Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Cải cách thủ tục hành chính ở cảng biển Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.91 KB, 105 trang )





KHOA LUẬT ĐẠI HỌC HÀ NỘI








TỔNG QUAN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM












NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG



Hà nội 2007


MỤC LỤC

Nội dung
Trang
Mục lục

1-3
Mở đầu

4-6
Chương 1
Pháp luật về thủ tục hành chính tại cảng biển
8
1.1
Giới thiệu chung
8
1.1.1
Khái niệm cảng biển
8
1.1.2
Phân loại cảng biển
10
1.1.3
Các cơ quan quản lý nhà nước tại cảng biển
11
1.2
Cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển
13
1.2.1
Khái niệm cải cách hành chính và cải cách thủ tục

hành chính
13
1.2.2
Nội dung của cải cách thủ tục hành chính
15
1.3
Quy định pháp luật Việt nam về thủ tục hành chính tại
cảng biển
17
1.3.1
Pháp luật hàng hải
17
1.3.2
Pháp luật về Hải quan
26
1.3.3
Pháp luật về Biên phòng
29
1.3.4
Pháp luật về kiểm dịch động vật
32
1.3.4.1
Đối với hàng hoá xuất khẩu
32
1.3.4.2
Đối với hàng hoá nhập khẩu
32
1.3.4.3
Đối với hàng hoá làm thủ tục kiểm dịch sau khi hoàn
thành thủ tục hải quan

33
1.3.5
Pháp luật về kiểm dịch thực vật
33
1.3.6
Pháp luật về y tế
35
1.4
Các công ước quốc tế, công ước quốc tế về tạo thuận
37
lợi trong giao thông hàng hải quốc tế
1.4.1
Các công ước quốc tế liên quan đến tàu biển
37
1.4.2
Công ước quốc tế về tạo điều kiện thuận lợi trong giao
thông đường biển (Công ước FAL 1965)
40
1.5
Giới thiệu kinh nghiệm áp dụng công nghệ thông tin
trong cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển nước
ngoài.
43
1.5.1
Singapore
43
1.5.2
Hồng kông
45
1.5.3

Malaysia
45
1.5.4
Nhật bản
47
1.5.5
Philippine
47
1.5.6
Hàn quốc
47
Chương 2
Thực trạng thực hiện cải cách thủ tục hành chính
49
2.1
Lược sử cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển
49
2.1.1
Thời kỳ trước năm 2005
49
2.1.2
Thời kỳ từ năm 2005 đến nay
52
2.1.2.1
Quy định chung
52
2.1.2.2
Áp dụng công nghệ tin học
57
2.2

Thực trạng thực hiện thủ tục hành chính tại cảng biển
62
2.2.1
Những mặt đạt được
62
2.2.1.1
Trong lĩnh vực hàng hải
63
2.2.1.2
Trong lĩnh vực hải quan
67
2.2.1.3
Trong lĩnh vực biên phòng
70
2.2.2
Những mặt bất cập
70
Chương 3
Giải pháp hoàn thiện
77
3.1
Nguyên tắc hoàn thiện
77
3.2
Giải pháp hoàn thiện
81
3.2.1
Về mặt pháp luật
81
3.2.2

Áp dụng công nghệ thông tin
84
3.2.3
Về cơ sở vật chất và nguồn lực tin học
93
Kết luận

96
Danh mục tài liệu tham khảo
99 -102







MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài:
Cảng biển là cửa ngõ của đất nước giao lưu với quốc tế, là đầu mối
của các phương thức vận tải. Việt Nam là một đất nước có bờ biển dài và
nằm trên đường hàng hải quốc tế nên cảng biển Việt Nam đóng một vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sự phát triển của ngành hàng hải nói chung và hệ thống cảng biển
quốc gia nói riêng trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của
các ngành kinh tế khác, đặc biệt là kinh tế ngoại thương. Cảng biển là nơi
tàu thuyền Việt Nam và tàu thuyền nước ngoài ra vào hoạt động, vận chuyển
hàng hoá xuất, nhập khẩu nên hoạt động hàng hải tại cảng biển mang tính
quốc tế cao, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau

