Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung cấp sơ thẩm của tòa án cấp sơ thẩm những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.03 KB, 84 trang )


1
đại học quốc gia hà nội
khoa luật


trần xuân huệ



Trả hồ sơ để Điều tra bổ sung của toà án cấp sơ thẩm
những vấn đề lý luận và thực tiễn

CHUYÊN Ngành: Luật hình sự
Mã số: 60.38.40


luận văn thạc sĩ luật học






Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS, Phạm mạnh hùng





hà Nội 2009






1


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 3
MỞ ĐẦU 7
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 7
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài 7
1.3. Phạm vi và thời gian nghiên cứu 8
1.3.1. Phạm vi nghiên cứu 8
1.3.2. Thời gian nghiên cứu 9
1.4. Mục đích nghiên cứu 9
1.5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 9
1.6. Những đóng góp mới của Luận văn 9
1.7. Kết cấu của Luận văn 10
CHƢƠNG 1 11
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG 11
1.1. Khái niệm về trả hồ sơ để điều tra bổ sung 11
1.2. Những quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm
trong các giai đoạn pháp triển của pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam 14

2
1.3. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án ở một số nƣớc trên
thế giới 15

1.3.1.Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Cộng hoà Liên bang
Đức 20
1.3.2. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Liên bang Nga 23
1.3.2. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa 26
CHƢƠNG 2 29
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ VIỆC
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM 29
2.1. Những căn cứ ( các trƣờng hợp ) Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung 29
2.1.1. Các căn cứ pháp luật và thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung 45
2.1.2. Thủ tục Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung 46
2.2. Việc giải quyết của Viện kiểm sát sau khi Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung 50
2.3. Thời hạn chuẩn bị xét xử của Toà án sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ
sung 52
CHƢƠNG 3 54
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ
SUNG CỦA TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM ( TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ, KHẮC PHỤC NHẰM HẠN CHẾ VIỆC
TRẢ LẠI HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG 54
3.1. Thực trạng áp dụng các quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà
án cấp sơ thẩm ( trên địa bàn Thành phố Hà nội ) 54
3.1.1. Tình hình Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung 54

3
3.1.2. Lý do Toà án các Quận, Huyện thuộc Thành phố Hà nội trả hồ sơ để
điều tra bổ sung 57
3.1.3. Nguyên nhân của tình trạng Toà án trả hố sơ để điều tra bổ sung 65
3.3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung 68

3.3.1. Một số giải pháp 68
3.1.2. Một số kiến nghị 72
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
PHỤ LỤC 85















4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
BCA Bộ Công an
BTP Bộ Tƣ Pháp
CHLB Cộng hoà Liên bang
NQ Nghị Quyết

NĐ Nghị Định
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TAND Tòa án nhân dân
TTLT Thông tƣ liên tịch
XHCN Xã hội chủ nghĩa
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao










5
DANH MỤC CÁC BẢNG
1.Bảng thống kê các vụ án do Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra
bổ sung ( trên toàn quốc).
2. Bảng thống kê các vụ án do Toà án cấp sơ thẩm trên địa bàn Thành Phố Hà
Nội trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung ( từ năm 2003 - 2007).


















6
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xƣớng đã và đang đƣợc tiến hành
một cách toàn diện, sâu sắc. Những thành tựu to lớn do quá trình đổi mới
mang lại đã tạo ra những tiền đề cần thiết đƣa đất nƣớc ta bƣớc vào một thời
kỳ mới. Cùng với công cuộc đổi mới kinh tế và cải cách hành chính, Đảng và
Nhà nƣớc ta đang chủ trƣơng đẩy mạnh cải cách tƣ pháp và coi đây là nhân tố
quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, góp phần làm cho dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Nhiều tƣ tƣởng, quan điểm, định hƣớng về cải cách tƣ
pháp trong các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08 – NQ/ TW
ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị “ Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49 – NQ/ TW ngày 2/6/2005 của
Bộ chính trị “ Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đặt ra nhiều
vấn đề cần tiếp tục đƣợc thể chế hoá thành những quy định của pháp luật
trong đó có pháp luật tố tụng hình sự, đồng thời những hạn chế bất cập của
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cần đƣợc khắc phục nhằm đảm bảo nâng
cao chất lƣợng của hoạt động tƣ pháp, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân chủ
của công dân, bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản pháp luật,
đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống

tội phạm hiện nay.
Trong những năm qua, hoạt động tƣ pháp của các cơ quan tƣ pháp đã
có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng việc áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự trong việc giải quyết các vụ án không đúng và không thống
nhất cũng nhƣ việc áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong đó
có chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của các cơ quan tiến hành tố tụng
còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến việc giải quyết vụ án còn kéo dài gây lãng

