Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Pháp luật Việt Nam về bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tiến trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 133 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








ĐỖ TUYẾT HẠNH






PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ











LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







ĐỖ TUYẾT HẠNH






PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ



Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC Nguyễn Lan Nguyên





Hà Nội – 2012

1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ BIỂN, ĐẢO 7
1.1. Pháp luật quốc tế về biển, đảo 14
1.1.1. Tiến trình phát triển của pháp luật quốc tế về biển, đảo 14
1.1.2. Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 16
1.2. Pháp luật về quản lý biển, đảo của một số quốc gia trên thế giới 22
1.2.1. Pháp luật về quản lý biển, đảo của Canada 22
1.2.2. Pháp luật về quản lý biển, đảo của Trung Quốc 25
1.2.3. Pháp luật về quản lý biển, đảo của Nhật Bản 28
CHƯƠNG 2: HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
BIỂN, ĐẢO 32
2.1. Khái quát chung về hội nhập 32
2.2. Pháp luật về biển, đảo Việt Nam qua các thời kỳ 34
2.2.1. Pháp luật về biển, đảo giai đoạn trước năm 1945 34
2.2.2. Pháp luật về biển, đảo giai đoạn từ năm 1945- 1954…………………37
2.2.3. Pháp luật về biển, đảo giai đoạn từ năm 1954-1975 40
2.2.4. Pháp luật về biển, đảo giai đoạn từ khi đất nước thống nhất (sau 1975) 41
2.3. Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và thực thi các điều ước quốc tế
về biển, đảo 42
2.3.1. Vai trò của các điều ước quốc tế về biển, đảo đối với Việt Nam 42
2.3.2. Tham gia và thực thi các điều ước quốc tế về biển, đảo trong tiến trình hội
nhập quốc tế hiện nay của Việt Nam 43
2.4. Thực trạng hệ thống pháp luật về biển, đảo của Việt Nam. 57
2.4.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực biển, đảo 57
2.4.2. Pháp luật về biển, đảo trong một số lĩnh vực chính 62
2.4.3. Một vài nhận xét, đánh giá hệ thống pháp luật về biển, đảo của Việt Nam 82

2
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VỀ BIỂN, ĐẢO TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 91

3.1. Định hướng sửa đổi, bổ sung pháp luật về biển, đảo của Việt Nam 93
3.1.1. Xây dựng một đạo luật khung về biển, đảo 93
3.1.2. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành và chính sách đơn
ngành 94
3.1.3. Xây dựng chính sách biển, đảo quốc gia toàn diện, tổng quát 94
3.1.4. Xác định lộ trình thời gian, kế hoạch chi tiết 95
3.1.5. Thành lập cơ chế phối hợp liên ngành quản lý biển, đảo 95
3.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển, đảo trong tiến trình hội nhập
quốc tế 95
3.2.1 Nguyên tắc sửa đổi, bổ sung, thống nhất hệ thống pháp luật về biển, đảo của
Việt Nam 95
3.2.2. Giải pháp cụ thể 96
3.2.3. Ban hành Luật Biển Việt Nam – Một yêu cầu cấp bách 109
KẾT LUẬN 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO 122


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài 3.260km, diện tích thềm lục địa
trên 1 triệu km
2
, diện tích vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1.000.000km
2
, có
trên 3.000 đảo lớn nhỏ phân bố tập trung ở ven bờ tây bắc vịnh Bắc Bộ và hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm giữa biển. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển gắn với khai thác tối đa
tiềm năng từ biển, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) chỉ rõ: “Phát

triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm với những
ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế
biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế”.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, tình hình biển Đông có nhiều diễn biến
phức tạp. Trung Quốc liên tục có hành vi gây hấn vi phạm chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; tranh chấp chủ quyền
giữa một số quốc gia trong khu vực liên tiếp xảy ra với cường độ lớn, mật độ
ngày càng nhiều. Để giải quyết xung đột này cần áp dụng quy định của luật
pháp quốc tế, căn cứ vào chứng cứ pháp lý và lịch sử. Một yếu tố không kém
quan trọng là Việt Nam phải xây dựng được một hệ thống pháp luật về biển,
đảo toàn diện, thống nhất, khoa học, chặt chẽ, phù hợp với các công ước, điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Việc nâng cao ý thức pháp luật về biển,
đảo cho cộng đồng, đặc biệt là ngư dân cũng rất cần thiết để xây dựng một
trật tự pháp lý trên biển, bảo đảm cho việc khai thác tiềm năng và bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Để giải quyết mối quan hệ này, yêu cầu khách quan đòi hỏi
có một hệ thống pháp luật về biển ổn định, thống nhất và nâng cao ý thức
pháp luật về biển cho cộng đồng nhằm tạo cơ sở và điều kiện pháp lý cho việc
thiết lập một trật tự pháp lý trên biển. Xuất phát từ yêu cầu này, tác giả đã
chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tiến

4
trình hội nhập quốc tế” nhằm đưa ra một cách nhìn tổng quát về hệ thống
pháp luật về biển, đảo hiện hành của Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao tính pháp lý trong các văn bản quy phạm pháp luật về
biển, đảo nhằm giải quyết và xử lý một cách thỏa đáng, phù hợp với pháp luật
trong nước và quốc tế, các tranh chấp nảy sinh cũng như tạo điều kiện thuận
lợi cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ nguồn tài nguyên biển, bảo vệ
tự do hàng hải ở biển Đông.
2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn tình hình, Luận văn đưa ra một cách