như hàng hải, thương mại, hải quan, tài chính, môi trường, xuất nhập cảnh,
bảo vệ thực vật, bảo vệ động vật và y tế…Điều này đòi hỏi các quy định
pháp luật về cảng biển phải đồng bộ và hoạt động của các ngành quản lý nhà
nước tại cảng biển phải có sự phối hợp chặt chẽ. Trong những năm qua, thực
hiện chủ trương cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành
chính nói riêng của Chính phủ, thủ tục hành chính tại cảng biển được cải
cách phù hợp với năng lực quản lý của các cơ quan hành chính tại cảng. Tuy
nhiên, quá trình cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển như vừa qua chưa
phù hợp với thực tế phát triển của hoạt động hàng hải tại cảng biển đòi hỏi
các cấp các ngành liên quan phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện. Tính
đến nay, đã có những nghiên cứu về từng khía cạnh của cải cách thủ tục
hành chính trong từng ngành thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại cảng
biển như cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hàng hải, hải quan, biên
phòng…Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu tổng thể, đồng bộ về cải cách
thủ tục hành chính giữa các ngành quản lý nhà nước tại cảng biển nhằm bảo
đảm thời gian tàu chờ tại cảng ngắn nhất, thủ tục hành chính đơn giản nhất
và chi phí ít nhất; đồng thời, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể về cải cách thủ tục
hành chính tại cảng biển hiện nay, đặc biệt là trong giai đoạn công nghệ tin
học đang được áp dụng rộng rãi trong thủ tục hành chính là rất cần thiết cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, thuận
lợi trong việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động khai thác sử dụng cảng
biển của Việt nam, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Hàng hải nói
riêng và hệ thống pháp luật Việt nam nói chung.
Từ những lý do trên mà Luận văn đã chọn đề tài “Cải cách thủ tục
hành chính ở cảng biển Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn:
a. Mục đích
Luận văn đánh giá một cách tổng quan các quy định pháp luật Việt
Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; đồng thời, tham khảo

kinh nghiệm nước ngoài về thủ tục hành chính tại cảng biển. Trên cơ sở đó,
Luận văn phân tích thực trạng về mặt pháp luật và mặt thực tế về thủ tục
hành chính tại cảng biển, từ đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện
thủ tục hành chính tại cảng biển.
b) b. Nhiệm vụ
Với mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Đánh giá một cách tổng quan các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành và pháp luật quốc tế về thủ tục hành chính tại cảng biển;
- Phân tích thực trạng thủ tục hành chính tại cảng biển về các mặt thuận
lợi và khó khăn;
- Tham khảo kinh nghiệm nước ngoài; giới thiệu Công ước quốc tế có
liên quan đến thủ tục hành chính tại cảng biển;
- Những quan điểm, phương hướng, giải pháp và kiến nghị cụ thể góp
phần cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển Việt Nam đạt kết quả
cao. Đặc biệt là từ yêu cầu cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển ở
Việt Nam hiện nay trong điều kiện công nghệ thông tin đã và đang
được áp dụng rộng rãi, Luận văn sẽ đề xuất những kiến nghị trên cơ
sở áp dụng công nghệ thông tin trong quá trình cải cách thủ tục hành
chính tại cảng biển.
3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn:
- Hệ thống cảng biển Việt nam rất dài, được phân bổ tại nhiều khu
vực khác nhau theo dọc bờ biển Việt Nam nên chỉ lựa chọn 2 cảng
biển lớn nhất để phục vụ cho nội dung nghiên cứu của Luận văn;
- Lưu lượng tàu đi/đến và lượng hàng hoá xuất nhập, thông quan qua
hai cảng: Cảng Hải phòng (đầu mối ở phía Bắc) và Cảng Sài gòn
(đầu mối ở phía Nam) rất lớn, đứng đầu trong cả nước.
- Đây là hai trong những thành phố lớn của Việt nam, chính quyền
thành phố rất quan tâm đến việc đầu tư phát triển và chú ý đến cải
cách hành chính, nhất là khâu thủ tục nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các đơn vị đầu tư vào thành phố.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu bằng những phương pháp phù hợp như
phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh các số dữ liệu, số liệu và
phương pháp khoa học dự báo. Các số liệu minh họa trong Luận văn được
lấy từ nhiều nguồn khác nhau như trong các báo cáo tổng kết của các đơn vị
đang nghiên cứu, các bài viết trên các trang thông tin điện tử, các ấn phẩm
chuyên ngành và công cộng…
5. Kết cấu của Luận văn:
Luận văn gồm: Mục lục; Mở đầu; Phần nội dung gồm 3 chương; Kết
luận; Danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể như sau:
Mục lục
Mở đầu
Chương 1. Pháp luật về thủ tục hành chính tại cảng biển
Chương 2. Thực trạng thực hiện cải cách thủ tục hành chính
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


Tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sỹ luật học Nguyễn Thị Như Mai,
công tác tại Ban xây dựng pháp luật – Văn phòng Chính phủ, các thầy cô
giáo trong Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các bạn, đồng nghiệp,
gia đình đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Chương 1
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TẠI CẢNG BIỂN
1.1. Giới thiệu chung
a) 1.1.1. Khái niệm cảng biển
Cảng biển gắn liền với sự phát triển của ngành hàng hải. Trang thiết bị
của cảng biển ban đầu rất đơn giản và thô sơ và ngày càng được phát triển

với các trang thiết bị hiện đại. Cảng biển không những là nơi bảo vệ an toàn
cho tàu biển trước các hiện tượng thiên nhiên bất lợi, mà trước hết cảng biển
là một đầu mối giao thông, một mắt xích rất quan trọng của quá trình vận tải.
Cảng biển thực hiện các chức năng và nhiệm vụ rất khác nhau. Tuy nhiên,
khi định nghĩa về cảng biển, các nhà nghiên cứu hàng hải đều nhấn mạnh hai
yếu tố: Thứ nhất, cảng là nơi ra vào, neo đậu của tàu thuyền, là nơi phục vụ
tàu và hàng hoá chuyên chở trên tàu. Thứ hai, cảng là đầu mối giao thông
quan trọng trong hệ thống vận tải. Hai yếu tố này được thể hiện rõ ở hai
chức năng chủ yếu của cảng biển:
Chức năng thứ nhất là phục vụ các công cụ vận tải đường thuỷ, trước
hết là tàu biển. Với chức năng này, cảng phải đảm bảo cho tàu thuyền ra,
vào và neo đậu an toàn. Từ đó cảng có nhiệm vụ phục vụ các công việc cụ
thể như: đưa đón tàu bè ra vào, bố trí nơi neo đậu, làm vệ sinh tàu, sửa chữa
tàu, cung ứng các nhu cầu cần thiết cho tàu Chính vì vậy hoạt động của
cảng thường vượt ra ngoài phạm vi địa giới của cảng, tức là trên phạm vi
thành phố cảng. Thành phố cảng trở thành một trong những trung tâm công
nghiệp, thương mại - dịch vụ và trung tâm dân cư đông đúc.
Chức năng thứ hai là phục vụ hàng hoá. Tại cảng biển, quá trình
chuyên chở hàng hoá có thể được bắt đầu, kết thúc hoặc tiếp tục hành trình.
Chức năng này được tập trung ở nhiệm vụ phục vụ việc xếp dỡ hàng hoá
lên, xuống; từ tàu xuống cảng hoặc các phương tiện vận tải khác hoặc ngược
lại. Ngoài ra cảng còn thực hiện nhiều nghiệp vụ liên quan đến hàng hoá
như: bảo quản hàng hoá tại kho bãi, phân loại hàng, sửa chữa bao bì, ký mã
hiệu, kiểm tra số lượng, chất lượng, thủ tục giao nhận hàng hoá [29, tr.47-
48]

Vì vậy, cảng biển được các nhà khoa học hiểu chung là cảng được mở
ra để tàu biển ra, vào hoạt động. Cảng biển bao gồm vùng đất cảng và vùng
nước cảng. Vùng đất cảng gồm kho bãi, cầu cảng, nhà xưởng, khu hành
chính và dịch vụ hàng hải. Vùng nước cảng gồm vùng nước trước cầu cảng,