7
phí thời gian, công sức, tài sản của Nhà nƣớc và làm ảnh hƣởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
Việc nghiên cứu một cách hệ thống những quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự hiện hành về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ
thẩm ( trên địa bàn Hà Nội giai đoạn từ năm 2003 đến 2007 ), nhằm đối chiếu
với thực tế và đƣa ra những kiến nghị, giải pháp góp phần giải quyết hạn chế
tình trạng trên là rất cần thiết.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho đến nay, chƣa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống về vấn đề này. Một số bài viết trong các sách, báo
pháp lý có đề cập đến vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhƣ bài viết “
Những trƣờng hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 179
BLTTHS”. Tạp chí TAND số 5 tháng 3 năm 2006 của tác giả Nguyễn Đức
Dũng;. “ Một số ý kiến về việc áp dụng quy định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong BLTTHS năm 2003”. Tạp chí TAND số 6 tháng 3 năm 2006 của tác giả
Nguyễn Minh Đức. Song các bài viết đó mới đề cập, xem xét đến các trƣờng
hợp Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhƣng chƣa giải quyết đƣợc vấn đề
tổng thể về lý luận và thực tiễn cũng nhƣ chƣa đƣa ra đƣợc những giải pháp
thực hiện trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự.
1.3. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
1.3.1. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ luật học với tên đề tài nhƣ đã nêu
trên, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Nghiên cứu những quy định về thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung
của Toà án cấp sơ thẩm trong pháp luật tố tụng Việt Nam.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung của Toà án, những vƣớng mắc trong

8
quá trình áp dụng pháp luật, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lƣợng giải quyết các vụ án hình sự.
1.3.2. Thời gian nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam về việc Tòa án cấp sơ thẩm ( trên địa bàn Hà Nội ) trả
hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn từ năm 2003 – 2007.
1.4. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận có liên quan đến thủ tục trả
hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án.
- Phân tích, nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về trả hồ sơ điều
tra bổ sung của Toà án.
- Đƣa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp
luật về thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án.
1.5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở phƣơng pháp luận của Luận văn là các nguyên lý của Chủ
nghĩa Mác - Lênin; Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, Nhà
nƣớc về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền.
- Để nghiên cứu Luận văn, tác giả sử dụng một cách tổng thể các
phƣơng pháp phân tích, quy nạp, đối chiếu, so sánh, phƣơng pháp tổng kết
lịch sử, thống kê hình sự. Việc nghiên cứu đề tài dựa vào các văn bản pháp
luật có liên quan đến việc Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, những số liệu
thống kê, tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát

nhân dân tối cao và các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn Hà Nội.
1.6. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của Pháp
luật Tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
Tòa án cấp sơ thẩm và phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình

9
sự trong việc giải quyết các vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa
bàn thành phố Hà nội từ năm 2003 – 2007. Từ kết quả nghiên cứu luận văn,
tác giả đƣa ra những giải pháp cụ thể để hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều
tra bổ sung của các cơ quan tiến hành tố tụng ở Việt Nam.
1.7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn đƣợc xây dựng dựa trên mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu của đề tài, theo đó cơ cấu của luận văn bao gồm:
- Chƣơng 1: Những vấn đề chung về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Chƣơng 2: Những Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm.
- Chƣơng 3: Thực trạng áp dụng các quy định về trả hồ sơ để điều tra
bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm ( trên địa bàn Thành phố Hà Nội ) và một số
giải pháp kiến nghị, khắc phục nhằm hạn chế việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung.
- Kết Luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
- Phụ lục.









10
CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
1.1. Khái niệm về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm là chế định pháp lý
đƣợc quy định tại Điều 179 và khoản 2 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 179 quy định về việc Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ
sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khoản 2 Điều 199 BLTTHS quy định
Hội đồng xét xử trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa. Đây là quyền
năng pháp lý của Tòa án đƣợc thực hiện khi có căn cứ pháp luật cho rằng việc
điều tra, truy tố, các vụ án hình sự còn thiếu sót, chƣa đảm bảo khách quan,
đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong hệ thống khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay, khái niệm trả hồ
sơ điều tra bổ sung cũng chƣa có khái niệm cụ thể. Điều 179 BLTTHS chỉ
quy định căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán; Khoản 2 Điều
199 BLTTHS không quy định cụ thể căn cứ Hội đồng xét xử sơ thẩm yêu cầu
điều tra bổ sung. Song nghiên cứu tổng thể các quy định của BLTTHS và qua
thực tiễn áp dụng pháp luật có thể thấy Điều 179 BLTTHS cũng chính là căn
cứ để Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Việc áp dụng các căn cứ
quy định tại điều 179 của Hội đồng xét xử là phù hợp với thực tế trong giải
quyết vụ án hình sự.
Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm có
những đặc điểm sau:
- Chủ thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung là thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử
của Toà án cấp sơ thẩm. Sau khi thụ lý hồ sơ của Viện Kiểm sát truy tố, nếu
có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS thì Thẩm

phán hoặc Hội đồng xét xử có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, quyết định này do Thẩm phán đƣợc phân
công thụ lý vụ án ban hành, nếu tại phiên toà mới phát hiện ra các căn cứ quy