nhìn tổng quát về hệ thống pháp luật về biển, đảo hiện hành của Việt Nam;
đánh giá những tồn tại hạn chế của hệ thống văn bản pháp luật về biển, đảo;
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tính pháp lý trong các văn bản quy
phạm pháp luật về biển, đảo nhằm giải quyết và xử lý một cách thỏa đáng,
phù hợp với pháp luật trong nước và quốc tế, các tranh chấp nảy sinh cũng
như tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ
nguồn tài nguyên biển, bảo vệ tự do hàng hải ở biển Đông.
3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Ngày nay nước nào cũng quan tâm đến biển và các hải đảo, xu hướng
“tiến ra biển” vì lợi ích nhiều mặt, đã dẫn đến các tranh chấp về chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển, đảo. Để giải quyết
mối quan hệ này, yêu cầu khách quan đòi hỏi có một hệ thống pháp luật về
biển ổn định, thống nhất và nâng cao ý thức pháp luật về biển cho cộng đồng
nhằm tạo cơ sở và điều kiện pháp lý cho việc thiết lập một trật tự pháp lý trên
biển. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu, đánh giá tính sự tương thích những quy định của pháp luật Việt Nam với
các điều ước quốc tế về biển, đảo, đặc biệt là Công ước Luật biển năm 1982

5
trong tiến trình hội nhập quốc tế, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ
thống pháp luật về biển, đảo của Việt Nam từ trung ương đến địa phương.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu và hoàn thiện luận văn
dựa trên cơ sở lý luận Học thuyết Mác – Lê nin về duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử để tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và thực
tiễn, trên cơ sở đó tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng để đánh giá các vấn
đề nghiên cứu một cách khoa học.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng phương
pháp logic kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so

sánh để giải quyết các vấn đề trong nội dung luận văn thạc sỹ.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu, luận
văn, bài viết về lĩnh vực biển, đảo. Tuy nhiên đa số tập trung vào các lĩnh vực
chuyên ngành như hàng hải, môi trường biển, phát triển kinh tế biển, quá trình
thực thi các điều ước, quốc tế về biển của Việt Nam hoặc là nêu chứng cứ
pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng đã có một số công trình nghiên cứu về chính
sách, pháp luật biển, đảo một cách hệ thống toàn diện nhưng lại được công bố
cách đây khá lâu. Do vậy, đề tài này hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào
những khoảng trống đó. Luận văn đã đưa ra được một số đề xuất, kiến nghị
mới sau:
- Rà soát, hệ thống hóa toàn bộ các văn bản pháp luật về biển, đảo.
- Đánh giá thực trạng, phân tích, nêu những bất cập, hạn chế trong quá
trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật về biển, đảo.

6
- Là cơ sở để chuyển hóa một cách toàn diện Công ước Luật biển năm
1982 và các điều ước quốc tế khác về biển, đảo vào quy định của pháp luật
Việt Nam.
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật quản lý theo ngành, theo lãnh thổ.
- Nêu các giải pháp cho việc nghiên cứu, đề xuất thành lập Bộ các vấn
đề về biển, đảo hoặc một cơ quan tương đương.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung quan
trọng vào lĩnh vực pháp luật về bảo vệ chủ quyền và khai thác tiềm năng biển,
đảo; góp phần nâng cao nhận thức lí luận về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của việc hoàn thiện pháp luật về biển đảo đối với các cơ quan chức năng và
người dân, đồng thời đóng góp vào việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các
cơ sỏ khoa học của việc xây dựng chiến lược pháp luật trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.

Những đề xuất, kiến nghị trong luận văn có thể góp phần tích cực cho
việc hoàn thiện pháp luật biển, đảo trong tổng thể phát triển của hệ thống
pháp luật Việt Nam.
Hy vọng, Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với các
nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và sinh viên.
6. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, ba chương nội dung, phần kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.
* Nội dung chính của các chương cụ thể như sau
- Chương I: Giới thiệu tổng quan pháp luật quốc tế và pháp luật một số
quốc gia về biển, đảo.
- Chương II: Hội nhập quốc tế và pháp luật Việt Nam về biển, đảo.
- Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển,
đảo trong tiến trình hội nhập quốc tế.

7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP
LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ BIỂN, ĐẢO
Không ai phủ nhận vai trò, tầm quan trọng của biển đối với nhân loại.
Từ xa xưa tới nay, bất cứ quốc gia, vùng lãnh thổ nào, dù có hay không tiếp
giáp với biển, đều nhận thấy tầm ảnh hưởng của biển đối với sự phát triển, sự
thịnh vượng của dân tộc mình, quốc gia mình. Ngày nay, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cộng với việc các nguồn tài nguyên trên
đất liền ngày càng bị cạn kiệt khiến nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên
từ biển lại càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều khẳng định thế kỷ tới là thế kỷ của đại dương và không ngừng
đầu tư tiền của, tiềm lực quân sự để khai thác, tranh giành kiểm soát, tăng
quyền lực của mình trên biển. Với diện tích 361 triệu km
2
, biển cả và đại

dương chiếm 71% toàn bộ bề mặt hành tinh và được phân thành 4 đại dương:
Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương.[8]
Biển và đại dương cung cấp một lượng hơi nước rất lớn để duy trì cuộc
sống của các sinh vật; là kho tài nguyên sinh vật biển phong phú và đa dạng.
Biển cả và đại dương có nhiều loại khoáng sản quý hiếm, chỉ riêng đáy Thái
Bình Dương, người ta ước tính các kết cuội đa kim tập trung thành những mỏ
quan trọng có trữ lượng rất lớn: mangan khoảng 400 tỷ tấn, đồng 8,8 tỷ tấn,
côban 5,8 tỷ tấn, titan 10 tỷ tấn, niken 16,4 tỷ tấn, sắt 20 tỷ tấn v.v… Riêng
trữ lượng dầu mỏ ở biển và đại dương có hàng chục tỷ tấn, khí thiên nhiên
ước có 14.000 tỷ m
3
[8]. Con người cũng có thể thu năng lượng từ sóng biển,
dòng hải lưu thủy triều để làm nguồn năng lượng phục vụ đời sống con người.
Biển và đại dương còn là con đường giao thông vận tải hết sức rộng lớn và
quan trọng nối liền các nước và các lục địa. Khối lượng vận chuyển đường
biển trên thế giới rất lớn, thường chiếm tới ¾ lượng hàng hóa trao đổi trên thế
giới với giá thành vận chuyển đường biển chỉ bằng 40-45% giá vận chuyển

