Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Xác lập biên giới trên đất liền giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 172 trang )



1
Đại học quốc gia Hà Nội
Khoa Luật






NGUYN TH HNG





Xác lập biên giới trên đất liền giữa
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa




Luận văn thạc sĩ khoa học Luật











Hà Nội, 2002


1
Đại học quốc gia Hà Nội
Khoa Luật






NGUYN TH HNG





Xác lập biên giới trên đất liền giữa
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa



CHUYấN NGNH: LUT QUC T
M S: 50512




Luận văn thạc sĩ khoa học Luật

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. NGUYN B DIN






Hà Nội, 2002


3
Tác giả xin cam đoan, Luận văn "Xác lập biên giới trên đất liền giữa Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa" là kết quả
nghiên cứu của riêng mình.
Bản luận văn này đã đƣợc hoàn thành trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp, đối
chiếu so sánh và phân tích những nguyên tắc và nội dung việc xác lập biên giới trên
đất liền giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa dƣới ánh sáng của pháp luật và thực tiễn quốc tế. Luận văn không hề sao chép
các công trình nghiên cứu hay đề tài khoa học nào khác đã đƣợc công bố.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản luận văn này, tác giả có tham
khảo một số công trình nghiên cứu, giáo trình, luận văn thạc sĩ, cử nhân, một số bài
viết chuyên đề của một số tác giả trong và ngoài nƣớc và đƣợc trích dẫn cũng nhƣ
nguồn tài liệu trích dẫn đƣợc nêu tại Danh mục Tài liệu tham khảo tại phần cuối của
Luận văn.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sự hƣớng dẫn tận tình, nghiêm túc và khoa

học của Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Luật học Nguyễn Bá Diến, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội trong quá trình tác giả thực hiện bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và đồng nghiệp của tác giả tại Ban Biên
giới đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và hoàn thành bản
luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng cán bộ trong Khoa Luật đã góp
công sức trang bị cho tôi những kiến thức về luật pháp, các anh chị học viên Lớp
Cao học Luật Khóa V đã động viên, giúp đỡ tôi vƣợt khó khăn để hoàn thành nhiệm
vụ học tập và đi về tới đích.

Nguyễn Thị Hƣờng
Học viên Cao học Luật Khóa V
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA
TRONG LUẬT PHÁP QUỐC TẾ 5
1.1. Khái niệm lãnh thổ và biên giới quốc gia 5
1.1.1. Khái niệm lãnh thổ quốc gia 5
1.1.2. Khái niệm biên giới quốc gia 7
1.2. Chức năng của biên giới quốc gia 9
1.2.1. Chức năng phân cách phạm vi chủ quyền 10
1.2.2. Chức năng hợp tác 11
1.3. Các bộ phận cấu thành biên giới quốc gia 12
1.3.1. Biên giới trên đất liền 12
1.3.2. Biên giới trên biển 12

1.3.3. Biên giới lòng đất 13
1.3.4. Biên giới vùng trời 13
1.4. Phân loại biên giới 14
1.4.1. Biên giới tự nhiên và biên giới nhân tạo 14
1.4.2. Biên giới chính thức và không chính thức 18
1.4.3. Biên giới đơn phƣơng và song phƣơng 18
1.4.5. Các loại biên giới khác 19
1.5. Xác lập biên giới quốc gia 21
1.5.1. Khái niệm, ý nghĩa của quá trình xác lập biên giới quốc gia 21
1.5.2. Các giai đoạn của quá trình xác lập đƣờng biên giới 22
1.6. Quy chế pháp lý của biên giới quốc gia 27
1.6.1. Pháp luật quốc tế về biên giới quốc gia 27
1.6.2. Quy chế pháp lý về biên giới quốc gia 30
1.7. Giải quyết tranh chấp về biên giới trong luật pháp quốc tế 31
1.7.1. Tranh chấp về biên giới 31


5
1.7.2. Pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp biên giới 33
Kết luận 37
Chƣơng 2:
NGUYÊN TẮC VÀ HOẠCH ĐỊNH BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT
LIỀN GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC 39
2.1. Khái quát về lịch sử biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Trung Quốc 41
2.1.1. Biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trƣớc khi Pháp
xâm lƣợc (1858) 41
2.1.2. Biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời kỳ
Pháp đô hộ Việt Nam (công ƣớc hoạch định biên giới 1887 và 1895) 44
2.1.3. Biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1954 đến

nay 51
2.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền giữa Việt Nam
và Trung Quốc 57
2.2.1. Các nguyên tắc chung đƣợc áp dụng 58
2.2.2. Các nguyên tắc riêng đƣợc hai bên thoả thuận 65
2.3. Hoạch định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc 73
2.3.1. Khái lƣợc quá trình tổ chức đàm phán hoạch định biên giới 74
2.3.2. Nội dung cơ bản Hiệp ƣớc biên giới trên đất liền giữa CHXHCN
Việt Nam và CHND Trung Hoa ngày 30/12/1999 80
Kết luận 86
Chƣơng 3:
ĐỊNH HƯỚNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN HIỆP ƯỚC
BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN GIỮA CHXHCN VIỆT NAM VÀ
CHND TRUNG HOA 88
3.1. Triển khai thực hiện Hiệp ƣớc biên giới trên đất liền Việt Nam -
Trung Quốc 88


6
3.1.1. Phân giới và cắm mốc quốc giới trên thực địa biên giới trên đất liền
Việt Nam - Trung Quốc 89
3.1.2. Uỷ ban liên hợp phân giới cắm mốc Việt Nam - Trung Quốc 101
3.1.3. Mốc quốc giới biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc 104
3.2. Định hƣớng xây dựng đƣờng biên giới trên đất liền Việt Nam -
Trung Quốc hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài 107
3.2.1. Quản lý đƣờng biên giới giữa hai quốc gia 108
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về biên giới quốc gia 112
3.2.3. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao
nhận thức pháp luật về biên giới quốc gia 115
3.2.4. Xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, cơ sở hạ tầng kết hợp

với việc bảo đảm an ninh biên giới, trật tự an toàn xã hội tại các khu vực
biên giới, cửa khẩu 116
3.2.5. Xây dựng và thúc đẩy quan hệ hợp tác, phát triển giữa các quốc gia
láng giềng có chung đƣờng biên giới trong xu thế phát triển chung của khu
vực cũng nhƣ trên thế giới 118
KẾT LUẬN CHUNG 119
PHỤ LỤC 121
1. Sơ đồ một số kiểu biên giới quốc gia
2. Công ƣớc Hoạch định biên giới 1887
3. Công ƣớc bổ sung Công ƣớc Hoạch định biên giới 1895
4. Hiệp định tạm thời 1991
5. Thoả thuận các nguyên tắc 1993
6. Hiệp ƣớc biên giới đất liền 1999.
7. Thông tin về đơn vị hành chính Việt Nam - Trung Quốc
8. Thông tin về khu vực biên giới, cửa khẩu
TÀI LIỆU THAM KHẢO