11
định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS thì việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung do
Hội đồng xét xử quyết định.
- Chủ thể tiếp nhận hồ sơ Toà án trả để điều tra bổ sung là Viện Kiểm sát
nơi ra quyết định truy tố.
- Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Toà án cấp sơ thẩm chỉ đƣợc trả hồ
sơ cho Viện Kiểm sát khi có các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 179
BLTTHS.
Để tránh tình trạng kéo dài việc giải quyết vụ án, Toà án chỉ trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung nếu xét thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng có ý
nghĩa quyết định đến nội dung vụ án mà Toà án không bổ sung đƣợc tại phiên
toà. Ví dụ, những chứng cứ liên quan đến việc định tội hoặc ảnh hƣởng đến
trách nhiệm hình sự và hình phạt của bị cáo.
Nếu xác định có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc vụ án
có đồng phạm khác thì tuỳ từng trƣờng hợp nếu thấy việc trả lại hồ sơ không
cần thiết thì vẫn tiến hành xét xử. Ví dụ, có căn cứ xác định ngoài hành vi
phạm tội của bị can đã bị điều tra, truy tố còn có căn cứ để xác định bị can
phạm một tội khác mà việc điều tra, truy tố về tội đó không thể hoàn thành
sớm đƣợc, đồng thời tội đó độc lập với hành vi phạm tội đã đƣợc điều tra,
truy tố thì vẫn tiến hành xét xử đối với tội mà Viện kiểm sát có quyết định
truy tố, đối với tội mới phát hiện thì Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ
án hoặc có văn bản đề nghị Cơ quan điều tra khởi tố giải quyết bằng một vụ
án khác.
Đối với trƣờng hợp có vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra,
truy tố. Hiện nay cũng chƣa có văn bản nào quy định, hƣớng dẫn thế nào là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thực tiễn xét xử những năm qua cho thấy,

vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là những vi phạm do việc cơ quan tiến
hành tố tụng không làm hoặc làm không đúng với quy định của pháp luật ảnh

12
hƣởng đến việc xác định sự thật của vụ án hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng.
Mục đích, ý nghĩa của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà
án cấp sơ thẩm:
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là nhằm bảo đảm tránh bỏ lọt tội phạm
cũng nhƣ làm oan ngƣời vô tội. Qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung các cơ
quan tiến hành tố tụng và những ngƣời tiến hành tố tụng đánh giá những
nguyên nhân của những vấn đề đã làm đƣợc và những tồn tại. Một mặt, vừa
kịp thời sửa chữa, khắc phục những tồn tại đó, mặt khác thâu lƣợm tích luỹ
thêm đƣợc những kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động điều tra, truy tố và
xét xử.
Chức năng chính của Toà án là xét xử. Do đó, mọi chứng cứ đã đƣợc
điều tra, thu thập trong hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu để Toà án xem xét, kiểm tra
nhằm đƣa ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định của pháp
luật. Tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập đƣợc trong giai đoạn điều
tra, truy tố đều đƣợc đƣa ra xem xét công khai tại phiên toà thông qua việc xét
hỏi và tranh luận xét xử dựa vào kết quả điều tra, truy tố và hoạt động buộc
tội chính thức của Viện kiểm sát tại phiên toà. Mặt khác, việc xét xử không
thể bỏ qua kết quả thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên toà do cả phía
buộc tội ( Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, ngƣời bị hại ) và phía bào chữa gỡ
tội đƣa ra ( bị can, bị cáo, ngƣời bào chữa, nhân chứng gỡ tội ) và đặc biệt là
kết quả tranh tụng công khai tại phiên toà sẽ đem lại cho Toà án có đƣợc phán
quyết chính xác để tuyên đƣợc bản án đúng pháp luật.
Qua các phân tích trên, tác giả đƣa ra khái niệm: “Trả hồ sơ để điều tra
bổ sung của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” nhƣ sau:
“Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm là việc Toà án

cấp sơ thẩm trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên toà quyết định trả
lại hồ sơ hình sự cho Viện Kiểm sát nơi ra quyết định truy tố để điều tra bổ

13
sung nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố để đảm
bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện và đúng
các quy định của pháp luật”.
1.2. Những quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án
cấp sơ thẩm trong các giai đoạn phát triển của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo ra một bƣớc
ngoặt lớn cho đất nƣớc ta, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa đƣợc thành
lập. Tuy nhiên, do mới hình thành nên bộ máy cơ quan nhà nƣớc Việt Nam
nói chung và các cơ quan tƣ pháp nói riêng đều thiếu và yếu. Trong khi đó,
tình hình chính trị và an ninh trật tự của đất nƣớc diễn biến phức tạp, đòi hỏi
phải thành lập kịp thời hệ thống Toà án nhân dân và Toà án quân sự để xét xử
các vụ án hình sự. Bên cạnh hệ thống Toà án nhân dân thì Viện công tố cũng
đƣợc thành lập. Lúc đó hoạt động xét xử tuân theo sắc lệnh số 13/SL ngày 24.
01.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành.
Theo quy định tại Điều 17 của Sắc lệnh thì Toà án sơ cấp ( quận, huyện)
xét xử về dân sự và thƣơng sự, Chánh án xử một mình. Những khi xử các việc
tiểu hình, phải có thêm hai viên Phụ thẩm Nhân dân góp ý kiến. Toà án xét xử
những vụ việc do Ban tƣ pháp xã lập biên bản đệ lên. Mặc dù đã có Viện công
tố nhƣng Viện công tố chỉ lập Cáo trạng ở phiên toà Đại hình. Do đó không
có quy định về việc Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở Toà án sơ cấp
Cùng với việc cải cách bộ máy các cơ quan hành chính nhà nƣớc, hệ
thống Toà án tƣ pháp cũng đƣợc kiện toàn. Sắc lệnh số 85 ngày 25/5/1950
quy định đổi tên các Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp, thƣợng thẩm thành TAND
huyện, TAND tỉnh, TAND liên khu. Theo Sắc lệnh 150/SL ngày 22/11/1950
thì TAND liên khu là sự hợp nhất giữa Toà Thƣợng thẩm và Toà án quân sự.

