Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và các thực hiện điều ước quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.58 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






TRỊNH VĂN CHIẾN







VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP
VÀ THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ








LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC









Hà Nội, 2013


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRỊNH VĂN CHIẾN




VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP
VÀ THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ





Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60





LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Ts VŨ ĐỨC LONG






Hà Nội, 2013


3
MC LC
Lời cam đoan Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT
CỦA QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA
NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ 16
1.1. Những vấn đề lý luận chung 16
1.1.1. Khái niệm về vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình
đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 16

1.1.2. Nội dung pháp luật giám sát của Quốc hội 30
1.1.3. Hiệu quả, ý nghĩa và yêu cầu của hoạt động giám sát của Quốc hội 42
1.2. Kinh nghiệm của một số nước về hoạt động giám sát của Quốc hội 47
1.2.1. Quy định pháp luật một số nước về hoạt động giám sát của Quốc hội 47
1.2.2. Kinh nghiệm thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội trong quá
trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của một số
nước 55
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC
TIỄN TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THEO DÕI, XEM XÉT, ĐÁNH GIÁ
CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ
NƢỚC TRONG VIỆC ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC
HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ 66
2.1. Thực trạng pháp luật quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội 66
2.1.1. Lịch sử hình thành chế định giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 66


4
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật thực định quy định về hoạt động giám sát
của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế 75
2.2. Thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội đối
với quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 78
2.2.1. Thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội
đối với việc xây dựng những điều ước quốc tế (đàm phán, ký kết, gia nhập) 79
2.2.2. Thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội
đối với việc thực hiện điều ước quốc tế 84
CHƢƠNG 3 : PHƢƠNG HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI
TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN,
KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ 88

3.1. Phương hướng 88
3.2. Những yêu cầu khách quan và điều kiện cần thiết để nâng cao vai trò
giám sát của Quốc hội 91
3.3. Một số giải pháp 101
3.3.1. Nhóm giải pháp về đối nội 101
3.3.2. Nhóm giải pháp về đối ngoại 115
KẾT LUẬN…………………………………………………… ……… 115
DANH MC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… 117



5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định trong bối cảnh quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức,
nước ta vẫn đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế; độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng
cao Tuy nhiên, trong 5 năm tới, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn,
đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, kinh tế nước ta tiếp
tục phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm, sẽ thực hiện nhiều
hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương
Về tình hình thế giới: hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường.
Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ,
tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn
ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ
cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi
trường còn tiếp tục gia tăng

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất
nước, Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là:
“ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; giữ vững ổn định chính
trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.” [10, tr 1-3].



6
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra,
phụ thuộc vào yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan đóng
vai trò quyết định, yếu tố khách quan đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc
đẩy sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đến nay,
nước ta đã củng cố và mở rộng quan hệ với các nước láng giềng, các nước đối
tác quan trọng. Đã nâng cấp quan hệ lên tầm đối tác chiến lược với 7 nước
(Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh và Tây Ban Nha) [8,
tr.12].; mở rộng hợp tác với các nước bạn bè truyền thống; thiết lập thêm
quan hệ ngoại giao với 8 nước, nâng số quốc gia có quan hệ ngoại giao với
nước ta lên 179 trong tổng số 192 nước trên thế giới. Chỉ đạo đấu tranh có
hiệu quả trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Chủ động đối thoại với
các nước, xử lý phù hợp các vấn đề nảy sinh, kiên quyết đấu tranh với các
hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của ta, bảo vệ chủ quyền và an ninh
quốc gia. Tiếp tục đối thoại ngoại giao với Tòa thánh Vaticăng trên tinh thần
thiện chí và tôn trọng Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Trong quan hệ kinh tế,
đến nay, nước ta đã có quan hệ kinh tế, thương mại với trên 170 nước và 60
vùng lãnh thổ; 92 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam. Nước ta
cũng đã có 560 dự án đầu tư tại 55 nước và vùng lãnh thổ [8, tr 13]. Việt Nam
đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên

Ecosocmic anh social council “Hội đồng kinh tế và xã hội”, ủy viên Hội đồng
chấp hành United nations development programme “Chương trình phát triển
Liên Hợp quốc”, United nations population fund “Quỹ dân số Liên Hợp
quốc” và Universal postal union “Liên minh Bưu chính thế giới” ), phát huy
vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên kết, Cộng đồng các
nước có sử dụng tiếng Pháp, Association of southeast Asian Nations “Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á” … Có thể nói ngoại giao đa phương là một


7
điểm sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới. Những kết quả đạt được
trong mối quan hệ đan xen này đã củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của đất
nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo
vệ độc lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dựng đất nước.
Trong quá trình hội nhập sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, trước yêu cầu đổi mới hội nhập và phát triển, Việt Nam đã, đang và sẽ
tích cực chủ động mở rộng quan hệ hợp tác phát triển, sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy với các nước trên thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển trên cơ
sở tuân thủ luật pháp quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Vì vậy,
việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế là đòi hỏi khách quan, là
bệ phóng cho những tiềm năng của đất nước trỗi dậy, là cơ sở pháp lý để bảo
vệ quyền lợi chính đáng của dân tộc, của nhân dân, của doanh nghiệp… Tính
từ năm 1955 trở lại đây, Việt Nam đã ký kết rất nhiều các điều ước quốc tế.
“Theo Chỉ thị số 14/2008/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
22/4/2008 chỉ tính riêng trong lĩnh vực kinh tế - thương mại là 1.082 điều
ước, trong đó 700 điều ước quốc tế hiện còn hiệu lực về thương mại, nông
nghiệp, công nghiệp, hàng hải, hàng không, đường bộ, đường sắt, lao động,
hợp tác nghề cá và phát triển thuỷ sản, du lịch, y tế, tài chính, tín dụng,
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế hai lần, bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ” [7, tr 1].

Ngày 10 tháng 10 năm 2001, Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế; tháng 6 năm 2005,
tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế. Đây được coi là một bước tiến của hệ thống pháp luật Việt Nam đánh
dấu sự quan tâm trong việc ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế.


8
Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đã có hiệu lực hơn
6 năm, cùng với sự phát triển các mối quan hệ quốc tế, số lượng các điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết và gia nhập ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó,
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới được gần 6 năm. Để tạo đà
và cơ sở pháp lý cho các mối quan hệ quốc tế nhất là trong lĩnh vực bảo vệ
chủ quyền của nhà nước, hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, việc ký kết, tham gia,
phê chuẩn các điều ước quốc tế ngày càng được Đảng, Nhà nước quan tâm.
Quốc hội Việt Nam với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước ta với các chức năng lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề
quan trọng nhất của đất nước và thực hiện giám sát tối cao trong toàn bộ hoạt
động của nhà nước trong đó có hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của điều ước quốc tế,
tạo lập cơ sở pháp lý để phát triển các quan hệ quốc tế nhất là quan hệ kinh tế,
chính trị, an ninh quốc phòng… từ đó nâng cao vị thế của nước ta trên trường
quốc tế. Vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội trong hoạt động đàm phán,
ký kết, thực hiện các điều ước quốc tế của các cơ quan nhà nước ngày càng có
ý nghĩa quan trọng gắn liền với sự gia tăng của điều ước quốc tế mà nước ta
đã tham gia, phù hợp với xu thế của thời đại là hội nhập và phát triển, hợp tác
và cùng có lợi, ổn định và tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Trong phạm
vi đề tài này, vấn đề muốn được đề cập tới là: Quốc hội Việt Nam có vai trò
như thế nào và cần phải làm gì để tăng cường giám sát của mình trong quá

trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế? Đây là một
nội dung mới, cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống làm cơ sở để
hoạch định những chính sách, những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu
lực và hiệu quả của các điều ước quốc tế, đáp ứng và thúc đẩy sự hợp tác
quốc tế toàn diện, vững bền, mang tầm vóc quốc gia, dân tộc.