8
đường sắt và thấp hơn 20 lần vận chuyển bằng ô tô[8]. Ngày nay, ngành du
lịch biển đang phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành nguồn thu nhập chính
của nhiều quốc gia ven biển.
Vị trí địa lý của biển và hải đảo Việt Nam
Biển Đông có diện tích hơn 3,4 triệu km
2
, nằm ở rìa phía Tây Thái
Bình Dương, là một biển lớn so với nhiều biển khác trên thế giới. Biển Đông
là biển nửa kín do phía Đông có các đảo và quần đảo bao bọc. Biển Đông
được bao bọc bởi 9 nước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Indonexia,
Brunei, Malaixia, Xingapo, Thái Lan, Campuchia và vùng lãnh thổ Đài Loan.

Theo ước tính sơ bộ, biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của
khoảng 300 triệu dân của các nước và vùng lãnh thổ này [4].
Việt Nam nằm bên bờ biển Đông, có vùng biển rộng trên 1 triệu km
2
.
Bờ biển Việt Nam dài trên 3.260 km ở cả ba hướng: Đông, Nam và Tây Nam.
Việt Nam có hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng
nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xác định gần gấp
ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km², trung bình khoảng 100km
2

đất liền có 1km bờ biển. Vùng ven biển có trên 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ các
loại, chủ yếu nằm ở Vịnh Bắc Bộ, với diện tích khoảng 1.700 km
2
, trong đó,
có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km
2
, 23 đảo có diện tích lớn hơn 10 km
2
, 82
đảo có diện tích lớn hơn 1 km
2
và khoảng trên 1.400 đảo chưa có tên [6].
Dải đất liền nước ta giáp Biển Đông ở phía Đông và Nam, trải dài từ
Bắc xuống Nam theo chiều dài đất nước. Lãnh thổ Việt Nam dài và hẹp, nơi
rộng nhất 540km, nơi hẹp nhất dưới 50km, do vậy, Biển Đông gắn bó mật
thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân trên hầu khắp đất
nước. Các vùng biển và hải đảo nước ta nằm trong Biển Đông có nhiều khu
vực khác nhau, nổi bật nhất là ở Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan, hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và một số đảo, quần đảo khác:


9
Vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía Tây Biển Đông, trải rộng từ kinh tuyến
105
o
36

Đông đến 109
o
55

Đông, trải dài từ vĩ tuyến 21
o
55

Bắc đến 17
o
10


Bắc. Vịnh Bắc Bộ có diện tích 126.250km
2
, chiều ngang nơi rộng nhất
khoảng 310km và nơi hẹp nhất khoảng 220km [5]. Vịnh Bắc Bộ được bao
bọc bởi bờ biển và hải đảo miền Bắc Việt Nam ở phía Tây, bởi lục địa Trung
Quốc ở phía Bắc, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam ở phía Đông. Bờ vịnh
khúc khuỷu và ven bờ có nhiều đảo. Phần vịnh phía Việt Nam có khoảng
3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có đảo Bạch Long Vĩ với diện tích khoảng
2,5km

2
, cách đất liền của Việt Nam khoảng 110km, cách đảo Hải Nam của
Trung Quốc khoảng 130km. Vịnh Bắc Bộ tương đối nông, độ sâu trung bình
khoảng 40-50m, sâu nhất cũng chỉ trên dưới 100m. Đáy biển tương đối bằng
phẳng, độ dốc nhỏ. Thềm lục địa của Việt Nam ở vùng Vịnh Bắc Bộ khá rộng, độ
dốc thoải và có một lòng máng sâu trên 70m gần đảo Hải Nam của Trung Quốc. [8]
Vịnh Thái Lan
Vịnh Thái Lan nằm ở phía Tây Nam của Biển Đông, được bao bọc bởi
bờ biển Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Malaysia. Vịnh Thái Lan có diện
tích 293.000km
2
, chu vi khoảng 2.300km, chiều dài vịnh khoảng 628km [5].
Vịnh Thái Lan là một vịnh nông, nơi sâu nhất chỉ 80m. Các đảo lớn trong
vịnh có Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, đảo PouluWai, đảo Kocúc, đảo Kotao,
đảo Kophangan, đảo Kosamni. [8]
Các đảo và quần đảo
Vùng biển nước ta có trên 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó vùng biển
Đông Bắc có trên 3.000 đảo, Bắc Trung Bộ trên 40 đảo, còn lại là ở vùng biển
Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Căn cứ vào vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý kinh tế, dân cư,
thường người ta chia các đảo, quần đảo thành các nhóm:

10
Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trên các đảo có thể lập những căn cứ kiểm soát vùng biển và
vùng trời; kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền; bảo đảm an ninh quốc phòng,
xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đó là
các đảo, quần đảo như Hoàng Sa, Trường Sa, Chàng Tây, Bạch Long Vĩ, Hòn
Mát, Hòn Mê, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc [8].
+ Quần đảo Hoàng Sa: Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa

Biển Đông. Từ lâu, Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt
Nam với tên Bãi Cát Vàng. Quần đảo Hoàng Sa gồm khoảng 30 đảo nhỏ, đá,
bãi ngầm, cồn san hô, với tổng diện tích khoảng 10km
2
nằm rải rác trên một
vùng biển rộng khoảng 15.000km
2
, trong khoảng vĩ độ 15
o
45

