Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.02 KB, 110 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




BI TH HNG VN


ĐạO ĐứC CÔNG Vụ
TRONG NHà NƯớC PHáP QUYềN ở VIệT NAM


Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01



LUN VN THC S LUT HC




Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TSKH. O TR C



H NI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Thị Hồng Vân









MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 7
1.1. Công vụ, công chức và đạo đức công chức 7

1.1.1. Công vụ 7
1.1.2. Công chức 10
1.1.3. Quan niệm về đạo đức công chức 11
1.2. Đạo đức công vụ 14
1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ 14
1.2.2. Quá trình hình thành đạo đức công vụ 25
Kết luận chƣơng 1 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 33
2.1. Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở
Việt Nam 33
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chế định đạo đức công vụ
trong pháp luật Việt Nam 33
2.1.2. Đạo đức công vụ theo pháp luật Việt Nam hiện nay 36
2.2. Thực trạng đạo đức công vụ của công chức 41
2.2.1. Việc thực hiện trách nhiệm, bổn phận của công chức 41
2.2.2. Những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ 42
2.2.3. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ 53
Kết luận chƣơng 2 60
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HIỆN NAY 61
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao đạo đức công vụ ở nƣớc ta hiện nay 61
3.1.1. Nâng cao đạo đức công vụ nhằm xây dựng nền hành chính phục
vụ nhân dân 61
3.1.2. Nâng cao đạo đức công vụ theo hướng xây dựng nền công vụ
chuyên nghiệp và đội ngũ công chức vừa có phẩm chất đạo đức,
vừa có trình độ chuyên môn 65
3.2.1. Pháp điển hóa các giá trị đạo đức công chức thành những cam

kết bắt buộc công chức thực hiện trong thực thi công vụ 72
3.2.2. Xây dựng chế định tuyển dụng và sát hạch công chức thường xuyên 81
3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra công vụ, kiểm tra giám sát, ngăn
ngừa và xử phạt vi phạm nhằm nâng cao đạo đức công vụ 83
3.2.4. Thực hiện trách nhiệm giải trình của công chức trong thực thi công vụ 86
3.2.5. Tăng cường giáo dục đạo đức công vụ 89
3.2.6. Nâng cao đạo đức công vụ trên cơ sở xây dựng chế độ vật chất,
phúc lợi xã hội phù hợp 94
Kết luận Chƣơng 3 99
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính đòi
hỏi xây dựng một nền hành chính chính quy, chuyên nghiệp thực sự là của dân, do
dân, vì dân, cùng với quá trình đó là “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên
nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”[15]. Những phẩm chất đó như là những biểu
hiện tập trung đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và chuyển đổi từ nền hành chính
cai quản sang nền hành chính phục vụ thực hiện các dịch vụ công đòi hỏi phải nâng
cao đạo đức công vụ của tất cả mọi đối tượng cán bộ, công chức, viên chức khi thực
thi công vụ.
Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu vấn đề Đạo đức công vụ không chỉ
có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Sở dĩ như vậy là vì lý do chủ

yếu sau đây:
Một là: Đạo đức công vụ là vấn đề cơ bản nhất để Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý xã hội. Có thể nói sau khi xây dựng dựng được hệ thống chính sách
đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chức năng quản lý xã hội của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện thế nào, hiệu quả, hiệu lực ra
sao phụ thuộc đáng kể vào việc thực thi công vụ của đội ngũ công chức nhà nước.
Nói cách khác đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ có ảnh hưởng quyết
định. Vì vậy nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ cấp bách
trong tiến trình cải cách nền hành chính.
Hai là: Nhà nước ta luôn xác định nhân tố con người đóng vai trò then chốt
trong công cuộc cải cách hành chính, xây dựng được một đội ngũ công chức giỏi
về nghiệp vụ và đáp ứng được những chuẩn mực của đạo đức công vụ là một trong
những yêu cầu cấp bách góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà
nước pháp quyền đồng thời nâng cao đạo đức công vụ còn là một trong những công
cụ hữu hiệu phục vụ cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực.
2

Ba là: Trong nhà nước pháp quyền, người dân có vị trí đặc biệt. Xu hướng
chung là các chức năng của nhà nước đang hướng tới phục vụ, đáp ứng lợi ích của
người dân. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó mục
tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Với bản chất như vậy và để
thực hiện mục tiêu đó thì đội ngũ công chức phải thực sự là người có đạo đức. Hơn
nữa trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải nâng cao đạo
đức công vụ phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
rộng với thế giới.
Bốn là: về phương diện thực tiễn, sau 28 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đang đứng trước những thách thức
không nhỏ. Tình trạng trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức
đang có nhiều vấn đề; suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức. Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân, trong xã hội và là

thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đại hội XI
của Đảng nhận định:
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn đẩy
lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp cùng với sự phân hóa giàu nghèo
và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp nhiều ngành làm
giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước, đe dọa sự ổn định của
đất nước [15].
Như vậy việc nghiên cứu đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay để tìm ra
phương hướng, giải pháp khắc phục tình trạng này đã trở thành một đòi hỏi bức thiết
không chỉ của nền hành chính quốc gia, mà còn là nhu cầu của toàn xã hội.
Về phương diện lý luận, mặc dù trong những năm gần đây, chúng ta đã có
những công trình, đề tài nghiên cứu về công vụ, công chức, đạo đức cán bộ, công
chức. Song từ góc độ của Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật và trong môi
trường xây dựng nhà nước pháp quyền để nghiên cứu đạo đức công vụ vẫn còn bỏ
3