TAND liên khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án và quyết định sơ
thẩm của TAND tỉnh hoặc thành phố và xét xử các tội phản cách mạng.

14
Ngày 17/11/1950, Chủ Tịch nƣớc ra Sắc lệnh số 157/SL tổ chức các
TAND vùng tạm bị chiếm đóng. Thẩm quyển của những Toà án này rộng hơn
các Toà án vùng tự do. Theo Điều 3 Sắc lệnh 157 thì “TAND vùng bị tạm
chiếm có thẩm quyền của TAND huyện, TAND tỉnh và Toà án quân sự”.
Thẩm quyền của Toà án cấp huyện theo Luật Tổ chức TAND 1981
đƣợc xác định theo loại việc chứ không xác định theo mức hình phạt mà TA
có thể áp dụng nhƣ trƣớc đây. Sau khi Luật Tổ chức TAND 1981 đƣợc ban
hành, ngày 6/2/1982 TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tƣ pháp, Bộ Nội vụ ( nay là
Bộ Công an ) ban hành Thông tƣ liên ngành hƣớng dẫn thực hiện thẩm quyền
của TA cấp huyện. Theo Thông tƣ này, các TAND huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc Tỉnh đƣợc xét xử những tội phạm về hình sự thƣờng mà khung
1 của hình phạt từ 7 năm tù trở xuống, nếu là hình phạt đƣợc quy định trong
khung 2 nhƣng thực tế chỉ cần xử phạt tƣơng đƣơng với khung 1 vì có những
tình tiết giảm nhẹ quan trọng thì TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc Tỉnh cũng có thẩm quyền xét xử. Toà án cấp huyện không có thẩm
quyền xét xử những tội phản cách mạng và những vụ án có tính chất nghiêm
trọng, phức tạp gây hậu quả lớn.
Trƣớc khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, các văn bản pháp
luật trƣớc đó quy định về thẩm quyền xét xử cũng nhƣ thủ tục xét xử tại phiên
toà sơ thẩm của Toà án nhƣng không có quy định nào về việc Toà án cấp sơ
thẩm trả hồ sơ cho Viện kiểm sát ( trƣớc đây là Viện công tố)
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm đƣợc quy
định lần đầu tiên tại Điều 154 và Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988.
Điều 154 BLTTHS năm 1988 quy định: Quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung.


15
1. “ Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra
bổ sung trong những trường hợp sau đây:
a. Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà
không thể bổ sung tại phiên toà được;
b. Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng
phạm khác;
c. Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nói rõ trong quyết định
yêu cầu điều tra bổ sung.
2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới đình chỉ vụ án thì Viện Kiểm sát
ra quyết định đình chỉ vụ án và báo cho Toà án biết.
Trong trường hợp Viện Kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà
Toà án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Toà án vẫn
tiến hành xét xử”.
Điều 173 BLTTHS năm 1988 quy định: Việc ra bản án và các quyết định
của Toà án
“1
2. Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát
viên, người giám định, người phiên dịch, Thư ký Toà án, chuyển vụ án, yêu
cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam
hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án
và phải được lập thành văn bản”.
Để việc áp dụng các quy định của pháp luật đƣợc thống nhất trong hoạt
động thực xét xử cho các Toà án cấp dƣới. Ngày 8-12-1988, Toà án nhân dân

16
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tƣ liên ngành số 01/
TTLN “ Hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự ”