vùng neo đậu- chuyển tải, luồng ra vào cảng và vùng tránh bão.
Đối với Việt Nam, khái niệm cảng biển được hiểu là:[1]
“Cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng,
được xây dựng kết cấu hạ tầng và lắp đặt trang thiết bị cho tàu biển ra, vào
hoạt động để bốc dỡ hàng hoá, đón trả hành khách và thực hiện các dịch vụ
khác.
Vùng đất cảng là vùng đất được giới hạn để xây dựng cầu cảng, kho
bãi, nhà xưởng, trụ sở, cơ sở dịch vụ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc,
điện nước, các công trình phụ trợ khác và lắp đặt trang thiết bị.
Vùng nước cảng là vùng nước được giới hạn để thiết lập vùng nước
trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo đậu, khu chuyển tải, khu tránh
bão, vùng đón trả hoa tiêu, vùng kiểm dịch, vùng để xây dựng luồng cảng
biển và các công trình phụ trợ khác.
Cảng biển có một hoặc nhiều bến cảng. Bến cảng có một hoặc nhiều
cầu cảng. Bến cảng bao gồm cầu cảng, kho, bãi, nhà xưởng, trụ sở, cơ sở
dịch vụ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước, luồng vào bến
cảng và các công trình phụ trợ khác. Cầu cảng là kết cấu cố định thuộc bến
cảng, được sử dụng cho tàu biển neo đậu, bốc dỡ hàng hoá, đón trả hành
khách và thực hiện các dịch vụ khác”.
Như vậy, những định nghĩa và giải thích nêu trên của pháp luật hàng
hải Việt Nam về cơ bản là phù hợp với khái niệm cảng biển một cách chung
nhất.
a) 1.1.2. Phân loại cảng biển
Cảng biển có thể được phân thành nhiều loại tuỳ theo tiêu chuẩn quy
định. Theo mục đích sử dụng, cảng biển được phân thành: cảng thương mại,
cảng quân sự, cảng cá, cảng trú ẩn. Theo hàng hoá đến cảng, cảng thương
mại lại được phân thành cảng container, cảng tổng hợp, cảng chuyên dùng.
Theo tầm quan trọng của cảng thì cảng biển được phân loại thành cảng đặc
biệt quan trọng, cảng quan trọng. Theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt
Nam thì cảng biển được phân thành cảng biển loại 1, cảng biển loại 2 và

cảng biển khác.
Điều 59 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định:[1]

Cảng biển loại 1 là cảng biển đặc biệt quan trọng, có quy mô phục vụ
lớn phục vụ cho việc phát triển kinh tế, xã hội của cả nước hoặc liên vùng.
Cảng biển loại 2 là cảng biển quan trọng có quy mô vừa phục vụ cho
việc phát triển kinh tế – xã hội của vùng, địa phương.
Cảng biển loại 3 là cảng biển có quy mô phục vụ cho hoạt động của
doanh nghiệp.
Các tiêu chí phân loại cảng biển nói trên được sử dụng vào các mục
đích khác nhau. Cùng với hoạt động của các ngành kinh tế, các cảng biển
quốc gia có vị trí là “đầu mối” nhưng cũng giữ luôn vai trò “cầu nối” về giao
thông hàng hải nội địa giữa nước ta các các nước trong khu vực. Do đó mục
đích sử dụng liên mật thiết đến thủ tục hành chính tại cảng biển. Thủ tục
hành chính phân tích trong Luận văn này được hiểu là các thủ tục áp dụng
đối với các cảng thương mại, bao gồm các loại cảng dùng vào mục đích
thương mại như cảng hành khách, cảng chuyên dụng, cảng tổng hợp
a) 1.1.3. Các cơ quan quản lý nhà nước tại cảng biển
Khái niệm quản lý được hiểu theo nghĩa tiếp cận chung nhất là một
quá trình đi đến mục tiêu của một tổ chức thông qua sự phối kết hợp của
nhiều yếu tố (nguồn lực, cơ cấu tổ chức, phương pháp và cách thức hoạt
động ).
Quản lý có mặt trong mọi loại hình tổ chức, không phân biệt đó là tổ
chức quy mô lớn, bé; hoạt động dựa trên những loại quyền lực nào. Các cơ
quan hành chính nhà nước căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình để triển
khai công tác quản lý.
Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà
nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt
động quản lý trong phạm vi, lĩnh vực nhất định.

Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong
phạm vi hoạt động chấp hành điều hành. Các cơ quan hành chính nhà nước
đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cấp
tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó.
Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước dưới
hai hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ
sở hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp
chỉ đạo, điều hành, kiểm tra hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước dưới quyền và các đơn vị cơ sở trực thuộc của mình.
Tóm lại cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ
máy nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp, trong phạm vi thẩm quyền thực hiện hoạt động chấp hành,
điều hành và tham gia chính yếu vào hoạt động quản lý nhà nước.
Cơ quan quản lý nhà nước nói chung là tổ chức được giao thực hiện
chức năng quản lý nhà nước theo lĩnh vực, ngành cụ thể.
Quản lý nhà nước về chuyên ngành tại cảng biển Việt Nam được thực
hiện theo quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam, các luật và các văn bản
quy phạm pháp luật khác có liên quan. Hoạt động quản lý nhà nước tại cảng
biển được thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước như hàng hải, biên
phòng, hải quan, kiểm dịch y tế, kiểm dịch động vật và thực vật, bảo vệ môi
trường, bảo vệ văn hoá, phòng chống cháy nổ.
Hoạt động quản lý nhà nước tại cảng biển của các cơ quan chức năng
nói trên thực hiện theo nguyên tắc độc lập và không ảnh hưởng đến sự hoạt
động bình thường của doanh nghiệp cảng, tàu thuyền và các tổ chức, cá nhân
khác ở trong cảng; đồng thời có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với nhau để
hoàn thành nhanh gọn các hoạt động quản lý của mình, tạo mọi điều kiện
cho tàu ra, vào và hoạt động tại cảng một cách thuận lợi, an toàn.
Điều 66, Bộ luật Hàng Hải Việt Nam năm 2005 quy định về Cảng vụ
hàng hải như sau:[1]


“Cảng vụ hàng hải là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về hàng hải tại cảng biển và vùng nước cảng biển.
Giám đốc cảng vụ hàng hải là người chỉ huy cao nhất của Cảng vụ
hàng hải”.
Tại điều 69, Bộ luật Hàng Hải Việt Nam quy định về việc phối hợp
hoạt động quản lý nhà nước tại cảng biển:[1]
“Các cơ quan quản lý nhà nước về hàng hải, an ninh, kiểm dịch, hải
quan, thuế, văn hoá - thông tin, phòng chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường và
các cơ quan quản lý nhà nước khác thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tại cảng
biển theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, các cơ quan này có trách nhiệm phối hợp hoạt động và chịu sự điều
hành trong việc phối hợp hoạt động của Giám đốc cảng vụ hàng hải.Các cơ
quan quản lý nhà nước hoạt động thường xuyên tại cảng biển được đặt trụ
sở làm việc trong cảng. Doanh nghiệp cảng có trách nhiệm tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình.”
Ví dụ, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại khu vực cảng thành
phố Hồ Chí Minh là tổ chức được giao thực hiện chức năng quản lý nhà
nước chuyên ngành tại khu vực cảng biển thành phố Hồ Chí Minh gồm:
Cảng vụ Sài Gòn, Biên phòng cửa khẩu cảng Sài Gòn, Chi cục Hải quan
Cảng Sài Gòn, Chi Cục Hàng hải Việt Nam tại TP.HCM, Trung tâm kiểm
dịch y tế quốc tế thành phố Hồ Chí Minh, Chi cục kiểm dịch thực vật vùng
II, Trung tâm thú y vùng thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển
a) 1.2.1. Khái niệm cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành
chính
Cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính là
những khái niệm khá mới mẻ và là những phạm trù riêng trong hành chính
học. Trong cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về cải cách hành chính một cách
có hệ thống được xuất bản năm 1969 có tựa đề “Cải cách hành chính” – tác

giả người Mỹ G.E.Caiden, đã đưa ra định nghĩa cải cách hành chính là “sự
tác động nhân tạo của việc chuyển đổi hành chính chống lại sự kháng cự”.
Theo G.E.Caiden, định nghĩa phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định,
chính xác hơn các định nghĩa đang được dùng chung, không quá mơ hồ và
làm sao để những người không có chuyên môn cũng hiểu được. Theo tác
giả, cải cách hành chính có 3 đặc điểm cơ bản:
4 Cải cách hành chính là nhân tạo bởi vì nó do con người làm ra, có
chủ định, có kế hoạch, nó không phải ngẫu nhiên, tự nhiên hay tự động; nó
được tác động, bởi vì nó bao gồm sự thuyết phục, lý giải và kể cả đe doạ,
dùng hình phạt, nếu cần.
5 Nó thừa nhận triển vọng sẽ có sự chống đối và yêu cầu sự nỗ lực để
vượt qua sự chống đối.
6 Nó hàm ý đạo đức, có mục tiêu đạo đức, nó được tiến hành với niềm
tin là kết quả cuối cùng sẽ luôn luôn tốt hơn nguyên trạng
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm cải cách hành chính không
định nghĩa trực tiếp mà thường được mô tả bằng hình ảnh cụ thể và tính chất
của chúng được mô tả qua các tiên đề.[39, tr.886]
Theo một số tác giả ở Trung Quốc, cải cách hành chính được hiểu là
một hành vi hành chính, nhằm nâng cao hiệu suất hành chính, cải tiến chế
độ, phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ, phương thức hành chính
mới trong phạm vi chính phủ [28, tr.71].