ngỏ. Với mong muốn góp thêm ý kiến làm sáng tỏ thêm những vấn đề liên quan đến
đạo đức công vụ, học viên mạnh dạn chọn đề tài “Đạo đức công vụ trong nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đạo đức công vụ
trong nhà nước pháp quyền; đánh giá thực trạng đạo đức công vụ của công chức ở
Việt Nam hiện nay; đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao đạo
đức công vụ của công chức ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên: đề tài có nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức

công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam.
- Phân tích thực trạng đạo đức công vụ của đội ngũ công chức thời gian qua,
từ đó thấy được những hạn chế, yếu kém của nền công vụ nước ta.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật và nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ công chức nước ta hiện nay.
3. Tính mới và đóng góp của đề tài
Luận văn có những đóng góp khoa học mới như sau:
- Đưa ra các luận điểm khoa học về đạo đức công vụ của công chức trong
nhà nước pháp quyền.
- Chỉ ra những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ của công chức trong
quá trình thực thi công vụ và những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó.
- Đề xuất được một số phương hướng, giải pháp có căn cứ khoa học, mang
tính thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ,
đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Chủ đề đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một
chủ đề lớn, bao gồm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức của đối
tượng cá nhân khác khi được nhà nước trao quyền thực thi công vụ. Vì vậy,
4

trong khuôn khổ giới hạn của luận văn thạc sỹ, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
về đạo đức công vụ của công chức hành chính nhà nước. Đây cũng là sự tự giới
hạn của việc nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức công vụ của đội ngũ công chức
trong bộ máy hành chính nhà nước, thông qua các hoạt động thực thi công vụ của
công chức. Khi đánh giá thực trạng, luận văn nhấn mạnh hạn chế, yếu kém, nguyên
nhân của nó chủ yếu trên các lĩnh vực: thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng và phát
triển đội ngũ công chức và chỉ giới hạn trong hoạt động công vụ của công chức từ
năm 1986 đến nay.
5. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài

Ở nước ta có nhiều đề tài công trình khoa học ở nhiều giác độ, phạm vi, giới
hạn khác nhau về vấn đề đạo đức công vụ. Học viên đã tiếp cận một số công trình
khoa học về Đạo đức công vụ được công bố như:
- Đề tài khoa học cấp bộ “Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của TS.
Nguyễn Ngọc Hiến - Học viện hành chính quốc gia, chủ nhiệm đề tài.Công trình này
- Tìm hiểu về nền hành chính nhà nước của tác giả Nguyễn Hữu Khiển, năm 2003.
- Đạo đức trong nền công vụ của nhóm tác giả Tô tử Hạ, Trần Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Kim Thảo biên soạn năm 2002; Đề tài này giới thiệu các kinh nghiệm
cũng như giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam về nâng cao đạo đức trong
nền công vụ.
- Công vụ, công chức nhà nước của tác giả Phạm Hồng Thái, ấn hành năm
2004. Công trình này tập trung làm rõ những khía cạnh lý luận, pháp lý về công vụ,
công chức nhà nước, nhưng công trình không có những luận bàn về đạo đức công
vụ, đạo đức công chức trong thi hành công vụ.
- Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, của tác giả Bùi Thế Vĩnh, ấn hành
năm 2003.Các tác giả đã đưa ra một số giải pháp chung để xây dựng đạo đức cán bộ
công chức trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, sự vận dụng kinh nghiệm
nước ngoài trong việc thúc đẩy tiến trình luật hóa đạo đức công chức ở Việt Nam.
5

- Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp của tác giả
Nguyễn Duy Quý, ấn hành năm 2006.
- Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
của hai tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc, ấn hành năm 2003
- Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức công vụ (Đề tài cấp bộ 2006 –
2007) do tác giải Phạm Hồng Thái làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã có những luận
bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật về công vụ và đạo đức
công vụ, đồng thời đã phân tích sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ.

- Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay- thực trạng và xu hướng biến động(Đề tài cấp bộ năm 2002-
2003 do Nguyễn Thế Kiệt - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ
nhiệm đề tài).
- Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005 của Mai Xuân Hợi.
- Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay,
Luận văn thạc sỹ của Lê thị Hằng - Viện triết học năm 2008.
- Trách nhiệm công chức và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận án
tiến sỹ của Cao Minh Công - Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 2012
- Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ
công chức ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Hữu Khiển đăng trên Tạp chí triết
học số 10/2003.
- Nghiên cứu so sánh qui định về đạo đức công vụ của một số quốc gia và
Việt Nam của tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan, ấn hành năm 2012. Đề tài này đề cập đến
những vấn đề chung về đạo đức công vụ, so sánh đối chiếu quy định về đạo đức
công vụ của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho hệ thống quản lý đạo
đức công vụ của Việt Nam.
- Luật cán bộ công chức năm 2008; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật tố cáo
năm 2011; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Các công trình trên đã đề cập đến nhiều nội dung phong phú như bàn về đạo
6

đức công vụ, nội dung vai trò và ý nghĩa đạo đức công vụ trong việc thực thi công
vụ. Tuy nhiên, trong các công trình nói trên vấn đề đạo đức công vụ, đạo đức của
công chức trong thi hành công vụ đã được các tác giả xem xét, giải quyết ở một số
khía cạnh nhất định, từ phương diện đạo đức học, xã hội học, triết học, hành chính
học, hay pháp luật hành chính, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đạo đức
công vụ dưới góc độ của Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật và trong môi

trường xây dựng nhà nước pháp quyền.
Tuy vậy, các công trình trên là tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho học
viên thực hiện luận văn này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như:
Phương pháp lịch sử: Xem xét đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức
công vụ theo từng giai đoạn, từng quá trình. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát triển
cũng như vai trò của đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức công vụ
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết
quả của các công trình nghiên cứu về đạo đức công vụ. Tuy nhiên đây không phải là
sự sao chép vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả.
Phương pháp so sánh: So sách đạo đức công vụ với các loại hình đạo đức khác.
Phương pháp thống kê xã hội học: Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo
sát về thực trạng đạo đức công vụ để đề ra những giải pháp hợp lý.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về đạo đức công vụ trong Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam
Chương 2. Thực trạng đạo đức công vụ ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra
Chương 3. Phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công
vụ trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1.1. Công vụ, công chức và đạo đức công chức