tại Mục 4 Phần 1 Thông tƣ quy định: “ Khi Toà án trả hồ sơ để Viện kiểm sát
điều tra bổ sung, thì Toà án xoá sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Toà án trả
hồ sơ vào sổ thụ lý của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Toà án thụ lý lại. Ngày
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và ngày thụ lý lại cũng đƣợc đóng dấu ( hoặc
ghi ) vào bìa hồ sơ. Do đó, đối với quyết định đƣa vụ án ra xét xử trƣớc đó
Toà án không phải giải quyết gì, mà vẫn đƣợc lƣu trong hồ sơ vụ án. Sau khi
Viện kiểm sát đã điều tra bổ sung hoặc không bổ sung đƣợc những vấn đề mà
Toà án yêu cầu điều tra bổ sung và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án thì Toà án
thụ lý lại và giải quyết vụ án theo thủ tục chung. khi nhận lại hồ sơ trong
thời hạn 15 ngày, Toà án ra quyết định đƣa vụ án ra xét xử ”
Tuy nhiên, Thông tƣ trên cũng chỉ quy định về trình tự thụ lý khi Toà
án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát chứ không hƣớng dẫn về việc thực hiện Điều
154 BLTTHS. Bên cạnh đó, BLTTHS chƣa có quy định cụ thể về vấn đề thời
hạn điều tra bổ sung là nhƣ thế nào, nên ngày 05.11.1996, liên ngành Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ nội vụ ( nay là Bộ
công an ) thống nhất ra Thông báo số 61/ KT- LN hƣớng dẫn về thời hạn điều
tra bổ sung tại điểm c khoản 5 Mục IV Thông báo quy định “ Trƣờng hợp Toà
án trả lại hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không
quá 1 tháng. Nếu vụ án có bị can bị tạm giam nhƣng đã hết thời hạn tạm giam
thì Viện kiểm sát ra lệnh tạm giam tiếp 30 ngày. Việc điều tra bổ sung phải
hoàn thành trong thời gian trên dù hồ sơ vụ án ở Cơ quan điều tra hoặc ở Viện
kiểm sát”.
Ngày 10.06.2002, Toà án nhân dân tối cao có hƣớng dẫn tại Công văn
số 81/2002/TANDTC “ Mặc dù trong phần xét xử sơ thẩm của BLTTHS
không có điều luật quy định cụ thể việc Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung nhƣ quy định tại Điều 154 quy định tại phiên toà sơ thẩm.
Khi thấy có một trong các trƣờng hợp quy định tại khoản 1 Điều 154 Bộ luật

17
tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử không đƣợc ra quyết định trả hồ sơ để điều

tra bổ sung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 173 BLTTHS thì một trong các
quyết định mà Hội đồng xét xử phải thảo luận và thông qua tại phòng nghị án
là quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Điều đó có nghĩa là, tại phiên toà khi
xét thấy có một trong các trƣờng hợp quy định tại khoản 1 Điều 154
BLTTHS thì Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 173 BLTTHS để ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”.
Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định các căn cứ để
Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đối chiếu với quy định tại Điều 154
BLTTHS năm 1988 thì quy định tại Điều 179 trong BLTTHS năm 2003 cơ
bản không có gì thay đổi, chỉ khác nhau ở một số từ nhƣ: “Những vấn đề cần
điều tra bổ sung phải đƣợc nói rõ trong quyết định yêu cầu bổ sung”
(BLTTHS 2003 sửa “nói rõ” thành “nêu rõ”), “nếu kết quả điều tra bổ sung
dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và
báo cho Toà án biết” (BLTTHS 2003 sửa “báo” thành “thông báo”) và đoạn
cuối của Điều 179 bổ sung thêm cụm từ “vụ án”. Điều 199 thay đổi cụm từ “
viết ” bằng cụm từ “ lập” tại khoản 3. Việc giữ nguyên nội dung và chỉ sửa
đổi câu chữ trong các điều luật cho thấy quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Tòa án mang tính ổn định và phù hợp với thực tiễn xét xử của nƣớc
ta. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là việc áp dụng chúng trong hoạt động
tố tụng không có vƣớng mắc gì. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thời gian
qua cho thấy còn nhiều vụ án Viện kiểm sát trả cho Cơ quan điều tra, Toà án
trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Trong số hồ sơ bị trả lại,
không ít trƣờng hợp sau khi nhận lại hồ sơ, Viện kiểm sát lại chuyển ngay hồ
sơ sang Toà án, thậm chí có vụ hồ sơ bị trả, nhận lại nhiều lần. Tình trạng trên
làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài, gây lãng phí thời gian, công sức và
tiền bạc, làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những ngƣời tham
gia tố tụng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của việc trả, nhận lại hồ sơ
mà không điều tra bổ sung là do nhận thức không thống nhất của các Cơ quan

18

tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng về nội dung quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự đối với các trƣờng hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS năm 2003 quy định, Toà án chỉ đƣợc ra
quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung không quá hai lần
và theo hƣớng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ- HĐTP ngày 05.11.2004
của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hƣớng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ ba “ Xét xử sơ thẩm ” của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003, nếu phát hiện thấy vấn đề cần điều tra bổ sung thì vẫn phải tiếp tục
nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án để xem xét có vấn đề nào khác cần điều tra bổ
sung hay không. Toà án chỉ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ
hai trong trƣờng hợp những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung trong quyết định
tra hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ nhất chƣa đƣợc điều tra bổ sung hoặc tuy
đã đƣợc điều tra bổ sung, nhƣng chƣa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ
sung xét thấy cần điều tra bổ sung vấn đề mới. Nhƣ vậy, Thẩm phán đƣợc
phân công chủ toạ phiên toà sơ thẩm trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chỉ đƣợc
trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để điều tra bổ sung không quá hai
lần. Do đó, nếu sau khi đã trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung lần thứ hai,
nhƣng Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra vẫn không điều tra theo yêu cầu của
Toà án, thì Thẩm phán phải ra quyết định đƣa vụ án ra xét xử.
1.3. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án ở một số
nƣớc trên thế giới
1.3.1 Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Cộng hoà Liên
bang Đức.
Cộng hoà Liên bang Đức ( CHLB ) là một đất nƣớc có truyền thống
pháp luật lục địa, thủ tục tố tụng hình sự của họ đƣợc xây dựng và áp dụng
trên mô hình tố tụng thẩm vấn, xét hỏi. Trên cơ sở đƣợc xây dựng, hình thành
từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trƣớc, qua quá trình dài hoàn thiện,
đƣợc sửa đổi, bổ sung nhiều lần, cho đến nay Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) của CHLB Đức có thể nói là một Bộ luật đồ sộ, công phu gồm 6