7
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lãnh thổ và biên giới quốc gia là một trong những nội dung quan trọng của hệ
thống pháp luật quốc tế. Quốc gia khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế
với tƣ cách là chủ thể cơ bản và quan trọng, thì sự ổn định phát triển của quốc gia
trƣớc hết phụ thuộc vào yếu tố lãnh thổ, bởi lãnh thổ là cơ sở vật chất để một quốc
gia tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, biên giới quốc gia luôn là một vấn đề thiêng
liêng và nhạy cảm đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Khái niệm biên giới quốc gia

gắn bó chặt chẽ với khái niệm lãnh thổ, định giới hạn cho một lãnh thổ cụ thể, đánh
dấu nơi kết thúc thẩm quyền lãnh thổ. Cùng với sự phát triển của thời đại, biên giới
đã trở thành tiền đề trong các quan hệ hợp tác, trên nền tảng của xu thế hội nhập và
phát triển trong khu vực cũng nhƣ toàn cầu.
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Việt
Nam và Trung Quốc) là hai quốc gia láng giềng có chung đƣờng biên giới trên đất
liền, trên biển và trên không. Quá trình giải quyết vấn đề biên giới nói chung và xác
lập biên giới trên đất liền giữa hai nƣớc nói riêng là một quá trình lâu dài, phức tạp
gắn liền với những bƣớc thăng trầm trong quan hệ giữa hai nƣớc. Đƣờng biên giới
trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đƣợc hai Công ƣớc Pháp - Thanh về
hoạch định biên giới năm 1887 và Công ƣớc bổ sung Công ƣớc hoạch định biên giới
1895 xác lập. Theo hai công ƣớc đó, biên giới giữa hai nƣớc đã đƣợc hoạch định và
cắm mốc (hơn 340 mốc) từ Tây sang Đông, trên chiều dài trên 1.350 km. Tuy nhiên,
hơn 100 năm qua đã diễn ra rất nhiều biến thiên do con ngƣời, thiên nhiên, các sự
kiện chính trị và vì vậy, đƣờng biên giới không còn nguyên vẹn nhƣ lúc nhà
Thanh và thực dân Pháp hoạch định một thế kỷ trƣớc. Chính vì vậy, giữa hai nƣớc
cùng có nhu cầu xác lập lại đƣờng biên giới nhằm quản lý, duy trì ổn định nhằm
phát triển kinh tế, xây dựng mối quan hệ hữu nghị láng giềng hợp tác giữa hai nƣớc.
Ngày 30/12/1999, tại Hà Nội, hai nƣớc Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành
ký kết Hiệp ƣớc biên giới trên đất liền. Từ đây, những vấn đề còn tồn tại giữa hai


8
quốc gia về biên giới trên đất liền đã chính thức đƣợc giải quyết, tạo tiền đề về cơ sở
pháp lý để tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa, xây dựng một đƣờng biên giới
hoà bình hữu nghị, ổn định và hợp tác. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết và phù hợp với
lịch sử phát triển của hai đất nƣớc, hai dân tộc.
Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu và làm rõ những nguyên tắc và nội dung
về việc xác lập biên giới trên đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc dƣới ánh sáng
của pháp luật quốc tế là thực sự cần thiết nhằm góp phần thực hiện đầy đủ Hiệp ƣớc

biên giới trên đất liền giữa hai nƣớc, thúc đẩy quá trình xây dựng một đƣờng biên
giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài, thực hiện tốt chủ trƣơng chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới cũng nhƣ
góp một phần nhỏ trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về biên giới lãnh thổ,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật quốc tế và pháp luật trong nƣớc
về biên giới lãnh thổ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xác lập biên giới trên đất liền nói chung và xác lập biên giới trên đất
liền Việt Nam - Trung Quốc nói riêng luôn đƣợc các quốc gia, tổ chức và các nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Tại nƣớc ngoài, có một khối lƣợng khá đồ sộ các
công trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ có đề cập đến đề tài nói trên, tuy nhiên mới chỉ
giới hạn một số vấn đề về biên giới lãnh thổ cũng nhƣ dừng lại trên nguyên tắc, tiêu
biểu nhƣ: Marking boundary (Tạo lập đƣờng biên giới) của Stephen B. Jones Bên
cạnh đó, cũng có một số luận án tiến sĩ, thạc sĩ viết về đƣờng biên giới trên đất liền
giữa một số nƣớc láng giềng có chung đƣờng biên giới trên đất liền với Việt Nam,
trong đó có đề cập một số nét khái quát về biên giới quốc gia nhƣng cũng chỉ mang
tính khái lƣợc: Luận án tiến sĩ luật của Sarin Chhak, Norodom Ranarith, Raoul
Jennar về biên giới Việt Nam - Cămpuchia. Bên cạnh đó, cũng có một số công
trình nghiên cứu của một số học giả nƣớc ngoài nhƣ: Monique Chemillier Gendreau,
Mark Valenxia, J.V.R Prescot, Dieter Heinzig, Greg Austin, Michael Bennett,
Chang Paomin, Choon Ho Park về các tranh chấp biên giới lãnh thổ giữa Việt
Nam và Trung Quốc, nhƣng chủ yếu tập trung vào tranh chấp trên Biển Đông và hai


9
quần đảo Hoàng Sa - Trƣờng Sa. Về việc xác lập đƣờng biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc, cho đến nay chƣa có các công trình nghiên cứu nào mà chỉ dừng
lại ở các bài bình luận, nghiên cứu, chuyên khảo Trong nƣớc cũng đã có một số
bài nghiên cứu, luận văn cử nhân nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến đề tài
này đăng trong các sách, báo, tạp chí nhƣng mới chỉ dừng lại ở các chuyên đề đơn

lẻ, các bài nghiên cứu, bài viết mang tính khái quát chung nhƣ: Luận văn thạc sĩ
quản lý Nhà nƣớc về Nâng cao năng lực quản lý nhà nƣớc về biên giới trên đất liền
Việt Nam - Trung Quốc của Đỗ Văn Mai; giải quyết tranh chấp biên giới; tạo lập
đƣờng biên giới Tuy nhiên, hầu nhƣ chƣa có một công trình nghiên cứu sâu, có hệ
thống dƣới dạng một luận văn thạc sĩ, tiến sĩ khoa học luật học về: ”Xác lập biên
giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa” ở nƣớc ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật quốc tế, thực
tiễn quốc tế về biên giới lãnh thổ quốc gia nói chung và xác lập biên giới trên đất
liền nói riêng, cũng nhƣ quá trình xác lập biên giới trên đất liền giữa hai nƣớc Việt
Nam - Trung Quốc, luận văn nghiên cứu các cơ sở pháp lý của việc xác lập đƣờng
biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa và đề xuất
một số phƣơng hƣớng và khuyến nghị nhằm xây dựng một đƣờng biên giới hoà
bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài giữa, tạo sự ổn định bền vững, hợp tác và
phát triển kinh tế, xây dựng đất nƣớc giữa Việt Nam và Trung Quốc.
- Nhiệm vụ: tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề sau:
+ Cơ sở lý luận về biên giới quốc gia trong pháp luật quốc tế;
+ Cơ sở pháp lý của việc hoạch định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và
Trung Quốc;
+ Xây dựng biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và ổn định lâu dài.
4. Đối tƣợng, phạm vi của đề tài
Với mục đích và nhiệm vụ nói trên, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những
vấn đề cơ bản của pháp luật quốc tế về biên giới lãnh thổ quốc gia, xác lập biên giới