9
Nhận thức được tầm quan trọng trên, tác giả đã đề xuất vấn đề cần
nghiên cứu là “Vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế ” làm Luận văn
thạc sỹ luật học, chuyên ngành Luật Quốc tế. Việc nghiên cứu vấn đề này có
ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn trong việc đổi mới tổ chức và
nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; phân định rõ vị trí, vai trò của
các cơ quan nước trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các điều ước quốc tế mà
nước ta là thành viên, thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước, tạo đà cho sự
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về hoạt động giám sát
của Quốc hội nói chung và hoạt động giám sát trong quá trình đàm phán, ký
kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế nói riêng, như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học Đổi mới hoạt động giám sát và xây dựng
quy trình giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc
hội, đây là một đề tài nhánh thuộc đề tài trọng điểm quốc gia: “Luận cứ khoa
học để xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội”
do Văn phòng Quốc hội chủ trì được triển khai nghiên cứu từ tháng 10 năm
2000. Tuy nhiên, đề tài này được nghiên cứu trong bối cảnh Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội chưa ra đời.
- Cuốn sách “Quyền giám sát của Quốc hội – nội dung và thực tiễn từ

góc nhìn tham chiếu” do Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn
phòng Quốc hội làm chủ biên xuất bản năm 2004 để thực hiện chương trình
hoạt động hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội Thụy Điển nhằm
cung cấp một số thông tin bổ ích về kinh nghiệm giám sát của Quốc hội Đức,


10
Ba Lan, Thụy Điển. Tuy nhiên, thời điểm xuất bản cuốn sách chỉ vài tháng
sau khi Luật Hoạt động giám sát có hiệu lực, do đó thực tiễn thi hành, chưa đủ
để soi rọi, đánh giá các quy định của pháp luật.
- Cuốn sách “Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội” do
Văn phòng Quốc hội xuất bản năm 2006, đề cập đến tổng quan về khái niệm
giám sát của Quốc hội, hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam theo quy
định của pháp luật, các công cụ giám sát của đại biểu Quốc hội, các kỹ năng
thực hiện quyền giám sát của đại biểu Quốc hội…
Ngoài ra, từ năm 2002 đến 2005, có một số bài viết, bài phát biểu tại
các cuộc hội thảo đóng góp ý kiến xây dựng Luật Ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế của một số nhà nghiên cứu bàn luận về vai trò giám sát
của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế.
Tuy nhiên, các đề tài, bài viết, bài phát biểu của các nhà khoa học trên
được nghiên cứu trong bối cảnh Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế của Việt Nam năm 2005, Luật Hoạt động giám sát từ năm 2003 đến
nay đã có nhiều nội dung không phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn.
Vì vậy, nghiên cứu vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá
trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế một cách hệ
thống, toàn diện là đòi hỏi khách quan nhằm góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, về ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt
động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ

quan nhà nước trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các
điều ước quốc tế.



11
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đặt trọng tâm nghiên cứu vào các vấn đề lý luận và thực tiễn
đặt ra cho Quốc hội trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với
hoạt động của các cơ quan nhà nước trong quá trình đàm phán, ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Qua việc phân tích, tổng hợp hệ thống
pháp luật thực định liên quan đến công tác này và qua thực trạng hoạt động
giám sát của Quốc hội để từ đó tìm ra được những hạn chế, bất cập của hoạt
động giám sát, đánh giá tính hợp lý, khả thi của hệ thống pháp luật, những
vấn đề còn tồn tại, những quy định chưa phù hợp hay những nội dung cần
nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao và góp phần hoàn
thiện cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước tiến hành các hoạt động đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Qua việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát tối cao
của Quốc hội trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế, Luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội về đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu nói trên, Luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:



12
- Làm rõ cơ sở pháp lý để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu
Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao trong quá trình đàm phán, ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế;
- Làm rõ ý nghĩa và tầm quan trọng hoạt động giám sát của Quốc hội
trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế;
- Làm rõ đối tượng của hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá
trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế;
- Tổng kết thực tiễn hoạt động giám sát Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước để
tìm ra hạn chế, bất cập, những nguyên nhân của các hạn chế, đề xuất những
giải pháp khắc phục những hạn chế này nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu
Quốc hội góp phần vào việc nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội; nâng cao
chất lượng hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả của điều ước quốc tế góp phần thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm, đường
lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và hoàn
thiện bộ máy nhà nước thực hiện tối ưu ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, trong đó có việc kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Quốc hội.