19
phần với khoảng gần 470 điều quy định cụ thể từng hoạt động, thủ tục trong
trình tự tố tụng giải quyết vụ án hình sự của CHLB Đức.
Thẩm quyền xét xử của Toà án đƣợc quy định dẫn chiếu tại Điều 1,
theo đó nêu ngắn gọn: Thẩm quyền xét xử của các Toà án sẽ đƣợc Luật tổ
chức Toà án quy định. Tố tụng ở cấp sơ thẩm đƣợc quy định tại Phần hai từ
Điều 151 đến Điều 295, bao gồm các quy định về điều tra, truy tố và xét xử
sơ thẩm.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm (hay còn gọi là giai đoạn tố tụng chính) bắt
đầu khi công tố viên chuyển sang Toà án bản cáo trạng, hồ sơ vụ án và đơn đề
nghị đƣa vụ án ra xét xử (Điều 199 - Quyết định mở thủ tục chính thức).
Trƣớc khi Toà án quyết định mở thủ tục chính thức, Toà án có thể yêu cầu thu
thập chứng cứ riêng biệt để làm rõ vụ án. Quyết định này của Toà án không bị
khiếu nại ( Điều 202 - Điều tra bổ sung ).
Cơ quan thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án là Viện công tố.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự thì Viện công tố của
Cộng hoà Liên bang Đức không trực tiếp tiến hành điều tra, bổ sung chứng cứ
mà Viện công tố chỉ đạo tiến trình tiền xét xử và đƣa ra các mệnh lệnh cho
cảnh sát để tiến hành hoạt động điều tra theo yêu cầu của Toà án. Sau khi điều
tra bổ sung đầy đủ theo yêu cầu của Toà án thì Viện công tố chuyển toàn bộ
tài liệu đó cho Toà án. Sau đó Toà án có thẩm quyền sẽ quyết định liệu có đƣa
vụ án ra xét xử hay tạm thời đình chỉ (từ chối xét xử). Về nguyên tắc Toà án
sẽ quyết định xét xử vụ án khi thấy có đủ lý do để nghi ngờ bị can bị truy tố
đã thực hiện tội phạm (Điều 203 - Điều kiện mở thủ tục chính thức ). Tất
nhiên điều này hoàn toàn tuỳ thuộc vào các nhận định, đánh giá của Toà án
trên cơ sở chứng cứ do các bên đƣa ra trong giai đoạn chuẩn bị cho việc mở
phiên toà (các căn cứ thực tế). Toà án không có nghĩa vụ bắt buộc phải hành
động theo đơn của công tố viên trong việc đƣa ra các quyết định của mình
(Điều 206 – Yêu cầu không bắt buộc ). Tuy nhiên, Luật quy định cụ thể các
căn cứ để Toà án tạm thời đình chỉ tố tụng (các căn cứ pháp lý), đó là khi


20
vắng mặt bị can bị truy tố hoặc khi có cản trở mang tính cá nhân khác ngăn
cản việc đƣa vụ án ra xét xử trong một thời hạn đáng kể (Điều 205 - Chấm
dứt tạm thời ). Cũng thuộc các căn cứ pháp lý để đình chỉ tố tụng (phân biệt
với tạm thời đình chỉ và cũng có nghĩa là từ chối xét xử) đó là khi có một cản
trở mang tính thủ tục phát sinh sau khi đã có quyết định đƣa vụ án ra xét xử;
khi một chuẩn mực hình sự áp dụng vào thời điểm thực hiện tội phạm đƣợc
sửa đổi trƣớc khi ra quyết định; và nếu tố tụng đang bị tạm hoãn tại toà án
hình sự liên quan đến một tội phạm bị xử phạt theo luật cũ nhƣng không bị xử
phạt theo luật mới. Có thể hiểu là việc sửa đổi luật diễn ra trong thời gian tạm
hoãn tố tụng. Do đó khi có căn cứ thì Toà án phải ra lệnh đình chỉ tố tụng.
Các quyết định đình chỉ tố tụng này đều có thể bị khiếu nại trong thời hạn
ngắn nhất( Điều 206a - Chấm dứt mở phiên toà khi cản trở tố tụng và Điều
206b - Chấm dứt thủ tục tố tụng khi luật pháp có sửa đổi ). Trƣờng hợp sau
khi có quyết định từ chối xét xử mà phát hiện các tình tiết hoặc chứng cứ mới
thì có thể phục hồi tố tụng ( Điều 211- Hiệu lực quyết định từ chối mở thủ tục
chính).
Nhìn chung, trong giai đoạn tiền xét xử (ở Đức không có khái niệm về
giai đoạn truy tố) có thể thấy rằng Công tố viên có nhiều thẩm quyền hơn so
với cảnh sát đối với việc ra lệnh áp dụng các biện pháp cƣỡng chế tố tụng
trong giai đoạn tiền xét xử.
Kết quả là trong suốt giai đoạn tiền xét xử, không chỉ thẩm quyền của
Công tố viên mà cả những quyết định bãi bỏ tố tụng (đình chỉ) của họ đều là
đối tƣợng kiểm soát của Thẩm phán tiền xét xử. Tuy nhiên, dƣới góc độ
phƣơng pháp và chủ động trong hoạt động điều tra, công tố viên độc lập và
hoàn toàn chịu trách nhiệm. Do đó, Công tố viên có quyền kiểm soát cảnh sát,
bao gồm cả quyền chỉ đạo hoạt động điều tra, đƣa ra các hƣớng dẫn, đƣợc
thông báo về tiến độ điều tra và ra các lệnh để cảnh sát thực hiện nếu các hoạt
động điều tra liên quan, ảnh hƣởng đến các quyền cơ bản của công dân.