Để nghiên cứu, đánh giá về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, trước hết cần thống nhất quan điểm về công vụ, công chức, đạo
đức công vụ của công chức, do đó Luận văn giành một phần để làm rõ những khái
niệm công vụ, công chức. Vì nếu không xác định rõ, thì mọi điều viết về đạo đức
công vụ cũng không có tính xác định.
1.1.1. Công vụ
Công vụ là khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong khoa
học chính trị, nhất là trong hoạt động của nhà nước. Trong cuốn Thuật ngữ hành
chính, các tác giả viết:
Công vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà
nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo qui định của
pháp luật nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ
lợi ích nhà nước và xã hội [60].
Khái niệm công vụ gắn chặt với nền hành chính nhà nước, là một loại lao
động đặc thù thể hiện bộ phận quản lý nhà nước; thực thi pháp luật, đưa pháp luật
và đời sống; quản lý và sử dụng hiệu quả công sản và ngân sách nhà nước phục vụ
nhân dân, phục vụ xã hội. “Công vụ là một hoạt động mang tính quyền lực và pháp
lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước
trong quá trình quản lý các mặt của đời sống xã hội” [22]. Nói đến công vụ là nói
đến hoạt động của nhà nước, một lĩnh vực đặc thù, mang tính quyền lực công, được
thực thi bởi một đội ngũ công chức hành chính nhằm thực hiện các chính sách của
nhà nước trong quá trình quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đề cập
đến công vụ là đề cập đến trách nhiệm của công chức thực hiện quyền và nghĩa vụ
8

nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Về mặt pháp lý, trách nhiệm thường
được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ.
Do đó, công vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực công
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của pháp luật. Với ý nghĩa quan trọng

như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ có hiệu lực,
hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ. Các quốc gia có thể chế chính trị
và tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau thì quan niệm về hoạt động công vụ cũng có
điểm khác nhau. Tuy nhiên, bản chất và mục tiêu cuối cùng của hoạt động công vụ
đều giống nhau.
Khái niệm công vụ có thể được xem xét, hiểu và tiếp cận dưới nhiều cấp độ,
phạm vi khác nhau: Thứ nhất, công vụ được hiểu là hoạt động của công chức thực
hiện hoạt động hành chính nhà nước. Thứ hai, công vụ được hiểu là hoạt động của
công chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước và lực lượng
vũ trang. Cách hiểu này nhằm tách biệt những hoạt động có tính chính trị với với
hoạt động có tính chuyên môn nghề nghiệp. Thứ ba, công vụ được hiểu là các công
việc của nhà nước, có nghĩa hoạt động của mọi thiết chế, tổ chức nhà nước đều thực
hiện công vụ. Cách hiểu như vậy quá rộng, gần giống với quan niệm về dịch vụ
công của các nước Anh, Mỹ, người ta coi cả hoạt động lập pháp, quốc phòng an
ninh cũng là “dịch vụ công”. Nhưng quan niệm này cũng có yếu tố hợp lý là có thể
thấy mọi hoạt động của nhà nước trong một chừng mực nhất định đều mang tính
chất phục vụ nhân dân. Trong đó những hoạt động mạng tính chất quyền lực công
thì gọi là công vụ, còn những hoạt động của các tổ chức sự nghiệp nhằm mục đích
phục vụ công cộng thì gọi là “dịch vụ công”. Thứ tư, công vụ được hiểu là hoạt
động của bộ, công chức, viên chức hoạt động trong mọi cơ quan, đơn vị sự nghiệp
của nhà nước và cả cán bộ, chiến sỹ làm việc trong các lực lượng vũ trang. Từ đây
nảy sinh vấn đề là không nhận thấy cái đặc thù của từng loại hoạt động nhà nước:
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Như vậy, có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng điểm chung
nhất của các quan niệm đó là tính chất phục vụ xã hội của hoạt động công vụ đều
9

gắn với nhà nước, với quyền lực công. Công vụ thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích
của nhân dân và của nhà nước. Xuất phát từ chỗ công vụ là phương tiện thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, nó là định chế tổ chức - pháp lý trong hệ

thống tổ chức quyền lực nhà nước và phải phục vụ ý chí của nhà nước và của nhân
dân. Công chức khi thưc thi công vụ phải phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm tra giám
sát của nhân dân và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ở Việt Nam, do dặc thù riêng, các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội là một hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Giữa các cơ quan này luôn có sự liên thông trong sử dụng nguồn nhân lực.
Do đó công vụ không chỉ thuần túy là hoạt động của công chức nhân danh quyền
lực công, mà còn được hiểu là các hoạt động trong phạm vi rộng hơn. Để khẳng
định tính đặc thù này, Điều 2 Luật cán bộ công chức năm 2008 quy định hoạt động
công vụ “Là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo qui
định của Luật này và các quy định khác có liên quan” [47].
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền.
Vì vậy việc làm rõ nội hàm khái niệm công vụ có ý nghĩa quan trọng đối với việc
xây dựng nền hành chính hiệu quả, chuyên nghiệp, trong sạch và có đạo đức phục
vụ nhân dân. Chương trình sáng kiến phòng chống tham nhũng ở Việt Nam năm
2011 khẳng định:
Nền hành chính phục vụ là nền hành chính dân chủ, trong
sạch,vững mạnh chuyên nghiệp, hiện đại, trong đó đội ngũ cán bộ công
chức có đủ phẩm chất và năng lực, các cơ quan nhà nước hoạt động có
hiệu lực hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế chính trị, xã hội
của đất nước. Nền hành chính phục vụ đóng vai trò phục vụ tốt nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân chứ không phải để hành dân [56]
Tóm lại, khái niệm công vụ được xem xét, hiểu ở nhiều cấp độ, phạm vi khác
nhau. Nhưng theo chúng tôi Công vụ là toàn bộ hoạt động của công chức trong
quản lý xã hội theo chức năng được qui định trong pháp luật nhằm mục đích phục
vụ nhân dân, xã hội và nhà nước.
10