Bắc đến 17
o
15’
Bắc, từ kinh độ 1110 Đông tới 1130 Đông. Quần đảo Hoàng Sa chia làm 2
nhóm chính: nhóm phía Đông (An Vĩnh) có khoảng 12 đảo nhỏ và một số đảo
đá san hô, trong đó có 2 đảo lớn hơn là Phú Lâm và Linh Côn (xấp xỉ 1,5
km
2
). Nhóm phía Tây gồm nhiều đảo xếp vòng cung nên còn được gọi là
nhóm Lưỡi Liềm, gồm Hoàng Sa, Quang Ảnh, Hữu Nhật, Quang Hòa, Duy
Mộng, Chim Yến, Tri Tôn [51]… Dưới triều Nguyễn, Quần đảo Hoàng Sa
thuộc phủ Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Nam. Năm 1938 thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1961 gọi là xã Định Hải, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Năm 1982
Chính phủ ta quyết định thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam -
Đà Nẵng. Năm 1956, Trung Quốc chiếm phần phía Đông của quần đảo
Hoàng Sa. Tháng 1 năm 1974, trong lúc quân và dân ta đang tập trung sức
tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc đã đưa quân ra đánh
chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
+ Quần đảo Trường Sa: cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về

phía Nam, quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san
hô nằm trải rộng trong một vùng biển khoảng 180.000 km
2
với chiều Đông

11
Tây là 325 hải lý, chiều Bắc Nam là 274 hải lý, từ vĩ độ 6
o
30’ Bắc đến 12
o

Bắc và từ kinh độ 111
o
30’ Đông đến 117
o
20’ Đông, cách Cam Ranh 248 hải
lý, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 595 hải lý. Quần đảo Trường Sa được
chia làm 8 cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa,
Thám Hiểm, Bình Nguyên. [8]. Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất
khắc nghiệt: nắng gió, giông bão thường xuyên, thiếu nước ngọt, nhiều đảo
không có cây. Quần đảo Trường Sa không chỉ là vị trí quân sự chiến lược án
ngữ phía Đông Nam nước ta, bảo vệ vùng biển và hải đảo ven bờ, mà còn là
một vùng có trữ lượng phốt-phát khá lớn, có nhiều loại động thực vật và có
thể có nhiều dầu. Hiện tại có một số quốc gia, vùng lãnh thổ đang tranh chấp
chủ quyền quần đảo Trương Sa với ta như Philippin, Malaysia, Đài Loan,
Trung Quốc. Gần đây Trung Quốc liên tiếp cho phép các tàu sang xâm chiếm
vùng biển Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Các tàu Trung Quốc liên
tiếp cắt cáp dẫn gây ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế cũng như quan hệ đối
ngoại giữa hai nước.
Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã

hội như Cô Tô, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc.
Các đảo ven bờ gần đất liền, có điều kiện phát triển nghề cá và cũng là
căn cứ để bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta như các
đảo thuộc huyện đảo Cát Bà, huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), huyện
đảo Phú Quý (Bình Thuận), huyện Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), huyện đảo
Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang) v.v…
Tầm quan trọng của biển và hải đảo Việt Nam
Lãnh thổ nước ta có đường biển chạy theo hướng Bắc Nam, lại nằm kề
trên đường biển quốc tế quan trọng của thế giới, có những vũng sâu kín gió là
điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển và mở rộng giao lưu
với bên ngoài. Hệ thống quần đảo và đảo cùng với đất liền ven biển hình

12
thành thế bố trí chiến lược kết hợp trên bờ, dưới nước, tạo điều kiện cho việc
phòng thủ, bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển.
Biển Đông được coi là con đường chiến lược về giao lưu và thương
mại quốc tế giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Hầu hết các nước trong
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đều có các hoạt động thương mại hàng
hải rất mạnh trên biển Đông. Trong tổng số 10 tuyến đường biển lớn nhất trên
thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua biển Đông hoặc có liên quan đến biển
Đông [4]. Biển Đông đóng vai trò là chiếc “cầu nối” cực kỳ quan trọng, là
điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa nước ta với
các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước trong khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Biển và vùng ven biển là “mặt tiền” quan trọng thông ra Thái
Bình Dương và hội nhập mạnh mẽ ra nước ngoài. Sự hình thành mạng lưới
cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối các vùng
sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép các vùng
biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hóa xuất, nhập khẩu tới
mọi miền Tổ quốc, đồng thời thu hút cả vùng Tây – Nam Trung Quốc, Lào,
Đông Bắc Thái Lan và Campuchia.

Hiện nay, các nước trong khu vực đang tích cực khởi động chương
trình phát triển Tiểu vùng Mê Kông, Việt Nam và Trung Quốc đang hợp tác
xây dựng và thực hiện chương trình Vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ, coi đó là
một cực tăng trưởng mới trong khuôn khổ của Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Trung Quốc (CAFTA).
Với 3.260 km đường bờ biển trải dài trên 13 vĩ độ, chạy qua 29 tỉnh,
thành phố gồm 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện
đảo, 53 xã đảo), các địa phương ven biển đã thu hút 20 triệu người sống ở ven
bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Biển nước ta có khoảng 11.000 loài sinh
vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình thuộc 6 vùng đa dạng sinh