13

Việc nghiên cứu chủ yếu sử dụng ba phương pháp: Nghiên cứu lý
thuyết, nghiên cứu so sánh pháp luật và đối chiếu với thực tiễn:
Việc nghiên cứu lý thuyết tập trung vào các quy định của pháp luật về
hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc
hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
của các cơ quan nhà nước theo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu so sánh được áp dụng trong trường hợp đối
chiếu các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thực tiễn tổ chức hoạt động giám sát của
Quốc hội nhằm tìm ra những nhân tố hợp lý và những tồn tại hiện nay.
Để đảm bảo lý thuyết và thực tiễn luôn được đặt song song với nhau,
việc nghiên cứu các hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế cụ thể là một phần không
thể thiếu được trong Luận văn này. Những hoạt động giám sát của Quốc hội
trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được
đưa vào một cách hợp lý để chứng minh một cách chi tiết và hỗ trợ cho việc
phân tích các vấn đề pháp lý được đưa ra.
6. Ý nghĩa khoa học
Với mục đích, phạm vi và nhiệm vụ đặt ra, nội dung của Luật văn có
những điểm mới sau:
Một là, Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam nói chung và trong đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế nói riêng. Các nghiên
cứu sẽ đóp góp vào việc giải đáp các vấn đề được đặt ra, như: “ Cơ sở pháp lý


14
cho hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu

Quốc hội trong lĩnh vực này hiện nay đã đáp ứng đầy đủ chưa? Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội có vai trò như thế nào trong việc
giám sát trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế? Mối quan hệ giữa Quốc hội với cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế? Việc
thực hiện chức năng giám sát trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội có tác động như thế nào đến các cơ
quan trực tiếp tiến hành đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế? Yêu cầu giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong bối cảnh vừa hợp tác, vừa đấu tranh
với mức độ, phạm vi, nội dung, hình thức như thế nào? Vị trí, vai trò giám sát
tối cao của Quốc hội được thực hiện bằng cách nào? … Những tác động giữa
hoạt động giám sát của Quốc hội với việc đàm phán, ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế?
Hai là, dựa vào tình hình thực tế và các quy định của pháp luật về hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội Việt Nam trong quá trình đàm phán, ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, Luận văn sẽ đề xuất những quan
điểm và giải pháp có tính khả thi, góp phần vào việc hoàn thiện quy trình
giám sát của Quốc hội trong việc xây dựng và thực thi điều ước quốc tế, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, góp phần xây dựng
các điều ước quốc tế có tính khả thi cao, thúc đẩy quá trình hội nhập, phát
triển của đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia, dân tộc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có giá trị tham khảo trong việc thực
hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ


15
quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế.

Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng trong việc xây dựng và hoàn thiện
quy định của pháp luật nước ta về hoạt động giám sát của Quốc hội, về hoạt
động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, cải thiện và
hoàn thiện bộ máy nhà nước để thực hiện tối ưu ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò giám sát của Quốc hội
trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế;
- Chương 2: Thực trạng quy pháp luật và thực tiễn tác động của việc
theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan
nhà nước trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế;
- Chương 3: Phương hướng và kiến nghị nâng cao vai trò giám sát của
Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế.