Để làm rõ hơn khái niệm về cải cách thủ tục hành chính, chúng ta cần
nghiên cứu khái niệm thủ tục hành chính. Hiện nay, khái niệm thủ tục hành
chính được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, cụ thể là:
Theo nghĩa thông thường, thủ tục hành chính là trình tự làm việc.
Trình tự là thứ tự làm việc nhất định. Nói cách khác, thủ tục hành chính là
thực hiện hành động cần thiết để hoàn thành một công việc nào đó hoặc giải
quyết một nhiệm vụ nào đó.
Theo quan niệm của nhiều nước, thủ tục hành chính là những quy tắc

phải tuân theo đúng trong quy trình ra quyết định hay giải quyết công việc.
Thông thường thủ tục hành chính liên quan đến việc xây dựng, tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật và phục vụ các nhu cầu hàng ngày cho xã hội và
lãnh đạo của các cơ quan và cán bộ công chức nhà nước [31, tr.55-56]. Có
quan niệm cho rằng, thủ tục hành chính là trình tự về thời gian và không
gian, các giai đoạn cần có để thực hiện mọi hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước.
Mục đích của thủ tục hành chính là nhằm thiết lập hoạt động quản lý
nhà nước trong mọi lĩnh vực.
Thủ tục hành chính có các đặc điểm như sau:
2 Được pháp luật quy định chặt chẽ;
3 Được phân biệt với thủ tục của toà án và phần lớn nằm ngoài thẩm
quyền của toà án;
4 Các thủ tục không chỉ quy định trình tự thực hiện quy phạm của luật
hành chính mà cả các ngành luật khác như đất đai, tài chính, dân sự, lao
động.
Thủ tục hành chính, nói một cách khái quát, là cơ chế điều hành của
cơ quan Nhà nước để thực thi chức năng quản lý xã hội. Cải cách thủ tục
hành chính là một nhiệm vụ rất quan trọng, được coi là khâu đột phá trong
toàn bộ tiến trình cải cách nền hành chính Nhà nước hiện nay. Việc thực
hiện quá trình cải cách này là cuộc đấu tranh rất phức tạp, liên quan mật thiết
đến việc đổi mới hệ thống pháp luật, bộ máy tổ chức cơ quan Nhà nước, đội
ngũ công chức và hoạt động thực tiễn hàng ngày của mọi công dân và tổ
chức, cần được các ngành, các cấp đặc biệt quan tâm. Để thực hiện tốt các
thủ tục hành chính phải theo phương châm: đơn giản, công khai, một cửa,
chống gây phiền hà, hối lộ, tham nhũng.
Thủ tục hành chính tại cảng biển cũng tương tự như vậy, đó là những
trình tự thủ tục cả về không gian và thời gian, các giai đoạn cần thiết để các
cơ quan quản lý chuyên ngành nhà nước tại cảng biển tiến hành để thực hiện
chức năng nhiệm của mình. Thủ tục hành chính tại cảng biển do nhiều cơ