1.1.2. Công chức
Công chức là bộ phận cấu thành của nền công vụ. Khái niệm công chức bao

giờ cũng song hành và gắn liền với sự hình thành, phát sinh và phát triển của nền
công vụ. Năng lực, hiệu quả hoạt động của nền công vụ được quyết định bởi trình độ,
năng lực của công chức. Công chức được hiểu một cách chung nhất là những người
thừa hành quyền lực nhà nước trong thực thi công vụ một cách chuyên nghiệp. Thuật
ngữ công chức ở Việt Nam được sử dụng qua mỗi giai đoạn lịch sử với phạm vi rộng,
hẹp khác nhau, theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ công chức năm 2008:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi
chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn
vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [47, Điều 4, Khoản 2].
Bên cạnh đó Luật còn quy định “công chức cấp xã là công dân Việt Nam
được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Khác với các nước, công chức ở Việt Nam bao gồm: công chức trong các cơ
quan Đảng cộng sản Việt Nam, công chức Nhà nước, công chức của các tổ chức
chính trị - xã hội, công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, công chức trong cơ
quan, đơn vị quân đội và công an. Như vậy, nghiên cứu đạo đức công vụ là nghiên
cứu đạo đức trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức.
11

1.1.3. Quan niệm về đạo đức công chức
Thuật ngữ “đạo đức” trong tiếng Anh là morality, trong tiếng Pháp là marale

đều có gốc từ tiếng La tinh là moris, có nghĩa là những lề thói đạo nghĩa. Trong tiếng
Hy Lạp, thuật ngữ ethicos (hạnh kiểm, luân lý) cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Sau
này, người phương Tây cũng dùng cả thuật ngữ ethique với nghĩa là đạo đức.
Trong tiếng Việt thuật ngữ "đạo đức" được giải thích theo nhiều cách khác
nhau: Đạo đức là "Phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập
thể, với xã hội" "phẩm chất tốt đẹp của con người"

[63]. Có người giải thích đạo
đức là từ ghép, được tạo bởi hai thành tố "đạo" và " đức"; "đạo" là "một cái đạo lý,
một cái lẽ nhất định, là ai cũng phải noi đấy mà theo"; " đức" có nghĩa là " cái đạo
để lập thân, thiện, làm thiện, cảm hóa đến người [14]. Theo cách giải thích của Đào
Duy Anh thì chữ "đạo đức" được tạo bởi hai thành tố "đạo" và "đức", “đạo” có
nghĩa là đường đi, còn “đức” có nghĩa là có nghĩa là nguyên lý tự nhiên, được vào
lòng người là đức - Cái lý - pháp người ta nên noi theo [morale,vertu 1]. Như vậy,
về mặt ngôn ngữ đạo đức được hiểu ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, đạo đức là những chuẩn mực, những quy tắc trong hành vi, cách
xử sự giữa con người với con người;
Thứ hai đạo đức là công lý, lẽ phải, chuẩn mực phù hợp với quy luật của tự
nhiên và xã hội, là "cái lẽ sống, lẽ phải, đạo ở đời";
Thứ ba đạo đức phẩm chất, nét đẹp của con người.
Như vậy, về mặt ngữ, nghĩa của từ, người phương Đông và phương Tây đều
gặp nhau ở một điểm là đều coi "đạo đức" là những chuẩn mực xã hội, mang tính
hướng thiện, là công lý, lẽ phải nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi con người.
Từ đó có thể hiểu: đạo đức là “tổng hợp những nguyên tắc, quan điểm, chuẩn mực
về điều thiện, điều ác, lương tâm, lẽ công bằng, điều vinh, điều nhục nhằm hướng
con người đến cái chân, cái thiện, cái mỹ ; chống lại cái giả, cái ác, cái xấu”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa thế giới, đã bàn
nhiều về vấn đề đạo đức, Người đã sử dụng nhiều phạm trù, khái niệm đạo đức như:
trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính đã có trong Nho giáo; dân chủ, công
bằng, tự do, bình đẳng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hylạp, La Mã.

12

Người không sử dụng thuật ngữ “đạo đức cán bộ, công chức, mà sử dụng
thuật ngữ đạo đức cách mạng, đạo đức cán bộ”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong [32]. Người căn dặn cái
gì cũ mà xấu, thì phải bỏ cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì
phải sửa đổi lại cho hợp lý; cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm; cái
gì mới mà hay, thì ta phải làm [29].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để trau dồi đạo đức cách mạng, người cán bộ
phải luôn rèn luyện, tu dưỡng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quan
liêu. Theo Hồ Chí Minh thì "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [33].
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được khái quát
thành nội dung sau: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đạo đức cách mạng cũng chính là
đạo đức của người cán bộ, công chức.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ vẻ vang;
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân [30]. Người còn nói Đạo đức của người cách mạng không
phải là những giáo điều suông mà là đạo đức của hành động. Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong [30].
Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức đó, đạo đức cán bộ còn là" lời nói đi đôi
với việc làm (ngôn hành hợp nhất), nêu gương làm tốt, đấu tranh và khắc phục thói
hư, tật xấu. "Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức, muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước" [30].