16
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA
QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN, KÝ KẾT, GIA
NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ

1.1. Những vấn đề lý luận chung
1.1.1. Khái niệm về vai trò giám sát của Quốc hội Việt Nam trong quá trình
đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ƣớc quốc tế
Theo từ điển Tiếng Việt thì “vai trò” được hiểu “là tác dụng, chức

năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó”, còn “giám sát” được
hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định”
hoặc được dùng để chỉ “một chức quan đảm nhận việc theo dõi, xem xét một
công việc nào đó” [25].
Như vậy, “vai trò giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế” được hiểu là việc Quốc hội khi
thực hiện chức năng giám sát, sử dụng hợp lý các phương tiện và công cụ
theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng giám sát qua đó có những
tác động đến hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của điều ước quốc tế.
Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký
kết gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được thể hiện qua quá trình Quốc
hội xem xét các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động đàm phán, ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế do Quốc hội ban hành có được các


17
cơ quan nhà nước thực hiện đúng theo những quy định đã được Quốc hội ban
hành? Và các cơ quan nhà nước, các cá nhân thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ theo quy định của pháp luật hay không? Trên cơ sở đó để sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ những chính sách, pháp luật quy định có liên quan không còn phù hợp
với thực tiễn ký kết và thực hiện điều ước quốc tế hoặc không còn phù hợp
với cuộc sống nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật về điều ước quốc tế
thống nhất, hiện đại, toàn diện điều chỉnh các quan hệ quốc tế nhằm hợp tác
và phát triển, bảo vệ tối đa lợi ích của nhân dân, đất nước, phát triển đất nước
theo xu hướng của thời đại [9, tr 7].
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu đại
diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Vì vậy, hoạt động
giám sát của Quốc hội là chức năng giám sát tối cao đã được ghi nhận trong

Hiến pháp và pháp luật đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Theo từ điển
Luật học của Viện pháp lý, Bộ Tư pháp thì:
“Giám sát tối cao được hiểu là quyền của Quốc hội thực hiện giám sát
việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội trong toàn bộ hoạt
động của Nhà nước. Hiến pháp năm 1959 mới chỉ ghi nhận quyền của Quốc
hội giám sát việc thi hành Hiến pháp (Điều 50). Quyền giám sát tối cao của
Quốc hội trong toàn bộ hoạt động của Nhà nước lần đầu tiên được ghi nhận
tại Điều 82 Hiến pháp năm 1980 và được tiếp tục ghi nhận tại Điều 83 Hiến
pháp năm 1993. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội được thực hiện thông
qua hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp, hoạt động giám sát của Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn
đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp, Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao trong hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong việc tuân thủ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thông qua


18
việc xem xét, phê chuẩn các báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hôi, Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao.
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội, Đoàn đại biểu Quốc hội trong phạm vi quyền hạn của mình giám sát việc
tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong
hoạt động của các cơ quan, tổ chức thông qua việc xem xét các báo cáo, kiểm
tra tình hình thực tế tại chỗ cũng như tiếp xúc với cử tri tại các địa phương”
[4]. Theo từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh thì “giám sát là xem xét và
đàm hạch” [1].
Về bản chất, giám sát là việc Quốc hội thu thập thông tin về hoạt động

của các cơ quan Nhà nước hữu quan và xem xét, đánh giá thông tin thu thập
được. Việc xem xét, đánh giá này là cơ sở để Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội có thể biểu dương hoặc phê phán các chủ thể có liên quan và trong những
trường hợp nhất định, bày tỏ sự tín nhiệm của mình trong các chủ thể đó
(những người mà Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Trên cơ sở của hoạt động
giám sát sẽ giúp Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật kịp thời, chính xác
nhằm điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cá nhân có thẩm
quyền theo yêu cầu quản lý nhà nước và xã hội…qua đó vai trò của Quốc hội
mới được thể hiện. Vai trò của Quốc hội không thể tách rời hoạt động giám
sát và ngược lại Quốc hội thông qua hoạt động giám sát mới thể hiện được vai
trò của mình trong việc phát triển chế định điều ước quốc tế. Mối quan hệ
giữa vai trò của Quốc hội với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hôi là mối
quan hệ hai chiều, khăng khít với nhau, có quan hệ qua lại và tác động hỗ trợ
nhau.