13
học biển khác nhau. Trữ lượng hải sản biển Việt Nam dao động trong khoảng
3,1 - 4,2 triệu tấn/năm, với khả năng khai thác 1,4 - 1,6 triệu tấn/năm[22].
Việt Nam có nhiều bể trầm tích chứa dầu khí. Tổng trữ lượng dầu khí ở
biển Việt Nam ước tính khoảng 10 tỉ tấn dầu quy đổi với khoảng 20 vị trí có
tích tụ dầu khí. Dầu khí Việt Nam tuy chưa khai thác đúng tiềm năng nhưng
được xem là ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và
hiện đại nhất trong các ngành khai thác biển. Bên cạnh nguồn dầu khí, biển
Việt Nam còn có nhiều loại khoáng vật, phi quặng (sa khoáng), photphorit và
các biểu hiện của than bùn, glauconit, pyrit, thạch cao, kết hạch sắt, mangan,
cát vôi san hô và cát sạn sỏi là vật liệu xây dựng, cát thủy tinh.
Với đường bờ biển dài, nhiều vũng vịnh, đường biển từ lâu đã trở thành
con đường vận tải quan trọng của Việt Nam trong việc giao thương hàng hóa
trong nước và trên thế giới. Dọc bờ biển nước ta có khoảng 100 địa điểm có
thể xây dựng được các cảng biển cộng với hệ thống sông ngòi dày đặc tạo
điều kiện thuận lợi cho thông thương nội địa Việt Nam và với các nước khác
trong khu vực.
Dọc theo bờ biển nước ta có nhiều bãi biển, vùng vịnh đẹp thích hợp
cho nhiều loại hình du lịch khác nhau như pinic, du lịch kết hợp nghỉ dưỡng,

khám phá thiên nhiên. Thêm vào đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện
thuận lợi cho họat động du lịch biển diễn ra quanh năm. Trong tương lai,
ngành du lịch biển ở nước ta sẽ phát triển tương xứng với tiềm năng của biển,
góp phần mở rộng giao lưu văn hóa và tăng thu ngoại tệ cho quốc gia.
Biển Đông (trong đó có vùng biển Việt Nam) có vị trí địa kinh tế và
chính trị quan trọng như vậy, nên từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong
chiến lược phát triển không chỉ ở các nước xung quanh biển Đông mà còn của
một số cường quốc hàng hải khác trên thế giới. Đó cũng là một trong những
lý do khiến những tranh chấp ở vùng biển này ngày càng có xu hướng gia tăng.

14
1.1. Pháp luật quốc tế về biển, đảo
1.1.1. Tiến trình phát triển của pháp luật quốc tế về biển, đảo
Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, ngay từ thế kỷ thứ XV nhiều
quốc gia đã đua tranh mở rộng tầm ảnh hưởng của quốc gia mình trên biển.
Nhiều quốc gia đã xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh, không ngừng đầu
tư tiền bạc với mục đích chiếm lĩnh thị phần khai thác, sử dụng biển. Các
quốc gia đã nhận thức được rằng “biển cả không phải là nguồn tài nguyên vô
tận mà biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng trong việc khai thác sử
dụng biển” [47].
Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ, trên đất liền cũng như trên biển được
nhiều quốc gia đặc biệt quan tâm. Ở thế kỷ XIV và XV tại các nước phương
Tây người ta đã thừa nhận việc cấp đất của Giáo hoàng đủ để trao chủ quyền
cho một nước đối với lãnh thổ vô chủ cho các vùng lãnh thổ mới phát hiện
ngoài Châu Âu giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, trong giai đoạn
từ đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, khi các nước Hà Lan, Anh, Pháp trở thành
cường quốc đã không thừa nhận quy định trên. Các nước đã tìm ra nguyên tắc
mới về thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Đó
chính là thuyết "quyền phát hiện”. Tuy nhiên, thực tế rất khó xác định chính
xác thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện và xác định giá trị pháp lý

của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ. Vì thế, việc phát hiện đã mau chóng
được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát
hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu vết trên vùng lãnh thổ mà họ phát
hiện như một bia hay một mốc chủ quyền hay một dấu hiệu quốc gia có giá trị
hợp lệ mới được coi là có chủ quyền lãnh thổ. Thuyết quyền phát hiện đã
được thay thế bằng thuyết chiếm hữu về danh nghĩa đã được các quốc gia áp
dụng từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII. Song thuyết chiếm hữu về danh
nghĩa càng ngày càng bộc lộ những nhược điểm như việc vô tình hay cố ý

15
phát hiện và đặt dấu hiệu về chủ quyền lên những lãnh thổ mà các quốc gia
khác đã xác nhận. Chính vì vậy, thuyết chiếm hữu về danh nghĩa cũng đã bắt
đầu bị phê phán từ thế kỷ XVII. Sau đó, các chuyên gia cho rằng việc phát
hiện cần phải được bổ sung bằng các hành động chiếm đóng thực sự mới có
thể tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thụ đắc chủ quyền lãnh thổ. Chủ
quyền muốn được xác lập thì phải là thật sự, có hiệu quả, tức là đòi hỏi sự có
mặt thực tế của quốc gia chiếm hữu trên vùng lãnh thổ đó. Sau Hội nghị
Berlin về châu Phi năm 1885 của 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ và sau khoá
họp của Viện Pháp luật Quốc tế ở Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888, nguyên tắc
chiếm hữu thật sự trở thành quan điểm chiếm ưu thế trên thế giới. Điều 3,
điều 34 và 35 của Định ước Berlin ký ngày 26-6-1885 xác định nội dung của
nguyên tắc chiếm hữu thật sự với các nội dung chính: Việc xác lập chủ quyền
lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành, việc chiếm hữu phải được tiến hành một
cách hoà bình, không được dùng vũ lực để chiếm một vùng lãnh thổ đã có chủ
và việc thực hiện chủ quyền phải liên tục trên vùng lãnh thổ đó.
Tuy nhiên, việc xác định chủ quyền trên biển là tương đối khó khăn.
Rất nhiều va chạm về lợi ích trên biển giữa các quốc gia đã xảy ra dẫn đến
xung đột về vũ trang. Để dung hòa lợi ích, góp phần thiết lập chủ quyền và
quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển, giữ gìn hòa bình, an ninh, Liên
Hợp quốc đã tiến hành tổ chức các phiên họp bàn về vấn đề pháp lý của biển.