10
trên đất liền.
Phạm vi nghiên cứu sẽ tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật
quốc tế về biên giới quốc gia; việc xác lập đƣờng biên giới trên đất liền giữa hai

nƣớc Việt Nam - Trung Quốc. Trên cơ sở đó, luận văn xây dựng một số định hƣớng
và khuyến nghị nhằm xây dựng một đƣờng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
ổn định lâu dài giữa hai nƣớc Việt Nam - Trung Quốc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phƣơng pháp luận đƣợc sử dụng trong luận văn là phép biện chứng duy vật và
duy vật lịch sử, các phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện đầu tiên về việc xác lập đƣờng
biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa. Trên cơ sở lý
luận chung của pháp luật quốc tế và thực tiễn xây dựng đƣờng biên giới giữa hai
nƣớc, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý của việc xác định đƣờng
biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm
tiếp tục xây dựng đƣờng biên giới Việt - Trung hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn
định lâu dài, tạo tiền đề thúc đẩy quan hệ hợp tác, xây dựng và phát triển đất nƣớc
đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ hoà bình và an ninh ở khu
vực và trên thế giới.
7. Kết cấu của đề tài: Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chƣơng và kết luận
Chương 1: Cơ sở lý luận về biên giới quốc gia trong pháp luật quốc tế
Chương 2: Hoạch định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc
Chương 3: Xây dựng biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài.


11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm lãnh thổ, biên giới quốc gia
Lãnh thổ bao giờ cũng là một thực thể cụ thể, là cơ sở vật chất của quốc gia.

Lãnh thổ có trƣớc quốc gia và là nguồn gốc của quốc gia. Trên cơ sở lãnh thổ, dân
cƣ đƣợc tập hợp lại và đƣợc tổ chức, từ đó quốc gia hình thành và trở thành ngƣời
chủ của lãnh thổ. Lãnh thổ không phải là vô tận. Danh nghĩa thụ đắc mà quốc gia tạo
lập trên nền tảng một lãnh thổ sẽ xác định giới hạn cho lãnh thổ đó.
Lãnh thổ và biên giới quốc gia là một phạm trù lịch sử, là hệ quả tất yếu của xã
hội loài ngƣời khi xuất hiện nhà nƣớc và pháp luật, xuất hiện giai cấp. Lênin đã chỉ
rõ “ nếu không có nhà nƣớc thì không có vấn đề biên giới của nhà nƣớc”[33,29].
Khái niệm về biên giới gắn bó chặt chẽ với khái niệm lãnh thổ. Không có một không
gian nào lại không có một giới hạn, dù là tự nhiên hay do con ngƣời quy định
Cùng với sự phát triển của lịch sử, của pháp luật quốc tế, khái niệm về lãnh thổ, biên
giới quốc gia ngày càng phát triển và hoàn thiện.
1.1.1. Khái niệm lãnh thổ quốc gia
Trong lịch sử hình thành và phát triển nhà nƣớc, gắn liền với sự ra đời và tồn
tại của quốc gia là vấn đề lãnh thổ, vì ngoài ý nghĩa là cơ sở vật chất, lãnh thổ còn có
ý nghĩa đối với việc tồn tại và duy trì một ranh giới quyền lực nhà nƣớc đối với một
cộng đồng dân cƣ nhất định “Lãnh thổ xác định ngay bản thể của quốc gia”
[81,167]. Lãnh thổ quốc gia, dân cƣ và chính quyền - đó chính là nền tảng vật chất
cho quốc gia tồn tại và phát triển. Điều 1, Công ƣớc Montevideo 1933, xác định tiêu
chuẩn cơ bản tính chất của một quốc gia là "Quốc gia với tƣ cách là một chủ thể của
pháp luật quốc tế có các tính chất sau: (a) có dân cƣ thƣờng trú; (b) có lãnh thỗ xác
định, (c) có chính quyền và (d) năng lực tham gia vào các quan hệ với các quốc gia
khác” [82,25]. Quan niệm và sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế trong quan hệ giữa
các quốc gia liên quan đến vấn đề biên giới, lãnh thổ ở mỗi một thời kỳ phát triển


12
của luật quốc tế vẫn luôn luôn là nền tảng của trật tự pháp lý quốc tế. Luật quốc tế
phải điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia về vấn đề lãnh thổ chính là do tính chất
đặc biệt quan trọng của nó. Lãnh thổ gắn liền với các quyền lợi kinh tế, chính trị - xã
hội, an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia - điều này cũng có ảnh hƣởng trực tiếp và

rất lớn đến quan hệ quốc tế. Một thực tế rõ ràng trong lịch sử quan hệ quốc tế, một
trong những nguyên nhân phổ biến và chủ yếu của các cuộc chiến tranh ở các quy
mô giữa các dân tộc, các quốc gia thƣờng xuất phát từ những tranh chấp, xung đột
và giành giật, chiếm đoạt lãnh thổ với rất nhiều tổn thất và mất mát: Cuộc chiến
tranh giữa Paragoay với các nƣớc láng giềng từ năm 1865 đến 1870 đã làm cho nƣớc
này mất 2/3 lãnh thổ và 65% dân số; Cuộc chiến giữa Chilê và Achentina mà hiệp
ƣớc biên giới trên núi Andes năm 1881 vẫn không ngăn chặn đƣợc xung đột, đến tận
năm 1966 mới giải quyết xong; giữa Ấn Độ và Trung Quốc từ năm 1962 đến nay
vẫn chƣa giải quyết xong; cuộc chiến tranh Iran - Irắc kéo dài hơn 8 năm mà hậu quả
đến những năm 90 của thế kỷ XX mới đi vào quá trình giải quyết [36,53]. Hiện
nay, ngay tại khu vực châu Á vẫn còn tồn tại rất nhiều tranh chấp về biên giới lãnh
thổ chƣa đƣợc giải quyết xong. Đó là các tranh chấp về biên giới lãnh thổ giữa Việt
Nam và Trung Quốc, giữa Thái Lan với Lào, giữa Nga và Nhật Bản
Theo các khái niệm thông thƣờng nhất, lãnh thổ quốc gia là một phần của trái
đất, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng nƣớc nội địa, vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng
nƣớc quần đảo và vùng trời bên trên cũng nhƣ lòng đất dƣới chúng. Ngoài ra, quốc
gia (đặc biệt là quốc gia ven biển) còn có các lãnh thổ đặc biệt với quy chế pháp lý
khác biệt nhƣ: Lãnh thổ mƣợn hay nhƣợng lại có thời hạn, eo biển quốc tế, sông,
kênh đào quốc tế
Phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, Điều 1, Hiến pháp 1992 của nƣớc
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Nƣớc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một nƣớc độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao
gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời"[23,13].
Chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ của mình là hoàn toàn, riêng biệt và
đầy đủ. Luật quốc tế công nhận cho quốc gia quyền tối cao đối với lãnh thổ.