19
Vì thế để thể làm rõ vai trò của Quốc hội trong hoạt động đàm phán, ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, chúng ta phải giải quyết những
vấn đề về lý luận về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội nói chung và đối
với lĩnh vực ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế nói riêng.
Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội bao trùm lên toàn bộ hoạt
động của nhà nước. Nói cách khác mọi hoạt động của nhà nước đều dưới sự
giám sát của Quốc hội, ở đây không có “điểm chết”,“khoảng trống” hay
“điểm cấm” của đời sống xã hội. Vì thế, hoạt động của các cơ quan nhà nước,
các cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế cũng không nằm ngoài thẩm quyền giám sát tối cao của
Quốc hội. Khoản 1, Điều 2, Luật số 05/2003/QH11 ngày 26/6/2003 của Quốc
hội quy định:
“Giám sát là việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng

dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội”. [17].
Như vậy, nội dung của khái niệm hoạt động giám sát của Quốc hội theo
quy định của pháp luật, bao gồm: Chủ thể giám sát, chủ thể bị giám sát, hậu
quả của hoạt động giám sát, cơ sở của hoạt động giám sát, các phương thức
để thực hiện hoạt động giám sát.
Nói đến hoạt động giám sát là nói đến hoạt động của các cơ quan dân
cử gồm có Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Thẩm quyền giám sát của
Quốc hội rất rộng lớn, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật có tính chất
pháp lý cao nhất: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao trong toàn bộ
hoạt động của Nhà nước” [16]. Điều này xuất phát từ bản chất nhà nước, nhà


20
nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân bầu ra Quốc hội trên nguyên tắc trực tiếp,
phố thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Thông qua Quốc hội, nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình, các đại biểu Quốc hội với lá phiếu bầu của
nhân dân họ sẽ thay mặt nhân dân thực hiện các chức năng của Quốc hội là
lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng và giám sát tối cao
trong toàn bộ hoạt động của nhà nước và xã hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế được hiểu là hoạt động của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội dùng các phương tiện công cụ của
mình để tiến hành tìm hiểu việc thực thi pháp luật quy định về hoạt động đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Là cơ sở để Quốc hội
xem xét, phê chuẩn, rút khỏi, bảo lưu … các điều ước quốc tế do Chủ tịch
nước trình ra Quốc hội, là cơ sở để Quốc hội sửa đổi các văn bản pháp luật

liên quan đến hoạt động giám sát và hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế…
Như vậy, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trong quá trình đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế là hoạt động theo dõi,
xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát trong việc thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đàm phán, ký kết,
gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế trên cơ sở quy định của Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội nhất là Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
Giám sát tối cao là quyền hiến định duy nhất mà chỉ có Quốc hội với vị
trí, vai trò trong hệ thống bộ máy nhà nước là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nhân dân mới được thực hiện. Vì thế, quyền này chỉ có thể tiến


21
hành tại các kỳ họp của Quốc hội với các phương thức thực hiện phù hợp với
đối tượng và nội dung giám sát nói trên. Các cơ quan của Quốc hội, các đại
biểu Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện chức năng giám sát trên
cơ sở pháp luật nhưng không phải là giám sát tối cao. Cùng với kết quả hoạt
động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và cá
nhân đại biểu Quốc hội; kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ
quan nhà nước là cơ sở để Quốc hội tiến hành thực hiện chức năng giám sát
tối cao của mình. Giám sát tối cao của Quốc hội được thể hiện ở một số khía
cạnh sau:
Về thời gian tiến hành: chỉ duy nhất được tiến hành tại phiên họp toàn
thể của Quốc hội;
Về chủ thể giám sát: là Quốc hội với ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc
hội tham dự;
Về đối tượng bị giám sát: là những người do Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn (Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước ) tiến hành

các hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
Về hậu quả pháp lý của giám sát tối cao: Quốc hội ban hành Nghị quyết
để biểu dương, phê phán, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn; ban hành Nghị quyết yêu cầu các cơ quan bãi bỏ toàn bộ
hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật trong đó có điều ước quốc tế…và
hoạt động giám sát tối cao được tiến hành trên các phương thức luật định.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế là một quá trình liên tục từ khi đàm phán
đến việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Điều này xuất phát từ
yêu cầu của thực tiễn, bên cạnh hoạt động xây dựng pháp luật thực định với
một quy trình luật định chặt chẽ nhằm bảo đảm Quốc hội xây dựng được