21
Một điểm đáng lƣu ý nữa trong giai đoạn tiền xét xử là Thẩm phán của
Đức khi tham gia tiến hành tố tụng có các chức năng khác nhau trong giai
đoạn tiền xét xử và xét xử. Ở giai đoạn điều tra, Thẩm phán tiền xét xử ( chứ
không phải là công tố viên) thực hiện chức năng kiểm soát đối với các cơ
quan có chức năng điều tra. Bất chấp vai trò chỉ đạo của công tố viên đã đƣợc
Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì công tố viên không thể ra tất cả các mệnh
lệnh áp dụng các biện pháp cƣỡng chế và hầu hết thẩm quyền áp dụng các
biện pháp cƣỡng chế tố tụng nghiêm khắc nhất thuộc về Thẩm phán tiền xét
xử. Thẩm phán có quyền xem xét tính hợp pháp của các biện pháp do Công tố
viên áp dụng chứ không chỉ xem xét tính cần thiết của các biện pháp đó. Tuy
nhiên, thẩm phán không có quyền thực hiện điều tra tƣ pháp. Nếu thông tin
mà thẩm phán yêu cầu chƣa đƣợc đáp ứng đủ thì Thẩm phán phải đề nghị
cảnh sát hoặc Công tố viên cung cấp thêm bằng chứng.
Khác với luật tố tụng Việt Nam, các quy định liên quan đến xét xử vụ
án hình sự của Toà án tại phiên toà đƣợc quy định ở phần thủ tục xét xử. Bộ
luật tố tụng hình sự CHLB Đức quy định về các quyết định và thông báo của
Toà án ( Chƣơng IV ) ở phần những quy định chung. Bên cạnh đó, Luật tố
tụng hình sự của Liên bang Đức không quy định cụ thể về thẩm quyền, thủ
tục và các căn cứ để Toà án trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung cho
Viện công tố cũng nhƣ quy định thời gian Viện công tố phải hoàn thành hồ
sơ điều tra bổ sung.
1.3.2 Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Liên bang Nga.
Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga đƣợc ĐuMa quốc gia thông qua
ngày 22/11/2001 và đƣợc Hội đồng Liên bang phê chuẩn ngày 5/12/2001. Bộ
luật gồm 18 Chƣơng 473 Điều. Chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền xét xử
của Toà án đƣợc quy định tại Mục 5 Chƣơng II – Các chủ thể tham gia tố
tụng hình sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng Liên bang Nga thì Toà án
không phải là cơ quan truy tố hình sự không thuộc bên buộc tội hoặc bên bào


22
chữa. Toà án tạo điều kiện cần thiết để các bên thực hiện các nghĩa vụ tố tụng
của mình thực hiện các quyền đƣợc giao cho họ
Điều 30 Khoản 2 quy định: Toà án cấp sơ thẩm xét xử vụ án hình sự
với thành phần sau:
1
2. Thẩm phán Toà án liên bang thẩm quyền chung và Đoàn bồi thẩm
gồm 12 thành viên xét xử những vụ án theo yêu cầu của bị can về những tội
phạm quy định tại khoản 3 Điều 31 Bộ luật này.
Điều 227 quy định – Quyền hạn của Thẩm phán đối với vụ án hình sự
đƣợc chuyển đến Toà án:
1. Đối với vụ án đƣợc chuyển đến Toà án. Thẩm phán ra một trong
những quyết định sau:
1) Chuyển vụ án theo thẩm quyền xét xử
2) Tiến hành điều tra sơ bộ
3) Đƣa vụ án ra xét xử
2. Quyết định của Thẩm phán đƣợc thể hiện ở bản quyết định, trong đó
nêu rõ:
1) Thời gian và địa điểm ra quyết định
2) Tên của Toà án, họ, tên, Thẩm phán ra quyết định
3) Những căn cứ của việc ra quyết định
3. Quyết định đƣợc ban hành trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ
ngày vụ án đƣợc chuyển đến Toà án. Nếu trong vụ án có bị can bị tạm giam
thì Thẩm phán ra quyết định trong thời hạn không quá 14 ngày kể từ ngày vụ
án đƣợc chuyển đến Toà án. Yêu cầu của các bên về việc nghiên cứu bổ sung
hồ sơ vụ án trong thời hạn nói trên đƣợc Thẩm phán xem xét giải quyết theo
thủ tục quy định tại Mục 15 Bộ luật này.
Khoản 2 Điều 229 - Những căn cứ tiến hành điều tra sơ bộ quy định:
Khi có căn cứ để trả lại vụ án cho Kiểm sát viên trong những trƣờng

hợp quy định tại Điều 237 Bộ luật này.