13
Điều 13, Hiến pháp 1992 của nƣớc CHXHCN Việt Nam khẳng định: "Tổ quốc
Việt Nam là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Mọi âm mƣu và hành động chống lại

độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc đều bị nghiêm trị theo pháp
luật".
Và tại Điều 14, "Nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính
sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lƣu và hợp tác với tất cả các nƣớc trên thế
giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp và công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi " [23,
18-19].
1.1.2. Khái niệm biên giới quốc gia
Khái niệm biên giới quốc gia đã có một lịch sử lâu dài. Khởi đầu vào thời kỳ
cộng sản nguyên thuỷ và nô lệ, khái niệm này chƣa đƣợc thể hiện rõ ràng. Đƣờng
ranh giới đầu tiên đƣợc ghi nhận có lẽ là của đế chế La Mã vào đầu thế kỷ thứ III để
phân biệt phạm vi thành Roma với lãnh thổ của các dân tộc “man di” [64,3].
Nếu nhƣ hiện nay, khái niệm về biên giới thông thƣờng đƣợc cụ thể hoá lên
bản đồ bằng một đƣờng liên tục, thì trong lịch sử, đƣờng biên giới đã có một quá
trình phát triển và hoàn thiện lâu dài. Thuật ngữ biên giới dƣờng nhƣ bắt đầu xuất
hiện từ thế kỷ XIV[14,18], nhƣng trong một thời gian dài thuật ngữ này dùng để chỉ
các vùng tiếp giáp, các vùng giáp ranh hay vùng bên ngoài của một lãnh thổ, không
phải là đƣờng biên giới đƣợc vạch ra một cách liên tục. Nói một cách khác, đó là
một vùng “xám”, thƣờng xuyên có tranh chấp giữa các nƣớc láng giềng và biên giới
đƣợc xác lập trên cơ sở lý lẽ của kẻ mạnh.
Khái niệm về đƣờng biên giới là sản phẩm của quá trình hoàn thiện và mô tả
một lãnh thổ cụ thể. Quan niệm ngày nay về các đƣờng biên giới đã đƣợc thay đổi,
khác với các quan niệm trƣớc đây về vùng biên giới. Nguyên nhân sâu xa có thể kể
đến là khi đó, giữa các quốc gia vẫn còn các lãnh thổ vô chủ thƣờng là những
chƣớng ngại vật tự nhiên nhƣ: núi, rừng, sa mạc, đầm lầy, sông hồ Cùng với thời
gian, các lãnh thổ vô chủ bị thu hẹp, các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau hơn.
Có thể thấy rằng, biên giới vùng và biên giới đƣờng tồn tại theo bối cảnh lịch sử và


14

địa lý.
Các đƣờng biên giới và các vấn đề liên quan đến chúng đã trải qua nhiều thay
đổi lớn. Một thế kỷ rƣỡi trƣớc đây, bức tranh toàn cảnh về đƣờng biên giới thật sự
khác so với hiện tại. Ở châu Á, có một số hiệp ƣớc hoặc các đƣờng ranh giới đã
đƣợc xác lập, nhƣng chỉ là những giới hạn giao động giữa các vƣơng quốc khác
nhau. Tại châu Phi, vào lúc lục địa này còn chƣa “trỗi dậy” và chƣa đƣợc biết đến,
không có đƣờng biên giới nào khác hơn là các giới hạn của quyền lực thống trị của
đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Ở châu Mỹ, có các đƣờng biên giới Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha. Các đƣờng biên giới ở châu Âu chiếm số lƣợng nhiều nhất và rõ ràng nhất. Tuy
nhiên, trên thực tế chúng đã thay đổi rất nhiều về vị trí và chức năng qua các thời
đại. Các khái niệm về đƣờng biên giới của châu Âu đã phát triển và mở rộng rất
nhiều cho đến khi chúng bao trùm gần nhƣ hết tất cả các đƣờng biên giới quốc tế
trên khắp các châu lục [47,3]. Ngày nay, các đƣờng biên giới đƣợc xác định bằng
các điều ƣớc quốc tế về biên giới, các quy tắc tập quán, hoặc các phán quyết của toà
án khi các bên cùng thoả thuận yêu cầu toà án giải quyết.
Việc xác lập đƣờng biên giới quốc gia là nhằm phân định rõ giới hạn vùng đất,
vùng nƣớc, vùng trời thuộc chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia;
gắn liền với những lợi ích về chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng, do đó,
biên giới quốc gia mang tính pháp lý - chính trị và là sản phẩm do con ngƣời tạo ra
trên cơ sở tôn trọng những yếu tố lịch sử, chính trị, xã hội, địa lý, kinh tế và dân tộc
Theo nghĩa đó, biên giới quốc gia cũng là cơ sở và nền tảng vật chất cho quốc gia
tồn tại và phát triển. Biên giới của một quốc gia còn là đối tƣợng quan tâm của các
quốc gia khác, trƣớc hết là với các quốc gia láng giềng và trong khu vực.
Trong khoa học pháp lý quốc tế, các nhà học giả, nghiên cứu, và các luật gia đã
đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau về biên giới quốc gia. Theo giáo sƣ Rousseau,
trong cuốn Từ điển thuật ngữ pháp luật quốc tế, biên giới là “đƣờng phân định nơi
bắt đầu và nơi kết thúc của lãnh thổ hai quốc gia láng giềng”. Theo giáo sƣ Nguyễn
Quốc Định, biên giới là “đƣờng tách các khu vực lãnh thổ nơi tồn tại hai chủ quyền
riêng biệt”[77,503], [17,67]. Từ điển Luật (Anh) của Earl định nghĩa đƣờng biên



15
giới nhƣ là “đƣờng tƣởng tƣợng phân chia hai vùng đất, vùng này tách khỏi vùng
kia”; từ điển Coucise Oxford Dictionary định nghĩa đƣờng biên giới là “đƣờng giới
hạn”, trong khi đó, từ điển Bách khoa Anh gọi biên giới là “một vật bất kỳ dùng để
chỉ rõ một giới hạn hoặc ranh giới”[12,1-2]. Nhìn chung, biên giới là các đƣờng xác
định nơi bắt đầu và kết thúc lãnh thổ của một quốc gia hoặc là đƣờng phân định lãnh
thổ của quốc gia với các vùng biển thuộc thẩm quyền quốc gia. Năm 1978, trong vụ
Thềm lục địa biển Egée, Toà án quốc tế định nghĩa biên giới quốc gia là một đƣờng
chính xác, nơi gặp nhau của các không gian, tại đó các quyền lực và quyền chủ
quyền tƣơng ứng đƣợc thực hiện [62,36]. Theo một số giáo trình và tài liệu pháp lý
về pháp luật quốc tế của nƣớc ta, biên giới quốc gia là ranh giới phân định lãnh thổ
của quốc gia này với lãnh thổ của quốc gia khác hoặc với các vùng thuộc quyền chủ
quyền của quốc gia trên biển [19,153] hay biên giới quốc gia là hàng rào pháp lý
đƣợc vạch theo tâm trái đất qua một cột mốc quốc giới giới hạn vùng đất, vùng
nƣớc, vùng trời và lòng đất thuộc chủ quyền của quốc gia [37,90].
Trên cơ sở đó, theo cách hiểu chung nhất, biên giới quốc gia là hàng rào pháp
lý xác định giới hạn vùng đất, vùng nƣớc, vùng biển, vùng trời và lòng đất thuộc chủ
quyền quốc gia. Biên giới quốc gia là nơi phân chia chủ quyền lãnh thổ của một
quốc gia này với một quốc gia khác và/hoặc với các vùng biển thuộc quyền chủ
quyền và quyền tài phán của quốc gia đó. Nói một cách khác, biên giới quốc gia
chính là giới hạn ngăn cách lãnh thổ của quốc gia này với quốc gia khác và ngăn
cách lãnh hải với vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của một quốc gia [65,1].
Trong phạm vi không gian lãnh thổ đó, quốc gia là chủ nhân đƣợc áp dụng và thực
thi một hệ thống các quy tắc pháp lý của nhà nƣớc đó.
Dự thảo Luật biên giới quốc gia nƣớc CHXHCN Việt Nam (lần thứ 19) quy
định tại Điều 1: “Biên giới quốc gia là đƣờng và mặt thẳng đứng theo đƣờng đó xác
định ranh giới lãnh thổ, chủ quyền của Việt Nam đối với đất liền, vùng biển, lòng
đất và vùng trời”.
1.2. Chức năng của biên giới quốc gia