Như vậy, cán bộ phải là người phục vụ trung thành của nhân dân, gắn bó
13

chặt chẽ với nhân dân, hết lòng, hết sức tận tuỵ phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến
của nhân dân. Đó là tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức người
cán bộ cách mạng, đó cũng chính là đạo đức cán bộ, công chức
Trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những chủ trương, chính sách xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng vừa chuyên, rèn luyện đạo đức theo
gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đạo đức cán bộ, công chức theo quan điểm
của Đảng ta được khái quát thành các nội dung sau:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn
bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng
lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các
tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
Mặt khác các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán
bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Đảng cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tự
giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu
giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ
nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời, chú
ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện [17].
Những quan điểm chuẩn mực chung về đạo đức cán bộ, đảng viên được cụ
thể hóa trong nhiều văn bản của Đảng, đặc biệt là những quy định về những việc
đảng viên không được làm, đồng thời cũng là những chuẩn mực đạo đức của

người cán bộ, công chức không chỉ trong công vụ, mà còn trong lối sống sinh
hoạt hàng ngày của họ.
14

Trên cơ sở quan niệm về đạo đức, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cán bộ, có thể hiểu: Đạo đức
công chức là hệ thống các nguyên tắc, quan điểm, quy phạm về lẽ phải, sự công
bằng, về điều thiện, cái ác, cái đúng, cái sai trong đời sống xã hội, đời sống nhà
nước thể hiện ý chí, tâm tư tình cảm của công chức, nhằm điều chỉnh ý thức, hành
vi hành vi, cách xử sự của công chức trong hoạt động công vụ, nhiệm vụ, cũng như
thái độ của họ trong công vụ.
Tư tưởng, quan điểm về đạo đức công chức là cơ sở nền tảng để xây dựng một
nền đạo đức công vụ phục vụ nhân dân của công chức. Những tư tưởng, quan điểm
đó là cơ sở để thể chế hóa thành pháp luật.
1.2. Đạo đức công vụ
1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền tảng của quan
điểm: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [44]. Nhân dân là chủ, cán
bộ, công chức là công bộc của dân. Trong điều kiện như vậy, đạo đức công vụ trong
tình hình mới có những nội dung cơ bản sau đây:
Cán bộ, công chức phải là công bộc của dân, tận tụy phục vụ dân. Mọi hoạt
động đều lấy nhân dân làm mục đích phục vụ.
Công chức các cơ quan quản lý hành chính tham mưu xây dựng, ban hành
các chính sách, thể chế quản lý; phải quán triệt tinh thần phục vụ dân, thuận lợi cho
dân trong làm ăn, sinh sống, thực hiện các quyền con người; thuận tiện trong việc
cung cấp các dịch vụ hành chính cho dân; không sách nhiễu phiền hà, không được
cửa quyền khi giải quyết việc của dân với thái độ xin cho, ban ơn (thể hiện trong
việc giải quyết thủ tục hành chính, cấp các loại giấy phép).
Công chức làm việc ở các đơn vị sự nghiệp phải cung cấp tốt dịch vụ cho cá

nhân, tổ chức, xóa bỏ cơ chế xin cho, ban ơn thời bao cấp, đồng thời hạn chế tình
trạng thương mại hóa khi chuyển sang cơ chế thị trường (thể hiện ở các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, các dịch vụ văn hóa tinh thần, các loại dịch vụ dân
15

sinh khác). Công chức, viên chức, nhân viên (thuộc khu vực doanh nghiệp, khu vực
công) cung cấp các loại dịch vụ mang tính chất dịch vụ hàng hóa phải đảm bảo chất
lượng tốt, giá thành hợp lý, không phiền nhiễu khách hàng (các loại dịch vụ điện,
nước, bưu điện, môi trường, cơ sở hạ tầng).
Cán bộ, công chức có thái độ, tinh thần làm việc tận tụy, có trách nhiệm cao
với công việc. Sự tận tụy phải được thể hiện ở hiệu quả, chất lượng công vụ. Công
chức hành chính thể hiện ở hiệu quả tham mưu, góp phần xây dựng các chính sách,
thể chế đúng, khả thi tạo được động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Công
chức chuyên môn sự nghiệp thể hiện ở sự tận tụy với công việc; có sản phẩm, phục
vụ có chất lượng, cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đảm bảo đúng là một Nhà
nước phục vụ ở các lĩnh vực y tế, giáo dục, dân sinh khác; có sức cạnh tranh tốt hơn
so với dịch vụ ngoài Nhà nước; thể hiện rõ tính ưu việt của Nhà nước.
Phẩm chất trong sạch của cán bộ, công chức: Không tham nhũng, tham ô tài
sản Nhà nước và của dân. Thực hiện công vụ vô tư, với thái độ phục vụ không đòi
hỏi, sách nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức, nhân dân. Không vụ lợi, lợi dụng chức
vụ, vị trí công tác để mưu lợi riêng. Lành mạnh trong lối sống, sinh hoạt.Thực hiện
tiết kiệm cho Nhà nước, cơ quan. Có lối sống giản dị, phong cách làm việc, quan hệ
với đồng nghiệp, nhân dân tốt.
Tinh thần đồng đội, hợp tác trong thực hiện công vụ: Có tinh thần hợp tác,
phối hợp với đồng nghiệp trong cơ quan để cùng thực hiện công vu; biết tập hợp,
phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể; Nhận việc khó về mình, không tranh công, đổ
lỗi; gặp việc khó cùng hợp tác tìm cách giải quyết; luôn có tinh thần giúp đỡ đồng
nghiệp cùng hoàn thành nhiệm vụ. Tạo cơ hội để đồng nghiệp phát triển, tiến bộ;
Tinh thần vì tập thể, vì việc công; xây dựng cơ quan, tập thể thành đơn vị mạnh.
Tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo: Đạo đức công vụ thể hiện ở tính kỷ luật,

thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và theo sự phân công của
cấp trên. Tận tâm, tận lực hoàn thành nhiệm vụ với ý thức tổ chức kỷ luật và tính tự
giác cao của người cán bộ, công chức.Kỷ luật công vụ thể hiện ở việc chấp hành
nghiêm các quy định, nội quy, chế độ làm việc của cơ quan, tổ chức. Không tùy
16

tiện, tự do, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương, làm việc tùy thích cá nhân… Cùng với tính
kỷ luật, đạo đức công vụ bao hàm và đòi hỏi phải có tinh thần sáng tạo, phát huy
sáng kiến của mỗi cán bộ, công chức để hoàn thành nhiệm vụ. Không thụ động,
máy móc, quan liêu. Có sự sáng tạo trong tư duy, phong cách, phương pháp làm
việc; đề xuất sáng kiến để hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao. Kết hợp đúng đắn
giữa tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo là một phẩm chất cơ bản rất cần thiết của đạo
đức công vụ trong một nền công vụ hiện đại, phát triển.
Đạo đức công vụ khác với đạo đức thông thường nói chung:
Thứ nhất: chủ thể đặt ra các qui tắc đạo đức công vụ là cơ quan nhà nước, tổ
chức, những nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước hoặc được hình thành dần
trong đời sống nhà nước bởi công chức và xã hội; do đó một phần đạo đức công vụ
được thể chế hóa trong các văn bản của cơ quan nhà nước.
Thứ hai, việc thực hiện các qui tắc đạo đức công vụ vừa mạng tính tự
nguyện,tự giác, vừa mang tính bắt buộc. Người vi phạm quy tắc đạo đức công vụ có
thể bị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước áp dụng các
biện pháp chế tài để xử lý kỷ luật.Việc áp dụng các biện pháp chế tài này là sự đánh
giá chính thống của xã hội đối với người vi phạm các qui tắc đạo đức công vụ.
Ngoài ra, các qui tắc đạo đức công vụ còn mang tính xã hội; do đó khi không thực
hiện các qui tắc đạo đức công vụ, người công chức còn bị cộng đồng đánh giá.
Đạo đức công vụ là một hiện tượng có cơ cấu của nó. Khi xem xét đạo đức
công vụ tức đạo đức của công chức khi thực thi công việc của nhà nước, phải dựa
trên hai yếu tố cơ bản: Công việc: tức mọi công việc đều phải hướng đến giá trị cốt
lõi của công việc đó. Công việc do công chức đảm nhận mang ý nghĩa xã hội rất cao
và do đó cần phải thực sự quan tâm đến giá trị công việc Con người thực thi công

việc đó: Để hướng đến những giá trị cốt lõi, con người thực thi công việc đó phải là
“người có đạo đức”. Tuy nhiên, đạo đức con người trong trường hợp công chức là
sự tổng hòa của các loại đạo đức: cá nhân; công dân, xã hội và nhà nước.
Hai yếu tố trên tạo nên đạo đức công vụ. Và cả hai yếu tố đó kết hợp chặt
chẽ, hài hòa với nhau tạo nên điều kiện “cần và đủ” cho sự hình thành đạo đức
17

công vụ. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó, khó có thể tạo nên “môi trường công
vụ có đạo đức”.
* Đạo đức công vụ trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân của công
chức. Công việc của nhà nước do công chức thực hiện. Do đó, muốn xem xét khía
cạnh đạo đức nghề nghiệp của công việc này, đòi hỏi phải xem xét từ khía cạnh đạo
đức cá nhân. Đạo đức cá nhân luôn gắn liền với đạo đức xã hội - những chuẩn mực
được xã hội coi là giá trị. Nhưng phải nhận thức đúng những giá trị tích cực, những
giá trị mang tính “cổ hủ”. Và xét trên một giác độ chung, công chức phải là những
người hướng đến những giá trị tích cực và phải trở thành “ tấm gương” về đạo đức
cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và pháp quyền.
Trên giác độ đạo đức cá nhân, công chức cũng như mọi công dân phải là một
công dân mẫu mực. Khía cạnh mẫu mực của công dân thể hiện cao cả nhất là chấp
hành nghiêm chỉnh “pháp luật” của nhà nước ban hành.
Trước hết, công chức (xét trên nghĩa chung nhất) là người tạo ra khuôn khổ
pháp luật đó. Và họ sẽ là người am hiểu nhất những chân giá trị của các quy định
của pháp luật. Nếu một sự lơ là nào đó đối với các chân giá trị đó, sẽ có tác động
ảnh hưởng rất lớn đến xã hội.
Hai là, công chức cũng là người triển khai tổ chức thực hiện, đưa những
“chân giá trị” của pháp luật vào đời sống (với nghĩa họ là người triển khai tổ
chức thực hiện pháp luật). Sự tuân thủ pháp luật cũng chính là tấm gương cho
người khác tuân theo.
Ba là, công chức là công dân và do đó cũng phải tuân thủ các quy định chung
của pháp luật dù bất cứ vị trí nào. Pháp luật không có phân biệt, đối xử ngoại lệ với