22
những đạo luật có tính khả thi cao thì việc giám sát hoạt động đàm phán, ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế cũng rất quan trọng vì có nhiều
quy định của điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp kể cả khi có quy định
trái với các quy định của luật thực định, hơn nữa khác với quy trình xây dựng
pháp luật, Quốc hội trực tiếp tiến hành cho ý kiến vào nội dung dự án luật
ngay từ khi “thai nghén” còn trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế phần lớn là do các cơ quan của Chính phủ, các chủ
thể được Quốc hội trao quyền tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật, vì
vậy, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trong lĩnh vực này lại càng có ý
nghĩa quan trọng nhằm tránh việc lạm quyền, tránh những thiệt hại về chính
trị, kinh tế…do sự ràng buộc của điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết, tham
gia hoặc khi thực thi những điều ước quốc tế này. Mặc khác, thông qua hoạt
động giám sát tối cao, Quốc hội còn bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các cơ
quan nhà nước trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế …
Mặc dù Hiến pháp có ghi nhận Quốc hội có quyền giám sát tối cao

trong toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước trong đó có quyền giám sát
toàn bộ hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế,
nhưng trên thực tế bản thân Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu
Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội không có đủ nguồn lực cả về thời gian và
nhân lực để có thể triển khai hoạt động giám sát một đồng bộ, sâu sát với từng
loại điều ước. Hơn nữa, để đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước và xã
hội trong điều kiện hội nhập quốc tế, tạo sự chủ động cho các cơ quan nhà
nước, các cá nhân có thẩm quyền, Quốc hội đã xây dựng một hành lang pháp
lý để các cơ quan nhà nước, các cá nhân được Quốc hội trao quyền có thể chủ
động trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc
tế, Quốc hội đã trao quyền cho các cơ quan nhà nước thay mặt Quốc hội thực


23
hiện các công việc trên và theo định kỳ phải báo cáo Quốc hội chính là việc
Quốc hội thực hiện chức năng của mình là kiểm soát quyền lực.
Trong lĩnh vực đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước Quốc
tế, Quốc hội cho ý kiến chỉ đạo việc đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế ở những lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội như những
vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân, chủ quyền biên
giới quốc gia, những vấn đề mới mà chưa có luật thực định điều chỉnh hoặc
những vấn đề trái với quy định của Hiến pháp… mà theo quy định của Luật
Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2003 là những điều ước
trước khi có hiệu lực pháp luật phải được Quốc hội phê chuẩn gồm có 3 loại
điều ước sau:
- Loại thứ nhất là: Điều ước quốc tế có quy định phải phê chuẩn;
- Loại thứ hai là: Điều ước quốc tế được ký nhân danh nhà nước;
- Loại thứ ba là: Điều ước quốc tế được ký nhân danh Chính phủ có
quy định trái với quy định trong các văn bản pháp luật do Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội hoặc có liên quan đến ngân sách nhà nước.

“Theo quy định tại Khoản 1, Điều 1, Công ước Viên 1969 về Luật Điều
ước quốc tế thì điều ước quốc tế được hiểu là một thỏa thuận quốc tế được ký
kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được luật quốc tế điều chỉnh, không
phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất
hoặc hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc
vào tên gọi của các văn kiện đó” [29].
Điều ước quốc tế là sản phẩm của quá trình vừa đấu tranh vừa hợp tác
giữa các chủ thể của Luật quốc tế, trong đó chứa đựng các quy phạm pháp lý
quốc tế làm công cụ, phương tiện để xây dựng, duy trì, phát triển quan hệ hợp