Việc phân tích về các chức năng của đƣờng biên giới là vấn đề khó và trừu


16
tƣợng. Quốc gia nào cũng đều phải có các đƣờng biên giới trên đất liền, trên biển
nhằm thể hiện chủ quyền và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Do mỗi loại
đƣờng biên giới đều đảm nhiệm một chức năng riêng biệt, vì vậy chỉ có thể sơ bộ
phân biệt các chức năng của biên giới thành hai chức năng chính là chức năng phân
cách (hay ngăn cách) phạm vi chủ quyền và chức năng hợp tác.
1.2.1. Chức năng phân cách phạm vi chủ quyền
Cùng với ý nghĩa phân chia phạm vi lãnh thổ, phân chia các không gian đất
liền và không gian biển theo danh nghĩa sở hữu đối với các không gian đó, đƣờng
biên giới cũng đồng thời có chức năng phân cách phạm vi thực thi chủ quyền giữa
các quốc gia “Đƣờng biên giới phân chia chủ quyền của các quốc gia” [78] cũng nhƣ
giới hạn các không gian thực thi quyền quản lý nhà nƣớc. Chỉ khi xác định đƣợc rõ
ràng đƣờng biên giới quốc gia, quốc gia mới có thể thực hiện đƣợc toàn vẹn và đầy
đủ thẩm quyền quản lý nhà nƣớc (gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp)
trên toàn bộ các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia của mình. Điều này cho
thấy là không một thực thể quốc tế nào có quyền hoạch định lãnh thổ quốc gia trừ
chính quốc gia đó hoặc khi có yêu cầu của các quốc gia hữu quan. Chẳng hạn, mặc
dù Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ra Nghị quyết số 687 (ngày 3/4/1991), về phân
định biên giới giữa Irắc và Cô-oét, nhƣng thực tế là do Irắc và Cô-oét yêu cầu Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc bảo đảm cho việc thực hiện Hiệp định hoạch định biên
giới đã đƣợc hai nƣớc này ký kết trƣớc đó, chứ Hội đồng Bảo an không tự đứng ra
tiến hành vấn đề phân định biên giới cho hai nƣớc.
Mỗi một quốc gia đều tìm cách xác lập các đƣờng biên giới để đảm bảo cho an
ninh của mình. Có thể nói rằng vấn đề duy trì ổn định và bền vững đƣờng biên giới
của các quốc gia là điều kiện đảm bảo cho hoà bình và an ninh quốc tế. Điều này đã
đƣợc lịch sử chứng minh và nó cũng không mâu thuẫn với một thực tế hiện nay là có
một châu Âu không biên giới. Vào thời điểm đầu xây dựng ý tƣởng về một liên

minh châu Âu, cho dù Hiệp ƣớc Benelux (Bỉ, Hà Lan, Luýchxămbua) đã xoá đi biên
giới của ba nƣớc này, nhƣng tại mỗi quốc gia đều có các quy định riêng, phân biệt rõ
ràng chủ quyền của từng quốc gia. Sau này, với Hiệp ƣớc Schegent, Maastricht, giữa


17
các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giữa
các quốc gia, các trạm kiểm soát hải quan trƣớc đây chỉ là còn trong nỗi nhớ của các
công dân châu Âu. Tuy vậy, trên thực tế, đƣờng biên giới đã có trƣớc đây vẫn phân
cách việc thực thi chủ quyền ở những lĩnh vực khác nhau giữa các quốc gia thuộc
Liên minh châu Âu (ví dụ, giữa các nƣớc hiện nay vẫn chƣa thống nhất về việc
chống tội phạm ma tuý, một số nƣớc hiện vẫn có các quy định khác nhau về vấn đề
này, và biên giới giữa các nƣớc vẫn là nơi phân cách giữa các quốc gia). Mặc dù các
quốc gia đã tự nguyện gia nhập, xoá bỏ các hàng rào thuế, hải quan, xuất nhập cảnh
nhƣng vào những thời điểm cần thiết, để đáp ứng các lợi ích quốc gia, biên giới
vẫn là nơi phân cách phạm vi chủ quyền giữa các quốc gia.
1.2.2. Chức năng hợp tác
Cộng đồng nhân loại đã đi qua thế kỷ XX trong hợp tác và đấu tranh để sinh
tồn và phát triển. Thế giới ngày nay đang trải qua các cuộc biến chuyển cơ bản trong
xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, trƣớc những vấn đề có ý nghĩa sống còn liên quan
đến việc bảo vệ thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trƣờng, chống những căn bệnh hiểm
nghèo mà không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết đƣợc. Thứ hai, bên
cạnh việc coi biên giới có chức năng đánh dấu phạm vi chủ quyền về lãnh thổ,
nhƣng để phối hợp giải quyết các vấn đề xuyên quốc gia đòi hỏi đến nhu cầu hợp tác
giữa các quốc gia trong từng khu vực hay trên toàn thế giới. Thứ ba, chiến tranh lạnh
giữa các khối liên minh đã dần dần bị đẩy lùi hay đƣợc thay thế bằng các hình thức
khác, và trong trào lƣu hội nhập giữa các quốc gia cũng cần có sự nhận thức mới về
tƣ duy, đặc biệt tƣ duy về tính bền vững của biên giới. Chính vì vậy, bên cạnh chức
năng phân cách của đƣờng biên giới cũng cần xem xét đến nhu cầu hợp tác.
Biên giới là “không gian” giao lƣu kinh tế trực tiếp ở vùng biên giới nói riêng

và của từng quốc gia nói chung. Đặc điểm các khu vực biên giới thƣờng là những
vùng sâu, vùng xa, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, do đó
thông qua việc giao lƣu kinh tế qua biên giới sẽ có thể hỗ trợ cho việc phát triển
vùng biên giới. Đối với Việt Nam và các nƣớc trong khu vực, bên cạnh việc giao lƣu
để giải quyết nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phƣơng, còn phục vụ


