mặt luật pháp, trong đó pháp luật hình sự quy định các

tội xâm phạm sức khỏe của con người ngày càng được xây dựng và hoàn thiện.
Căn cứ vào các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam và các
dấu mốc pháp lý quan trọng của pháp luật hình sự quy định về tội phạm nói
chung và các tội xâm phạm sức khỏe của con người nói riêng, có thể chia quá
trình hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm sức khỏe của con người làm các giai đoạn như sau:
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trƣớc
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam kiểu mới
được hình thành, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp hình sự Việt
Nam. Trong những ngày đầu mới thành lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
phải đối mặt với những khó khăn chồng chất, vừa phải lo đối phó với các kẻ
thù có âm mưu xâm lược vừa phải từng bước tổ chức xây dựng xã hội, ổn
định cuộc sống, trật tự an toàn xã hội. Để ổn định tình hình đất nước, ngày
10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 47/SL cho phép áp dụng
một số văn bản pháp luật của đế quốc phong kiến, với điều kiện là không trái
với nguyên tắc độc lập của đất nước và chính thể dân chủ cộng hòa. Ở Bắc Kỳ
vẫn áp dụng Hình luật An Nam, ở Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt hình
luật, ở Nam Kỳ áp dụng Hình luật pháp tu chính. Đây là việc làm tình thế lúc
bấy giờ do chúng ta mới dành được độc lập, chưa có thời gian và kinh nghiệm
để có thể xây dựng những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về hình sự
nói chung và về các tội xâm phạm sức khỏe con người nói riêng.
Do ba vùng của đất nước lúc đó áp dụng ba luật hình sự khác nhau
nên việc xử lý tội phạm ở ba vùng cũng không thống nhất. Do vậy, việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật để thống nhất là cần thiết. Ngày 28/02/1946,

24
Sắc lệnh số 27/SL về truy tố các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát đã được ban
hành. Điều 1 của Sắc lệnh này quy định: Bắt cóc, tống tiền, ám sát bị xử tử
hình; Điều 2 quy định "Những người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật

của tội phạm trên cũng bị xử phạt như chính phạm" [49, tr. 29]. Sau đó, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 về việc
trừng trị một số tội phạm. Điểm 3 trong Thông tư quy định:
- Đánh bị thương: phạt tù từ ba tháng đến năm năm.
- Đánh bị thương có tổ chức hay gây thành cố tật hay chết
người có thể phạt đến hai mươi năm [8].
Điều 4 Thông tư 442/TTg còn quy định: "Không cẩn thận mà gây tai
nạn làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Nếu
gây tai nạn làm người chết người thì có thể phạt tù đến 10 năm" [8].
Từ năm 1955, khi toàn bộ văn bản pháp luật cũ không được áp dụng
nữa, các Tòa án xử theo án lệ, theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước Những vùng bị thực dân Pháp chiếm đóng thì vẫn áp dụng theo ba bộ
luật cũ ở ba miền: Bắc, Trung, Nam.
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại, cách
mạng chuyển sang giai đoạn mới, những văn bản quy phạm pháp luật của
thực dân và phong kiến không còn phù hợp, gây nhiều bất lợi trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Vì vậy, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã có Thông tư
số 19/VHH-HS yêu cầu các Tòa án không áp dụng luật lệ của thực dân và
phong kiến nữa. Văn bản này đã thay thế Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945
và cùng với Chỉ thị số 772/TATC được Tòa án nhân dân tối cao ban hành
ngày 10/7/1959 về vấn đề đình chỉ áp dụng pháp luật cũ của đế quốc và
phong kiến, từng bước ban hành các văn bản pháp luật mới đã tạo cho pháp
luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như pháp luật quy định về các tội xâm
phạm sức khỏe của con người nói riêng sang giai đoạn mới. Pháp luật hình
sự trong thời kỳ này đã có những bước tiến rất lớn về mặt kỹ thuật lập pháp

25
hình sự của nước ta. Trong thời kỳ này, một loạt chế định pháp lý như chế
định lỗi, các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm đã được quy định
tương đối cụ thể.

Với đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, Nhà nước được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước
vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội
khóa VI đã chính thức đổi tên nước thành Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và ra Nghị quyết ngày 02/7/1976 giao cho Chính phủ hướng dẫn áp
dụng pháp luật thống nhất trong cả nước.
Cũng trong giai đoạn này, thông qua tổng kết công tác hàng năm và
tổng kết chuyên đề về các nhóm tội, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn
việc áp dụng pháp luật cho Tòa án các cấp trong cả nước như Chỉ thị số
07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính
mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng đã
tổng kết công tác thực tiễn đấu tranh chống tội phạm ở Việt Nam, tham khảo
Bộ luật hình sự của các nước trên thế giới để dự thảo Bộ luật Hình sự năm 1985.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 là Bộ luật
hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dấu mốc
quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện quy phạm pháp luật về hình
sự nói chung và quy phạm pháp luật về các tội xâm phạm sức khỏe con người
nói riêng. Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc đã cho rằng:
Có thể khẳng định, mang tính hệ thống hóa, pháp điển hóa
sâu sắc, Bộ luật hình sự 1985 ra đời là một thành tự lớn của trí tuệ
lập pháp hình sự nước ta, đã có tác dụng to lớn trong công cuộc bảo
vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

×