bất cứ ai. Mọi người phải được bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Đây là một
trong những thách thức về khía cạnh đạo đức cá nhân của công chức khi họ nắm
trong tay “rất nhiều quyền lực nhà nước” họ và những đồng nghiệp của họ có thể
“trao đổi cho nhau nhiều yếu tố quyền lực” và do đó, tạo cho họ dễ bị đứng “trên,
ngoài vòng pháp luật”. Tính gương mẫu của công chức khi chấp hành pháp luật cũng
là thể hiện “đạo đức cá nhân” phù hợp nhất với một xã hội trong đó sống, làm việc
18

theo pháp luật của công chức. Một công dân nếu vi phạm “những điều quy định của
pháp luật” có thể chỉ bị xem xét từ hai khía cạnh: Công dân và Công chức. Với khía
cạnh thứ hai này, phải xử lý công chức nặng hơn rất nhiều so với công dân cùng vi
phạm. Đạo đức công chức với khía cạnh công chức là một con người cụ thể trong
không ít trường hợp có thể bị mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình thực thi công vụ.
* Đạo đức công vụ được hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội của công chức
Đạo đức xã hội như trên đã nêu là chuẩn mực của các giá trị của từng giai
đoạn phát triển của xã hội và gắn liền với các hình thái xã hội khác nhau.Đạo đức
xã hội và cam kết thực hiện những giá trị chuẩn mực của đạo đức xã hội sẽ tạo ra
tiền đề cho xã hội phát triển.Trong bối cảnh hiện nay, đạo đức xã hội đang có những
sự thay đổi. Sự “thay đổi của các giá trị đạo đức xã hội” đang theo hai hướng: Tích
cực và tiêu cực. Nhiều chân giá trị mới của xã hội xuất hiện. Nhưng cũng không ít
những vấn đề của “xã hội” đang quay trở lại. Những giá trị thuần phong, mỹ tục của
xã hội tốt đang bị mai một. Trong khi đó, những cổ hủ, mang tính mê tín dị đoan lại
ngày càng trở nên phổ biến(Việt Nam). Và dưới sự tác động của kinh tế thị trường
làm cho các chuẩn mực xã hội cũng thay đổi theo. Những chân giá trị “chống lãng
phí, thực hành tiết kiệm” đang bị chính công chức làm cho thay đổi.
*. Đạo đức công vụ là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - công vụ công chức
Đạo đức nghề nghiệp đối với công chức là đạo đức của công việc cung cấp
dịch vụ cho người đứng đầu tổ chức; cho công dân và tổ chức. Một sự không trung
thực, thiên vị của công chức trong thực thi công vụ cung cấp dịch vụ có thể để lại
hậu quả rất lớn cho xã hội. Một quyết định chính sách được đưa ra trên cơ sở phân

tích, đánh giá của ý kiến nhà quản lý và của nhóm tham mưu. Công chức có bổn
phận phải suy nghĩ đến những loại thông tin đó để tham mưu đúng.
Đạo đức xã hội của công chức thể hiện tính dân chủ của công vụ mà công
chức thực hiện với công dân. Sự không thiên vị, vô tư và trong sáng có thể làm cho
người dân cảm thấy được sự tin tưởng hơn ở chính phủ; trong khi đó một sự thiên vị
do nhiều loại tác động khác nhau có thể làm cho tính chất công vụ sẽ thay đổi. Đó
cũng chính là dấu hiệu của đạo đức nghề nghiệp công vụ.
Một trong những khía cạnh của đạo đức thực thi công vụ của công chức là sự
19

chuyển đổi rất lớn vai trò của chính phủ trong xu hướng cải cách chung. Những xu
hướng cải cách như: phân cấp quản lý nhà nước cho các loại cơ quan, cấp hành
chính; coi trọng cấp dưới; vai trò xúc tác, lái thuyền chứ không chèo thuyền; mở
rộng sự tham gia của công dân trong hoạt động quản lý; xã hội hóa nhiều hoạt động
cung cấp dịch vụ công; người sử dụng dịch vụ phải trả tiền; hợp đồng thực thi hoạt
động cung cấp dịch vụ công; kế toán hoạt động; trách nhiệm báo cáo cho các bên có
liên quan; thương mại hóa; dân chủ; chính phủ điện tử.
Cách tiếp cận lấy công dân - người nhận và sử dụng dịch vụ của nhà nước
làm trung tâm hay công dân - khách hàng là thượng đế. Đó cũng là cách tư duy
hướng đến nền hành chính phục vụ. Trong bối cảnh đó, mức độ hài lòng của công
dân phải được coi là thước đo giá trị của hành chính và là thể diện đạo đức hoạt
động thực thi công vụ của công chức (đạo đức nghề nghiệp).
Đạo đức và pháp luật trong thực thi công vụ của công chức luôn phải gắn
liền chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, pháp luật là ranh giới đặc biệt, trong khi đó đạo
đức và các yếu tố thuộc về hành vi lại không như pháp luật trong tiến trình cải cách
hành chính, nhưng hành vi, cách ứng xử của công chức lại chưa thay đổi theo kịp
những thách thức để xây dựng đạo đức công vụ. Một hệ thống chuẩn mực mới và
hành vi mới cần phải được hoàn thiện, bổ sung.
Đạo đức nghề nghiệp là một chuẩn mực rất quan trọng để đánh giá con
người. Trong khu vực nhà nước, phải xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nói

chung và chuẩn mực nghề nghiệp của các loại công việc mà công chức đảm
nhận.Về nguyên tắc nghề nghiệp, công chức không chỉ nhìn nhận tính đạo đức của
mình thông qua lăng kính của các giá trị đạo đức nghề nghiệp chung, mà còn phải
tuân theo những giá trị đạo đức nghề nghiệp riêng. Pháp luật là một trong những
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp mà công chức phải coi đó như “là chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp có tính tối thiểu”, không được vi phạm và từng bước phải nâng cao
giá trị nghề nghiệp trên cả chuẩn mực pháp lý.
Sự xâm phạm những quy định mang tính đạo đức nghề nghiệp trong thực
thi công vụ của công chức được biểu hiện thông qua nhiều hoạt động khác nhau.
20