18
cho việc từng bƣớc hội nhập kinh tế của cả nƣớc vào trào lƣu phát triển của khu vực.
Biên giới còn là nơi diễn ra các mối quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp nhƣng
thƣờng xuyên, phong phú và đan xen nhiều chiều giữa các quốc gia, nhƣ quan hệ
giao lƣu văn hoá, khoa học, kỹ thuật, bảo vệ môi trƣờng, thăm viếng, chữa bệnh
cũng nhƣ quan hệ giữa các dân tộc, họ hàng huyết thống Tiếp thu những văn minh,
tiến bộ của các quốc gia là những biểu hiện tích cực trong quan hệ xã hội và hợp tác
giữa các quốc gia.
Biên giới cũng còn là cửa ngõ quan hệ giao lƣu quốc tế, là bộ mặt của mỗi
quốc gia để quan hệ với các nƣớc láng giềng, khu vực và thế giới, là nơi trực tiếp
diễn ra các quan hệ giữa các cơ quan, lực lƣợng đại diện của hai và các quốc gia,
thực hiện các điều ƣớc quốc tế giữa các quốc gia với nhau. Chính vì thế, chức năng
hợp tác của biên giới, trong thời điểm hiện nay, đang ngày càng đƣợc phát huy cao
độ và chứng minh khả năng và hiện thực trong đời sống quốc tế.
1.3. Các bộ phận cấu thành biên giới quốc gia
Biên giới quốc gia thông thƣờng bao gồm các bộ phận cấu thành sau [57,3]:
1.3.1. Biên giới trên đất liền
Đƣờng biên giới trên đất liền là đƣờng phân chia lãnh thổ giữa các quốc gia có
chung đƣờng biên giới, chạy trên phần đất liền, đảo, trên sông, hồ, kênh đào biên
giới và biển nội địa, là kết quả của việc ký kết các điều ƣớc quốc tế về biên giới giữa
các quốc gia, hoặc là các quyết định của cơ quan tài phán quốc tế khi các bên hữu
quan đồng ý đƣa ra.
1.3.2. Biên giới trên biển

Về nguyên tắc, biên giới trên biển là ranh giới ngoài của lãnh hải. Trƣớc đây,
biên giới trên biển cùng phát triển với quá trình mở rộng lãnh hải của các quốc gia
ven biển, và đƣợc hiểu là một đƣờng nằm cách bờ biển một khoảng cách bằng tầm
bắn của súng đại bác Trên cơ sở quan niệm đó, các quốc gia tự quy định chiều
rộng lãnh hải của mình nên không có sự thống nhất về tiêu chuẩn hoạch định đƣờng
biên giới quốc gia trên biển. Phải đến khi Công ƣớc của Liên hợp quốc về Luật biển
năm 1982 ra đời, các quan niệm và quy định về lãnh hải mới có sự thống nhất.
Comment [HTA1]: Câu này không có chủ ngữ
Comment [HTA2]: Câu này cũng không có chủ
ngữ


19
Phù hợp với các nguyên tắc pháp lý chung và thực tiễn quốc tế, đƣờng biên
giới này đƣợc xác định bằng các quy định của các quốc gia ven biển, thông qua sự
tuyên bố chính thức và công khai của quốc gia đó. Theo đó, khi hai quốc gia có bờ
biển đối diện nhau nhƣng khoảng cách giữa hai hệ thống đƣờng cơ sở của hai quốc
gia lớn hơn 24 hải lý
1
, biên giới trên biển của mỗi quốc gia là đƣờng nằm song song
và cách đƣờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải không vƣợt quá 12 hải lý [11,
25]. Còn trong trƣờng hợp khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau
nhƣng khoảng cách giữa hai hệ thống đƣờng cơ sở của hai quốc gia nhỏ hơn 24 hải
lý, biên giới trên biển là đƣờng phân chia lãnh hải giữa hai nƣớc, đƣợc xác định
bằng điều ƣớc quốc tế do hai quốc gia liên quan thoả thuận ký kết; thông thƣờng
đƣờng biên giới này nằm cách đều các điểm gần nhất của các đƣờng cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thoả thuận khác giữa các
quốc gia này [11,30].
Mặc dù hành động của các quốc gia là đơn phƣơng nhƣng lại liên quan trực
tiếp đến quyền lợi của các quốc gia khác. Điều cần lƣu ý là trong lĩnh vực này, tính

chất bất khả xâm phạm của đƣờng biên giới trên biển bị giới hạn do quyền “đi qua
không gây hại” [11,31] đƣợc quy định trong pháp luật quốc tế. Có thể thấy trong
Phán quyết năm 1951 của về phân định lãnh hải giữa Anh và Nauy, Toà án quốc tế
tuyên bố rằng “Hành vi hoạch định lãnh hải nhất thiết là hành vi đơn phƣơng, chỉ có
quốc gia ven biển mới có thẩm quyền tiến hành. Tuy nhiên, việc hoạch định này có
giá trị hay không đối với các quốc gia khác còn phụ thuộc vào pháp luật quốc tế ”.
1.3.3. Biên giới lòng đất
Biên giới này đƣợc xác định theo một phƣơng thẳng đứng, đƣợc xác định dựa
trên các đƣờng biên giới trên đất liền và biên giới trên biển, kéo dài đến tâm của trái
đất. Trong thực tiễn quốc tế, biên giới này đƣợc các quốc gia mặc nhiên thừa nhận.
1.3.4. Biên giới vùng trời
Biên giới vùng trời là các ranh giới xác định phạm vi vùng trời của một quốc
gia. Trong những năm 1940 và 1950, đã có một số quốc gia đƣa ra tuyên bố về biên

1
Hải lý là đơn vị đo khoảng cách trên biển (1 hải lý = 1 phút kinh tuyến ~ 1.852 mét).


20
giới vùng trời theo tiêu chuẩn không gian, nhƣng hiện nay, chủ quyền quốc gia đƣợc
nhận thức theo những tiêu chuẩn về chức năng sử dụng. Đối với những xu hƣớng thể
hiện trong luật về vùng trời, nhìn chung cho rằng độ cao cao hơn trần hoạt động của
phƣơng tiện bay (khoảng 50 km) là giới hạn vùng trời theo khả năng, nhƣng cũng có
một vài khuynh hƣớng trong thực tế cho rằng bất kỳ việc hoạch định ranh giới vùng
trời nào đều phải tính từ ngoài không gian vũ trụ.
Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này còn đang gây nhiều tranh cãi và chƣa có
một quy định nào của pháp luật quốc tế điều chỉnh lĩnh vực này và cũng chƣa có một
điều ƣớc quốc tế nào giữa các quốc gia ký kết về loại biên giới này nên các quốc gia
đã buộc phải tự đƣa ra những tuyên bố đơn phƣơng về vùng trời của mình theo khả
năng khai thác.

Tuy nhiên, nhƣ trên đã nêu, do biên giới trên không còn chƣa rõ ràng nên độ
cao của biên giới này cũng chƣa đƣợc các quốc gia xác định rõ ràng. Nói một cách
khác, không có sự phân biệt pháp lý chính xác giữa vùng trời nơi quốc gia thực thi
chủ quyền và khoảng không vũ trụ là vùng tự do.
1.4. Phân loại biên giới
1.4.1. Biên giới tự nhiên và biên giới nhân tạo
1.4.1.1. Biên giới tự nhiên: Loại biên giới này hết sức đa dạng. Nó đƣợc xác
định trên cơ sở các địa hình tự nhiên nhƣ núi, sông, dãy núi, khe núi Cách xác
định biên giới loại này là đơn giản và có thể dễ nhận biết nhƣng chỉ có thể có đƣợc ở
những nơi có điều kiện địa lý phù hợp. Tuy nhiên, loại biên giới này cũng thƣờng
gây phức tạp cho kỹ thuật xác định. Trƣớc hết, đó là do có những đặc điểm địa hình
trong thực tế không phù hợp với bản đồ hoặc không có ghi nhận trên bản đồ và các
tài liệu địa hình liên quan. Sự thay đổi mang tính khách quan (tự nhiên) hay chủ
quan (có sự tác động của con ngƣời) trên thực tế có thể làm cho đƣờng biên giới đã
đƣợc thoả thuận trong hoạch định bị ảnh hƣởng. Tuy nhiên, trong quản lý, biên giới
theo địa hình dễ xác định hơn trên thực địa. Biên giới theo địa hình, nhƣ tên gọi của
nó, chủ yếu áp dụng cho việc hoạch định biên giới trên đất liền, nơi có nhiều địa
hình đa dạng.