Ngay từ khi ra đời Liên hợp quốc đã khuyến khích sự phát triển của pháp luật
quốc tế và pháp điển hóa pháp luật quốc tế. Điều 13.1 Hiến chương của tổ
chức quốc tế này quy định Đại hội đồng tổ chức nghiên cứu và thông qua
những kiến nghị nhằm thúc đẩy việc pháp điển hóa và sự phát triển của luật
quốc tế theo hướng tiến bộ [39]. Quy định này đã tạo điều kiện cho quá trình
pháp điển hóa luật biển quốc tế. Nhiều Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc liên quan đến vấn đề này đã được thông qua: Nghị quyết số 1803

16
(XVII) ngày 18/1/1962 về tuyên bố chủ quyền vĩnh cửu của các tài nguyên
thiên nhiên; Nghị quyết số 2749 (XXV) ngày 17/2/1970 về tuyên bố nguyên
tắc quản lý đáy biển và đại dương cũng như các lòng đất của chúng nằm ngoài
ranh giới quyền tài phán quốc gia; Nghị quyết số 3016 (XXVII) năm 1973 về
chủ quyền vĩnh cửu của các quốc gia trên các tài nguyên các vùng biển nằm
trong ranh giới tài phán quốc gia. Tòa án pháp lý quốc tế cũng đưa ra những
phán quyết điển hình mang tính pháp lý quốc tế như: Nguyên tắc tự do thông
thương hàng hải; Phương pháp xác định đường cơ sở thẳng; Nguyên lý “đất
thống trị biển”. Hội nghị lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật Biển tổ chức
tại Giơ ne vơ đã cho ra đời 4 công ước: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp
giáp lãnh hải; Công ước về biển cả; Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài
nguyên sinh vật biển cả; Công ước về thềm lục địa. Sau 5 năm trù bị, Hội
nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ III đã họp từ năm 1973 đến 1982, kéo dài 9
năm, qua 11 khóa họp, cuối cùng, ngày 30-4-1982 đã thông qua một Công
ước mới về Luật Biển với 320 điều khoản, 9 phụ lục và 4 nghị quyết. Tính
đến ngày 24 tháng 12 năm 2011, đã có 160 quốc gia trở thành thành viên của
Công ước này [31]. Việt Nam là nước thứ 63 phê chuẩn Công ước này thông
qua nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày
23 tháng 6 năm 1994 và nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn vào ngày 25 tháng
7 năm 1994. Đây “là cơ sở pháp lý quan trọng giúp cộng đồng quốc tế quản
lý, sử dụng, khai thác và bảo vệ hữu hiệu nguồn tài nguyên biển cả” [23]

1.1.2. Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982
Hiện nay, trong tổng số trên 200 quốc gia trên thế giới chỉ có khoảng
30 nước không có biển. Vai trò của biển và đại dương đối với các quốc gia
ngày càng quan trọng thì mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước càng dễ nảy
sinh và ngày càng gay gắt. Do đó, cần có pháp luật để điều chỉnh mối quan hệ

17
giữa các nước, góp phần xây dựng và phát triển sự hợp tác quốc tế, bảo đảm
và duy trì hòa bình và an ninh cho các dân tộc trên thế giới.
Các đại dương trên thế giới không phải là một “không gian phi luật
pháp”. Có rất nhiều các công cụ pháp lý quy định các lĩnh vực khác nhau của
luật biển. Trong số đó toàn diện nhất phải kể đến công ước Luật Biển 1982
của Liên hợp quốc. Hầu như tất cả các quốc gia ven Biển Đông đều là thành
viên của Công ước, do đó Công ước là một công cụ quan trọng có thể áp dụng
ở khu vực [31].
Công ước về Luật Biển năm 1982 có nội dung tiến bộ so với các công
ước trước đây. Nó đã đề ra một trật tự pháp lý mới trên biển và đại dương
tương đối công bằng, góp phần bảo vệ tốt hơn chủ quyền, an ninh của các
nước, đặc biệt là chủ quyền về các nguồn tài nguyên biển với các quy định về
các vùng đặc quyền kinh tế, về thềm lục địa. Mặt khác, nó cũng có tác dụng
điều chỉnh việc khai thác tài nguyên ở vùng biển quốc tế, ở đáy đại dương.
Ngoài ra, Công ước còn có nhiều quy định thực hiện sự hợp tác quốc tế về
nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng, chủ quyền và cùng có lợi giữa các quốc gia
trên các vùng biển khác nhau, nhằm sử dụng biển và tài nguyên biển vì lợi ích
chính đáng của mọi quốc gia và vì lợi ích của hòa bình và an ninh quốc tế.
Công ước đã thiết lập một trật tự pháp lý mới trên biển, được thừa nhận rộng
rãi. Tuy nhiên, kể từ khi chính thức có hiệu lực Công ước về luật biển năm
1982 luôn được phát triển, bổ sung và hoàn thiện trong khuôn khổ khung
pháp lý trên biển mà Công ước đã thiết lập. Nhiều công ước, nghị định mới đã
được bổ sung và nhiều quốc gia đã thực thi một cách thiện chí Công ước này.

Công ước luật biển năm 1982 đã định ra khung pháp lý cho các quốc gia
trong việc xác định các vùng biển; xác định ranh giới biên giới trên biển giữa
các quốc gia; đưa ra các khái niệm, thuật ngữ để các quốc gia, vùng lãnh thổ
căn cứ vào đó xác định được ranh giới, chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển.