24
tác quốc tế trên mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ, cũng như mọi khuôn khổ song
phương, đa phương, hoặc thông qua tổ chức quốc tế.
Điều ước quốc tế có chủ thể, có nội dung, hình thức thể hiện nhất định
và căn cứ pháp lý để tiến hành xây dựng điều ước quốc tế.
Về chủ thể của điều ước quốc tế: trước hết, sự ra đời, tồn tại và phát
triển của điều ước quốc tế là kết quả của quá trình đấu tranh, thương lượng
của ít nhất hai chủ thể của luật quốc tế tham gia có thể là trong quá trình đàm
phán, ký kết, thực hiện hoặc trong quá trình gia nhập, ký kết, thực hiện điều
ước quốc tế. Việc đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
thể hiện quyền năng của chủ thể luật quốc tế mà chủ yếu là các quốc gia.
Một thỏa thuận được ký kết giữa một bên là quốc gia và bên kia là một
công ty hoặc một cá nhân không có tư cách đại diện cho quốc gia đó không
phải là điều ước quốc tế. Quốc gia, Chính phủ là một thực thể pháp lý và thực
hiện việc ký kết, gia nhập điều ước quốc tế thông qua một con người cụ thể
được Quốc gia, Chính phủ ủy quyền thực hiện, có thể là người đứng đầu quốc
gia, người đứng đầu Chính phủ hoặc người đứng đầu các bộ, các cơ quan của
nhà nước hoặc Quốc hội. Do đó, đôi khi các quốc gia còn gọi điều ước quốc
tế ký kết giữa nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ và người đứng

đầu các bộ, ngành.
Ngoài ra còn có các tổ chức quốc tế liên Chính phủ, phi Chính phủ, các
tổ chức quốc tế khu vực.
Hiến pháp, luật và thực tiễn của một số quốc gia phân biệt điều ước
quốc tế ký kết giữa các quốc gia (theo quy định của pháp luật Việt Nam là
điều ước cấp nhà nước), điều ước quốc tế ký kết giữa các Chính phủ (theo
quy định của Việt Nam là điều ước cấp Chính phủ) và điều ước quốc tế giữa
các bộ hoặc giữa các cơ quan hành chính (theo quy định của Việt Nam là điều


25
ước cấp ngành). Điều ước quốc tế còn có thể được phân biệt thành điều ước
song phương, điều ước đa phương, điều ước khu vực, điều ước phổ cập, "điều
ước mở" để ngỏ cho tất cả các quốc gia ký kết hoặc "điều ước đóng" chỉ có
một số quốc gia cụ thể có thể trở thành thành viên các điều ước đó [2, tr 3].
Về bản chất của điều ước quốc tế chính là sự thỏa thuận giữa các chủ
thể luật quốc tế. Nội dung của điều ước quốc tế chính là sự thỏa thuận giữa
các chủ thể luật quốc tế. Để đạt được thỏa thuận này các chủ thể của luật quốc
tế phải tiến hành đàm phán trên cơ sở đấu tranh và thương lượng, hợp tác và
thiện chí để đi đến nội dung thống nhất giữa các chủ thể được thể hiện thông
qua các điều, khoản… cụ thể, phản ánh tương quan tình hình kinh tế - chính
trị… của các chủ thể luật quốc tế. Ví dụ nước ta ký Hiệp định sơ bộ 6- 3 -
1946 với Cộng hòa Pháp để phòng tránh thù trong giặc ngoài, thêm bạn bớt
thù trong điều kiện cách mạng Việt Nam ngàn cân treo sợi tóc.
Về hình thức thể hiện của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết
hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế
hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp
ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ,

công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác…[18].

Hiệp ước: Chủ yếu dùng trong các điều ước quốc tế giữa Nhà nước với
Nhà nước về hòa bình, hữu nghị, về liên minh, về hoạch định biên giới quốc gia.
Hiệp định: Được dùng phổ biến nhất giữa Chính phủ với Chính phủ về
hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau (Hiệp định lãnh sự; Hiệp định giao
thông đường bộ, Hiệp định thương mại, Hiệp định quá cảnh, Hiệp định vận
tải hàng không v.v ) và về các Dự án cụ thể.

×