21
Ở khu vực núi, thƣờng có ba loại biên giới:
- Biên giới theo các sống núi, nghĩa là đƣờng nối liền các đỉnh nhô cao nhất
của dãy núi duy nhất, hoặc các đỉnh núi đƣợc sử dụng chung nhiều nhất.
- Biên giới theo đƣờng phân thuỷ là đƣờng chia nƣớc ra hai lƣu vực sông, suối
và đánh dấu nguồn nƣớc của lƣu vực bên này cũng nhƣ của lƣu vực bên kia. Thể
loại biên giới này đƣợc áp dụng phổ biến trong các Hiệp ƣớc giữa Pháp và Công gô
(14/8/1894), giữa Pháp và Trung Quốc (20/6/1895) liên quan tới Đông Dƣơng
Đối với biên giới Việt Nam - Lào, nửa phía Nam chạy theo đƣờng phân thuỷ chính
của dãy núi Trƣờng Sơn.

- Biên giới theo đƣờng chân núi là biên giới chạy qua những khu vực phần nền
của những khối núi. Hình thức này thƣờng thấy tại khu vực Bailkan, Đanuýp ở châu
Âu, nhƣng hiện tại không còn đƣợc áp dụng nữa.
Đối với sông suối biên giới, thƣờng có ba loại:
- Biên giới trên bờ sông, theo đó đƣờng biên giới có thể chạy trên bờ sông bên
này hoặc bên kia và toàn bộ sông đƣợc đặt dƣới chủ quyền riêng biệt của một quốc
gia duy nhất trong số hai quốc gia có chung đƣờng biên giới. Đây là dạng ranh giới
cổ, ít đƣợc áp dụng. Ngày nay, phƣơng pháp này không còn thích hợp với các nhu
cầu sử dụng nguồn nƣớc trong thực tế quan hệ giữa các quốc gia ngày nay, nhất là
trong lĩnh vực thuỷ điện và đến nay hầu nhƣ không còn tồn tại. Thực tế cho thấy,
đây cũng là nguyên nhân bất đồng quan điểm giữa Nga và Trung Quốc trong việc
giải thích Hiệp ƣớc Bắc Kinh ngày 2 - 4/11/1860 về sông Ussuri. Phía Nga cho rằng
hiệp ƣớc này đã áp dụng nguyên tắc đƣờng biên giới chạy dọc theo bờ sông, trong
khi đó Trung Quốc lại giải thích biên giới chạy theo trung tuyến của lòng sông hoặc
trung tuyến của luồng chính của sông.
- Biên giới theo trung tuyến của sông. Trong trƣờng hợp này, các điểm giữa
của dòng sông đƣợc đo đạc ở mức nƣớc trung bình trong một thời gian dài (một năm
hay hơn) đƣợc nối lại với nhau và tạo thành biên giới. Phƣơng pháp này đƣợc áp
dụng rộng rãi và tạo thuận lợi cho việc sử dụng sông của cả hai bên.
- Biên giới theo rãnh sâu (thalweg), do Kluber đƣa ra vào năm 1851. Trong


22
Nghị định thƣ hoạch định biên giới giữa Pháp - Đức trên sông Rhin ngày 14/3/1925
định nghĩa “Thalweg là con đƣờng liên tục của những điểm đo sâu lớn nhất”. Tại
các dòng sông tàu thuyền có thể qua lại đƣợc, biên giới chạy theo tuyến sâu nhất của
luồng hàng hải. Hình thức này đã đƣợc áp dụng trong Hiệp ƣớc Pháp - Thái Lan
(25/8/1926) về phân định biên giới Lào - Thái Lan trên sông Mê Kông.
Trong trƣờng hợp sông có nhiều nhánh, một khi các điều khoản của hiệp ƣớc
hoạch định biên giới chƣa giải thích rõ ràng hay một quyết định tài phán không nói

gì khác, thì biên giới sẽ là nhánh sông chính.
Ngoài ra, đối với các bãi, cồn trên sông, còn có các loại biên giới có tính đến
chúng, cụ thể:
- Chuyển quyền quản lý cho các quốc gia gần nhất;
- Hoặc dành toàn bộ các bãi, cồn cho một quốc gia duy nhất (Ví dụ, Điều 1,
Hiệp ƣớc Pháp - Xiêm, 3/10/1893, đối với các đảo trên sông Mê Kông);
- Hoặc phân chia các bãi, cồn giữa hai quốc gia khi biên giới là trung tuyến hay
đƣờng rãnh sâu cắt đảo đó.
Trên các hồ, có các loại biên giới sau:
Khi các quốc gia nằm tiếp giáp nhau trên cùng một bờ hồ, biên giới trên hồ sẽ
xuất phát từ điểm mút biên giới của hai quốc gia và là:
- Đƣờng cách đều hai bờ hồ.
- Đƣờng cách đều điều ƣớc (đƣờng cách đều có điều chỉnh).
- Đƣờng thẳng nối hai điểm mút biên giới trên đất liền.
- Đƣờng biên giới thiên văn (theo kinh tuyến và vĩ tuyến).
Khi các quốc gia nằm đối diện nhau, đƣờng biên giới là đƣờng trung tuyến
cách đều bờ hồ của mỗi quốc gia hoặc là đƣờng trung tuyến điều ƣớc (theo thoả
thuận).
Đƣờng biên giới trên sa mạc
Trên các sa mạc, chỉ có thể có các vùng biên giới sa mạc hoặc có các đƣờng
biên giới ở các sa mạc. Nói cách khác, đƣờng biên giới ở các sa mạc là những đƣờng
biên giới thƣờng đƣợc xác định bằng phƣơng pháp địa hình.