18
Nội thủy
Điều 8 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định:
“Các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của
quốc gia”. Nước ven biển có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ, tuyệt đối trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên toàn bộ nội thủy của mình.
Đường cơ sở là đường từ đó tính chiều rộng các vùng biển thuộc chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia như lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng kinh tế
đặc quyền và thềm lục địa. Các quốc gia ven biển tự quyết định đường cơ sở
của mình, nhưng phải vạch rõ trên bản đồ hoặc xác định bằng tọa độ và công
bố công khai, tuy nhiên phải theo đúng các quy định của Luật biển quốc tế.
Lãnh hải
Điều 3 Công ước năm 1982 có ghi: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn
định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý
kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”. Lãnh hải là vùng biển
thuộc chủ quyền của nước ven biển, nằm ngay sát bên ngoài nội thủy. Đường
ranh giới phía ngoài của lãnh hải được coi là biên giới quốc gia trên biển. Chủ
quyền đối với vùng lãnh hải cũng tương tự như vùng nội thủy và vùng đất
liền, nghĩa là bao gồm cả mặt biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy của vùng
biển này và vùng trời ở trên lãnh hải. Tuy nhiên, chủ quyền của quốc gia
trong lãnh hải không hoàn toàn đầy đủ như trong nội thủy. Theo điều 17 Công
ước 1982 “Với điều kiện chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc
gia có biển hay không có biển, được hưởng quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải. Công ước 1982 cũng quy định nước ven biển không được cản trở
hay phân biệt đối xử trong việc đi qua không gây hại của tàu thuyền bất cứ

nước nào. Nhưng xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia đối với lãnh hải
và để bảo vệ an toàn cho tàu thuyền qua lại, nước ven biển có thể quy định và
bố trí phân luồng giao thông nhằm điều phối việc qua lại của tàu thuyền và có

19
quyền ban hành các luật lệ để kiểm soát và giám sát việc đi lại đó, cũng như
truy tố, xét xử những người có hành động vi phạm pháp luật để bảo vệ quyền
lợi của nước mình nhưng phải phù hợp với pháp luật quốc tế.
Vùng tiếp giáp lãnh hải
Điều 33 Công ước 1982 có ghi: “Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá
24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”. Vùng tiếp
giáp lãnh hải là vùng biển nằm sát ngoài lãnh hải và có mối quan hệ mật thiết
với lãnh hải. Trong vùng tiếp giáp, nước ven biển có thể thi hành sự kiểm soát
cần thiết như ngăn ngừa và trừng trị những vi phạm các luật và quy định về hải
quan, thuế, y tế hay nhập cư, trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
Vùng đặc quyền về kinh tế
Theo điều 57 của Công ước năm 1982 thì “chiều rộng của vùng đặc
quyền về kinh tế không mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải”. Điều 55 của Công ước này nêu đó là vùng đặc biệt
và “đặt dưới một chế độ pháp lý riêng, theo đó các quyền và quyền tài phán
của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các nước khác do các quy định
thích hợp của Công ước điều chỉnh”. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc
gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, bảo
tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng
nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về
các hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế
như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Các quốc gia cũng có quyền
tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc lắp đặt và
sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về
biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.

Điều 58 của Công ước 1982 cũng quy định, các quốc gia có biển và
không có biển đều được hưởng các quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền

20
tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm cùng quyền tự do sử dụng biển vào những
mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và phù hợp với các quy định khác của
Công ước về các quyền tự do này, đồng thời phải tôn trọng các luật và quy định
của các quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng quy định của Công ước.
Thềm lục địa
Điều 76 Công ước 1982 có ghi: “Thềm lục địa của một quốc gia ven
biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc
gia đó trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó
cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở
khoảng cách gần hơn” và “Nước nào có thềm lục địa tự nhiên rộng quá 200
hải lý thì thềm lục địa có thể mở rộng ra tới không quá 350 hải lý kể từ đường
cơ sở hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường nối liền các điểm có chiều sâu
2500 mét”. Điều 77 của Công ước 1982 quy định “Quốc gia ven biển có
quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên
thiên nhiên ở thềm lục địa của mình”. Như vậy, quyền chủ quyền của nước
ven biển về tài nguyên đối với thềm lục địa là trọn vẹn, không chia sẻ với bất
cứ nước nào khác.
Đối với phần thềm lục địa từ ngoài 200 hải lý đến 350 hải lý, khi nước
ven biển tiến hành khai thác tài nguyên sẽ phải đóng góp tài chính cho quốc tế
trừ trường hợp nước ven biển đó là nước đang phát triển và loại tài nguyên
khai thác được lại chính là loại tài nguyên nước đó đang phải nhập khẩu.
Nước ven biển trong khi thực hiện quyền chủ quyền của mình ở thềm
lục địa, vẫn phải bảo đảm cho tất cả các nước khác được hưởng các quyền tự
do hàng không, tự do hàng hải, tự do đặt các dây cáp và ống dẫn dầu ngầm
trên thềm lục địa của mình. Ngược lại, các nước khi thực hiện các quyền tự do