Nhưng đặc trưng chung của những sự vi phạm đạo đức đó chính là xâm phạm lợi
ích công, thay vào đó bằng lợi ích công, thay vào đó bằng lợi ích cá nhân hay
nhóm thiểu số.
*. Đạo đức thực thi công vụ là sự hài hòa của các giá trị
Trong khi thi hành công vụ, công chức phải định hướng thực hiện nhiệm vụ
của mình bảo đảm lợi ích công trong mối quan hệ của các giá trị: dân chủ, nghề
nghiệp, đạo đức và giá trị xã hội.
Giá trị dân chủ: công chức phải trung thực, không thiên vị trong việc tư vấn
và cung cấp thông tin cho lãnh đạo của họ; thực hiện các quyết định một cách trung
thành và đúng pháp luật; cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước khác cũng như
công dân những thông tin liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Đạo đức nghề nghiệp đang là một thách thức đối với công chức trong quá
trình thực thi công vụ. Tôn trọng pháp luật và trung lập về chính trị và đòi hỏi tính
trung thành chính trị đang là một thách thức. Trong khi đó, giá trị nghề nghiệp phải
gắn liền với năng lực; hoàn hảo trong thực thi; hiệu quả, khách quan và không thiên
vị. Điều này đặt ra cho công chức trong thực thi công vụ không thể nhân danh đảng
chính trị mà công chức là thành viên. Chính vì vậy, công chức có hay không được
tham gia các đảng phái chính trị là một trong những thách thức của công chức; công
chức phải bảo đảm khả năng tư duy sáng tạo để đưa ra các phương án sử dụng tiền

tiền thự thi công vụ được giao một cách hiệu quả trong bối cảnh thay đổi. Sự trì trệ,
cứng nhắc trong thực thi công vụ đang là một thách thức. Một mặt, phải tôn trọng
nguyên tắc pháp luật. Mặt khác, đòi hỏi phải sáng tạo trong thực hiện. Đòi hỏi công
chức phải dám chịu trách nhiệm với những tư duy sáng tạo đó của họ. Trong bối
cảnh môi trường hành chính đang thay đổi, tư duy sáng tạo phải được xem như một
giá trị nghề nghiệp cao của công chức trong thực thi công vụ.
Giá trị đạo đức, thực chất phải ứng xử phù hợp theo chuẩn mực quy định của
pháp luật, nhưng mặt khác phải quan tâm cả những khía cạnh đạo đức (ứng xử) xã
hội, nghề nghiệp, nhân văn. Đây là một thách thức không nhỏ đối với công chức.
Nhà nước cần phải quy định chuẩn mực hành vi ứng xử của công chức trong khi
thực thi công vụ.
21

Giá trị xã hội của công chức rất lớn. Họ không chỉ là nơi tạo niềm tin của
công dân đối với nhà nước và cũng là một tấm gương. Những biểu hiện lạm dụng
công quỹ; tài sản nhà nước, lãng phí đã làm cho cách nhìn của công dân đối với nhà
nước giảm niềm tin.
Đạo đức là phạm trù xã hội, nhưng đạo đức thực thi công vụ chính là sự chấp
hành “tuyệt đối” quy định của pháp luật đối với hoạt động đó. Chỉ khi đó, chân giá
trị của công chức - công vụ mới được thể hiện đầy đủ. Công chức thực sự trở thành
công bộc của dân và nền hành chính đích thực là nền hành chính phục vụ nhân dân.
Và trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh đó, đạo đức công vụ của công chức sẽ nâng
lên ý thức đạo đức và tự giác chấp hành.
* Đạo đức công vụ là sự tổng hòa của hai nhóm đạo đức khi thực thi công
việc của công chức và tuân thủ pháp luật.
(1) Trách nhiệm đối với thực thi công vụ:
Đạo đức thực thi công việc của công chức được xem xét từ khía cạnh trách
nhiệm đối với việc làm trong khu vực nhà nước.Mỗi một công dân trong điều kiện
cụ thể của pháp luật nhà nước, đều phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Tức
phải làm được những điều mà pháp luật nhà nước quy định họ phải làm; không

được làm; họ được làm. Ba cấp độ khác nhau này đâu là thuộc trách nhiệm của họ.
Và điều này cũng giống như mọi loại trách nhiệm khác.
- Phải làm mang tính bắt buộc (nhiệm vụ);
- Được làm mang tính quy định của pháp luật trao cho công chức khá nhiều
quyền. Và họ phải sử dụng quyền đó để thực thi tốt công vụ giao cho họ.
- Nên làm: đó là những loại công việc mà pháp luật liên quan đến công vụ
không nêu ra hạn chế, nhưng công chức cảm nhận được tính hợp lý, có thể làm
những công việc đó để đem lại lợi ích cao hơn cho xã hội mà pháp luật không cấm.
Đó cũng có thể là “tầm cao hơn” của chuẩn mực pháp lý phải làm.
- Không được làm: Đó là những điều pháp luật liên quan đến công vụ cấm
hoặc hạn chế không được làm. Điều này cần nhận thức đúng với những điều cấm,
không được làm so với công dân. Nhiều công việc đối với công chức bị “cấm, hạn
chế” nhiều hơn so với công dân.

×