23
Điều 236 quy định - Những quyết định do Thẩm phán ban hành khi
kiểm tra sơ bộ
1. Căn cứ kết quả thẩm tra sơ bộ Thẩm phán ra một trong những quyết
định sau:
1)
2) Về việc trả hồ sơ vụ án cho Kiểm sát viên
2. Phán quyết của Thẩm phán thể hiện dƣới hình thức bản quyết định
phù hợp với những yêu cầu quy định tại Khoản 2 Điều 227 Bộ luật này.
Điều 237 quy định - Trả hồ sơ cho Kiểm sát viên
1.Thẩm phán tự mình hoặc theo yêu cầu của một trong các bên trả lại
hồ sơ vụ án cho Kiểm sát viên để khắc phục những trở ngại trong việc xét xử
của Toà án trong những trƣờng hợp , nếu:
1) Việc lập Cáo trạng hoặc quyết định truy tố vi phạm những quy
định của Bộ luật này dẫn đến Toà án không có khả năng ra bản án hoặc quyết
định dựa trên cơ sở bản Cáo trạng hoặc quyết định truy tố đó.
2) Bản sao bản Cáo trạng hoặc quyết định truy tố không đƣợc giao
cho bị can
3) Cần thiết phải lập bản Cáo trạng hoặc quyết định truy tố và chuyển
cho Toà án kèm theo quyết định biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Trong những trƣờng hợp quy định tại khoản 1 điều này Thẩm phán
giao trách nhiệm cho Kiểm sát viên trong thời hạn 5 ngày phải bảo đảm khắc
phục những vi phạm
3. Trong trƣờng hợp trả hồ sơ vụ án cho Kiểm sát viên, Thẩm phán
quyết định vấn đề về biện pháp ngăn chặn đối với bị can
Khoản 2 Điều 238 quy định - Tạm đình chỉ giải quyết vụ án
1.Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án:
1) Trong trƣờng hợp bị can bỏ trốn và không biết đƣợc họ đang ở đâu



24
2. Trong trƣờng hợp quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều này Thẩm
phán tạm đình chỉ giải quyết vụ án và nếu bị can bị tạm giam bỏ trốn thì trả
hồ sơ cho Kiểm sát viên và giao cho Kiểm sát viên bảo đảm việc truy nã hoặc
bị can không bị tạm giam nhƣng bỏ trốn thì áp dụng biện pháp tạm giam đối
với họ và giao cho Kiểm sát viên bảo đảm việc truy nã họ
Nhƣ vậy, thẩm quyền ra quyết định trả hồ sơ là Thẩm phán và chủ thể
nhận hồ sơ là Kiểm sát viên. Khi nhận hồ sơ, trong quá trình nghiên cứu nếu
thấy cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung về tố tụng ( tức là việc lập cáo
trạng có vi phạm tố tụng dẫn đến Toà án không có khả năng ra bản án) hoặc
bị can bỏ trốn phải ra quyết định truy nã. Thẩm phán cũng có thể trả hồ sơ cho
Kiểm sát viên theo yêu cầu của các bên tham gia tố tụng nếu có căn cứ cho
rằng việc lập Cáo trạng có vi phạm. Khi trả hồ sơ cho Kiểm sát viên thì Thẩm
phán phải ra quyết định nêu rõ nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung và giao
trách nhiệm cho Kiểm sát viên trong thời hạn 05 ngày phải bảo đảm khắc
phục những vi phạm đó.
Những quy định về thẩm quyền, thủ tục và thời hạn của việc trả hồ sơ
để điều tra bổ sung của Toà án cấp sơ thẩm rất cụ thể, rõ ràng làm cho quá
trình giải quyết vụ án đƣợc nhanh chóng đảm bảo đúng các quy định của pháp
luật. Đây là điểm khác biệt so với quy định tƣơng ứng trong pháp luật nƣớc
ta.
1.3.3 Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa
Bộ luật Tố tụng của nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đƣợc thông
qua tại Kỳ họp thứ hai Đại hội Đại biểu nhân dân Toàn quốc lần thứ 5 ngày
01 tháng 7 năm 1979 và đƣợc sửa đổi theo quyết định sửa đổi Luật tố tụng
hình sự cua nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thông qua tại Kỳ họp thứ tƣ
Đại biểu Nhân dân Toàn Quốc lần thứ 8 ngày 17 tháng 3 năm 1996, có hiệu

lực thi hành kể từ ngày 1/1/1997. Bộ luật bao gồm 4 phần. Phần thứ 1: Những
quy định chung gồm 9 Chƣơng 82 Điều; Phần thứ 2: Khởi tố vụ án, Điều tra

×