đó cũng phải tôn trọng quyền chủ quyền của nước chủ nhà trong việc thăm

21
dò, khai thác tài nguyên và phải tôn trọng các biện pháp mà nước ven biển đề
ra, nhằm mục đích chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường biển. Ở vùng nước
phía trên thềm lục địa nằm ngoài phạm vi 200 hải lý, nước ven biển có nghĩa
vụ cho các nước khác được tự do đánh cá nhưng họ phải tuân theo các quy
định về khai thác và bảo vệ tài nguyên sinh vật ở biển cả.
Biển cả
Biển cả là vùng biển không nằm trong phạm vi nội thủy, lãnh hải vùng
đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của bất cứ quốc gia nào. Điều 87 Công
ước 1982 có ghi:
Về “tự do trên biển cả”: Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia
dù có biển cũng như không có biển. Quyền tự do trên biển được thực hiện
trong những điều kiện do các quy định của Công ước và những quy tắc khác
của pháp luật quốc tế điều chỉnh.
Các nước được hưởng ở biển cả: Tự do hàng hải; Tự do bay (hàng
không); Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; Tự do xây dựng những đảo nhân
tạo và các công trình khác; Tự do đánh cá; Tự do nghiên cứu khoa học. Khi
thực hiện các quyền tự do này, các quốc gia phải tuân thủ các điều khoản của
Công ước có liên quan, phải tính đến lợi ích của việc thực hiện quyền tự do
trên biển cả của các quốc gia khác cũng như đến các quyền được Công ước
thừa nhận liên quan đến các hoạt động trong vùng.
Vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn
quyền tài phán quốc gia
Vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền
tài phán quốc gia, nơi chứa đựng các mỏ kết cuội đa kim khổng lồ, đã được
Công ước 1982 tuyên bố là “di sản chung của nhân loại”. Một cơ quan quyền
lực quốc tế được thành lập theo Công ước thay mặt toàn thể loài người quản
lý, tổ chức, kiểm soát các hoạt động trong vùng. “Không một quốc gia nào có


22
thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần
nào đó của vùng hoặc đối với tài nguyên của vùng”. Theo tinh thần Công ước
1982 thì nước ta cũng có những quyền lợi và nghĩa vụ không phải chỉ bó hẹp
trong các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, mà còn mở
rộng ra tới biển cả, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới
hạn chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.
1.2. Pháp luật về quản lý biển, đảo của một số quốc gia trên thế giới
1.2.1. Pháp luật về quản lý biển, đảo của Canada
Canada là một quốc gia có diện tích tự nhiên lớn với ba mặt giáp biển,
là một trong những quốc gia có đường bờ biển dài nhất thế giới. Với tổng
diện tích vùng biển khoảng 3 triệu km
2
và khoảng 24% tổng dân số sinh sống
dọc bờ biển, biển từ lâu đã trở thành một lợi thế to lớn cho việc phát triển
kinh tế - xã hội ở Canada [53]
Canada là một trong những nước đi đầu trong việc xây dựng chính sách
biển tổng thể ở tầm quốc gia, áp dụng phương thức quản lý tổng hợp - một
phương thức quản lý hiện đại, thích hợp đối với biển. Hệ thống chính sách,
pháp luật về biển của Canada được xây dựng và phát triển trong một thời gian
dài gắn với quá trình thay đổi tư duy về quản lý biển.
Trước đây, Canada tự xem mình là một quốc gia thủy sản, hàng hải và
chú trọng phát triển hai lĩnh vực này trong khai thác và sử dụng biển. Với
nguồn tài nguyên biển phong phú và tính đa dạng sinh học cao cùng với quan
niệm “tài nguyên biển là vô tận”, một thời gian dài, biển là địa bàn cho mọi
đối tượng khai thác và sử dụng (open access). Về sau này, do sự phát triển của
khoa học - công nghệ, sự gia tăng mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư cho các hoạt
động khai thác, tài nguyên biển dần dần cạn kiệt và ở một số vùng biển,
Chính phủ phải can thiệp bằng nhiều biện pháp khác nhau, kể cả việc đóng

cửa các khu vực khai thác nhằm ngăn ngừa nguy cơ suy thoái về nguồn lợi

23
thủy sản. Bên cạnh đó, việc xuất hiện và phát triển những ngành, nghề mới đã
làm nảy sinh nhiều vấn đề trong quản lý biển ở Canada. Chẳng hạn như việc
nhiều ngành, nghề cùng sử dụng chung mặt nước biển sẽ dẫn đến tình trạng
mâu thuẫn về lợi ích, chồng chéo về trách nhiệm và trùng lặp về thẩm quyền
quản lý. Việc quá chú trọng vào khai thác mà không hoặc ít chú ý đến bảo tồn
dẫn đến nguồn tài nguyên biển bị cạn kiệt, nhiều loại động, thực vật biển có
nguy cơ tuyệt chủng, đa dạng sinh học bị đe dọa, hệ sinh thái bị tàn phá ảnh
hưởng tới môi trường sống của con người. Lúc này, việc quản lý biển đã
không còn đơn giản như trước mà trở nên phức tạp. Cơ quan quản lý đòi hỏi
phải giải quyết một lúc nhiều vấn đề nếu muốn quản lý hiệu quả nguồn tài
nguyên biển, đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Vì vậy, Canada
phải xây dựng một hệ thống pháp luật, chính sách biển hoàn chỉnh; trong đó
nhấn mạnh vai trò của chính sách biển thống nhất ở tầm quốc gia để thực hiện
quản lý tổng hợp biển. Việc xây dựng chính sách biển quốc gia Canada được
bắt đầu bằng việc xây dựng Luật biển Canada (Canada’s Ocean Act).
Dựa trên đạo luật này, Chiến lược biển Canada được xây dựng và ban
hành năm 2002. Nó được xem là tuyên bố về chính sách của Chính phủ
Canada về quản lý các hệ sinh thái cửa sông, bờ biển và đại dương ở tầm
quốc gia. Chiến lược biển quy định về việc áp dụng phương pháp quản lý
tổng hợp đối với các vùng biển, nhấn mạnh sự hợp tác và hỗ trợ về chính sách
và chương trình quản lý giữa các cơ quan và các chủ thể liên quan. Đồng thời,
Chiến lược biển quốc gia Canada xác định rõ ba mục tiêu lớn trong quản lý
biển; đó là: hiểu biết và bảo vệ môi trường biển; hỗ trợ các cơ hội phát triển
kinh tế bền vững; và nâng cao vị thế về biển của Canada trên trường quốc tế.
Để đạt được các mục tiêu này, Chiến lược cũng đã đề ra nguyên tắc chủ đạo
cần phải tuân theo trong quá trình xây dựng và thực hiện các chương trình

×