23
Đƣờng biên giới trong rừng
Rừng có đặc điểm là chƣớng ngại vật nhƣng rất khó khăn trong việc cung cấp
các vị trí rõ ràng cho các đƣờng biên giới, nhất là ở nơi có một vùng rừng rộng lớn
và không rõ ràng trên bản đồ. Do vậy, việc hoạch định một đƣờng biên giới trong
rừng chủ yếu đƣợc giải quyết bằng sự thoả thuận của các quốc gia hữu quan và

thƣờng áp dụng phƣơng pháp địa hình.
1.4.1.2. Biên giới nhân tạo: Tất cả các đƣờng biên giới đều là ranh giới chính
trị và pháp lý, do con ngƣời tạo ra. Thuật ngữ "biên giới nhân tạo" chỉ có giá trị phân
biệt các đƣờng biên giới do con ngƣời quy định, không dựa vào các đặc điểm địa lý,
tự nhiên cụ thể. Trong nửa đầu của thế kỷ XX, biên giới nhân tạo thƣờng đƣợc phân
biệt theo hai loại là biên giới thiên văn và biên giới hình học.
Biên giới thiên văn là đƣờng biên giới đƣợc xác định theo các kinh tuyến và vĩ
tuyến.
- Biên giới theo vĩ tuyến lần đầu tiên đƣợc xác lập trong thoả thuận miệng
Catean Cambrésis (3/4/1559), sau đó đƣợc chính thức ghi nhận trong Hiệp ƣớc
Madrid (15/11/1630) để phân chia các khu vực thuộc địa của Anh và Pháp tại châu
Phi theo đƣờng xích đạo. Điều 2, Hiệp ƣớc Versaille (3/9/1789) công nhận biên giới
giữa Canada và Mỹ là đƣờng vĩ tuyến 45
o
Bắc từ sông Connecticut tới Saint -
Laurent.
Hình thức này thƣờng đƣợc áp dụng cho phần lớn các đƣờng biên giới của các
quốc gia ở châu Âu; là ranh giới tạm thời phân chia khu vực ảnh hƣởng của một số
quốc gia chƣa thống nhất nhƣ trƣờng hợp vĩ tuyến 17
o
Bắc đối với Việt Nam trong
giai đoạn 1954 - 1975, hay vĩ tuyến 38
o
Bắc ở Triều Tiên.
- Biên giới theo kinh tuyến ít đƣợc sử dụng hơn biên giới vĩ tuyến, mặc dù nó
đã đƣợc ra đời qua văn kiện phân chia biển đầu tiên là Sắc chỉ "Inter Coetera" của
Giáo hoàng Alecxandre VI (4/5/1493) Giáo hoàng Alxandre VI đã quy định lấy kinh
tuyến 100
0
Tây, qua đảo Cape Vert, làm đƣờng phân chia các khu vực biển đặc

quyền hoạt động cho Tây Ban Nha (về phía Tây) và Bồ Đào Nha (về phía Đông).


24
Đƣờng phân chia của Giáo hoàng cách phía Tây đảo Cape Vert 100 liên
2
. Phƣơng
pháp này còn đƣợc áp dụng để phân định biên giới Canada - Nga (28/2/1825),
Canada - Mỹ (30/3/1867) và hàng loạt các ranh giới giữa Argentina và Chilê,
Guinée và Guinée Bissau, Ai Cập và Libi
Biên giới hình học là dạng đƣờng biên giới đƣợc xác định bằng các đƣờng hình
học, hoặc là đƣờng thẳng nối hai điểm xác định, hoặc là đƣờng vòng cung mà tâm
điểm và bán kính đƣợc thoả thuận (một số nƣớc châu Phi và Bắc Mỹ vạch đƣờng
biên giới theo kiểu này, biên giới giữa Canada và Alaska). Hiện nay, trên đất liền,
biên giới này ít đƣợc áp dụng, nhƣng trên biển, dạng biên giới này đƣợc biểu hiện:
- Đƣờng khép cửa vịnh (Vịnh Sidra của Libi);
- Đƣờng cơ sở thẳng (Đƣờng cơ sở của Myanma, 1977, dài 222 hải lý);
- Đƣờng vòng cung (Thoả thuận giữa Úc và Indonesia, 14/3/1977, quy định
vòng cung 24 hải lý cho các đảo Ashmore).
Ngày nay, phƣơng pháp biên giới nhân tạo còn đƣợc áp dụng cho việc phân
định các khu vực không lƣu quốc tế nhƣ:
- Ranh giới vùng thông báo bay FIR;
- Hành lang bay; hành lang bay qua và bay vào, bay ra vùng trời quốc gia [53,
215 - 218].
1.4.2. Biên giới chính thức và không chính thức
Khái niệm về đƣờng biên giới chính thức đƣợc gắn với việc tham gia chính
thức của chính phủ các bên đối với các hoạt động hoạch định biên giới và với việc
tạo ra một công cụ pháp lý, chẳng hạn nhƣ một hiệp ƣớc về hoạch định biên giới. Sự
phân biệt giữa giới hạn chính thức và không chính thức cũng tƣơng tự nhƣ sự phân
biệt giữa "de jure" (về pháp lý) và "de facto" (trên thực tế). Trên thực tế, việc hoạch

định biên giới bao giờ cũng phản ánh tính đa dạng trong các cuộc thƣơng lƣợng về
một biên giới đã có trong thực tế và đòi hỏi các bên cần có một thái độ mềm dẻo để
giải quyết đƣợc một cuộc tranh chấp về một đƣờng biên giới không chính thức hay
đã có trên thực tế (de facto). Nhƣng ngƣợc lại, sự phân biệt này cũng phần nào cho

2
1 liên = 1/10 hải lý.


25
thấy các cuộc thƣơng lƣợng đang diễn ra trong thời điểm hiện nay giữa các quốc gia
về một đƣờng biên giới không chính thức có thể là không cần thiết bằng việc cần có
một sự quan tâm hơn đến một đƣờng biên giới chính thức. Tuy nhiên, đƣờng biên
giới không chính thức của một bên đơn phƣơng đƣa ra cũng là cơ sở ban đầu để đi
vào giải quyết vấn đề hoạch định biên giới giữa các bên, đặc biệt là ở những khu vực
có tranh chấp.
1.4.3. Biên giới đơn phương và song phương
1.4.3.1 Biên giới đơn phương: Căn cứ vào những tài liệu lịch sử của nhân loại
trong quá trình hình thành các quốc gia độc lập, có thể rút ra một kết luận chắc chắn
là việc hoạch định biên giới ở Trung Quốc và Rome là một điển hình của công tác
quản lý hành chính mang tính mơ hồ (không chính xác) và tất nhiên hoàn toàn đơn
phƣơng. Hành vi xác định biên giới đầu tiên trên đất liền đƣợc ghi nhận lại trong
một văn bản đơn phƣơng là do Vua Charlemagne (nƣớc Anh) ban hành mang tính
gia đình hơn là một văn bản hành chính đơn thuần [20,98]. Vào giai đoạn đó, việc
hoạch định biên giới của một đế chế hay một vƣơng triều đều là hoạch định đơn
phƣơng để thực hiện một chức năng hành chính cụ thể nào đó mang tính chính thức
hay không chính thức.
1.4.3.2. Biên giới song phương: Biên giới song phƣơng là một hình thức giải
quyết mang tính quốc tế đã xuất hiện từ thế kỷ XIII [20,201]. Vào thời điểm đó mới
chỉ có một số ít biên giới trên đất liền đƣợc xác định bằng hình thức song phƣơng.

Công ƣớc Hoạch định biên giới giữa Pháp và Trung Quốc năm 1887 là một văn bản
pháp lý về biên giới quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Ngày nay, phần lớn những
ngƣời làm công tác hoạch định biên giới và hầu hết các chính phủ đều có xu hƣớng
coi việc hoạch định mang tính quốc tế là một vấn đề cần đƣợc giải quyết trên cơ sở
"hai quốc gia cần phải thỏa thuận về một con đƣờng và theo đó các bên chấp nhận
nó nhƣ một đƣờng phân chia tài sản" [20,190].
1.4.4. Các loại biên giới khác
Trong thực tiễn khoa học pháp lý hiện đại, việc mở rộng và phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia, cùng với sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học,

×