quan nhà nước cùng tiến hành tại khu vực cảng biển. Tuy nhiên mỗi cơ quan
lại có cách làm riêng, văn bản hướng dẫn riêng, nên nhiều khi dẫn đến việc
quản lý, hướng dẫn thực hiện một cách chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Để có
thể đạt được mục đích làm tốt thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp tham gia hoạt động tại cảng, đòi hỏi phải tiến hành cải cách
thủ tục hành chính tại cảng biển một cách triệt để.
a) 1.2.2. Nội dung của cải cách thủ tục hành chính:
Chương trình cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển của Chính phủ
bao gồm các nội dung cơ bản như sau:
- Phân cấp thẩm quyền cho phép tàu nước ngoài đến Việt Nam: trừ tàu
quân sự, tàu biển chạy bằng năng lượng nguyên tử và các tàu thuyền được
miễn khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định, các loại tàu thuyền khác,
bao gồm cả tàu thuyền nước ngoài khi đến cảng Việt Nam do Giám đốc
cảng vụ hàng hải quyết định (giảm cấp giải quyết).
- Thủ tục thông báo, xác báo tàu đến cảng: cải tiến theo hướng đơn
giản về nội dung, thuận tiện trong sử dụng công nghệ thông tin và giảm
thiểu số lần thực hiện.
- Thời gian làm thủ tục: yêu cầu được rút ngắn tối đa.
- Giấy tờ khai báo: các loại giấy tờ phải nộp hoặc xuất trình khi làm
thủ tục yêu cầu giảm thiểu so với thực tế đang diễn ra, chỉ phải nộp một bộ
hồ sơ cho Cảng vụ, không phải sao chụp, sao lục hoặc chuyển fax cho nhiều
cơ quan như trước.
- Mẫu biểu giấy tờ: loại bỏ các giấy tờ không cần thiết và cho phép sử
dụng các giấy tờ khai báo theo mẫu thống nhất có tham khảo chuẩn mực
quốc tế (Công ước FAL 1965), tránh sự trùng lặp và mâu thuẫn về nội dung
hoặc tuỳ tiện áp đặt các loại mẫu biểu khai báo gây phiền hà cho đối tượng
quản lý và khó khăn khi sử dụng công nghệ thông tin.
- Nơi làm thủ tục hành chính: duy nhất tại trụ sở của cảng vụ, khách
hàng không phải đến cơ quan khác.
- Các nội dung thí điểm khác về thủ tục hành chính: ngoài các nội

dung nói trên, địa điểm làm thủ tục tàu khách và tàu chuyên tuyến, trường
hợp địa điểm làm thủ tục được tiến hành tại vùng nước phao số “O”, những
trường hợp được miễn nộp, xuất trình các loại giấy tờ, miễn làm thủ tục
nhập cảnh đối với tàu đã nhập cảnh ở cảng khác.
- Cải tiến phương thức hoạt động kiểm tra giám sát: trừ trường hợp có
dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc trong những trường hợp cần thiết nhằm
đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, việc thí điểm quy định
các cơ quan chức năng liên quan đến cảng không thực hiện nghiệp vụ: giám
sát hải quan và biên phòng trực tiếp trên tàu khi tàu hành trình vào, rời cảng;
giám hộ biên phòng trực tiếp khi tàu đang neo đậu trong vùng nước cảng.
- Nội dung thí điểm: cho phép các cơ quan chức năng tại cảng được sử
dụng bản photocopy, fax, thư điện tử liên quan đến thủ tục giấy tờ do người
khai báo cung cấp sử dụng công nghệ thông tin, tuy nhiên khi làm thủ tục
vẫn phải xuất trình, nộp đủ bản gốc hoặc bản sao hợp lệ các giấy tờ nói trên
theo quy định.
Các nội dung trên đã được triển khai từ năm 2001 và bước đầu được
thực hiện thí điểm tại khu vực cảng thành phố Hồ Chí Minh. Qua một thời
gian thực hiện cho thấy kết quả đạt được rất khả quan. Đây cũng là cơ sở để
thực hiện các nội dung cải cách tiếp theo trong thời gian tới.
b) 1.3. Quy định pháp luật Việt Nam về thủ tục hành
chính tại cảng biển
Một trong những đặc thù của thủ tục hành chính tại cảng biển là liên
quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật và nhiều cơ quan quản lý nhà nước về
chuyên ngành tại cảng biển. Sau đây là những quy định pháp luật hiện hành
về thủ tục hành chính đối với tàu thuyền và hàng hoá đến/ rời cảng biển Việt
Nam.
b) 1.3.1. Pháp luật hàng hải
c)
Theo quy định của pháp luật hàng hải (Bộ luật hàng hải
Việt Nam năm 2005 và nghị định số 71/2006/NĐ – CP ngày

25/7/2006 về quản lý cảng biển và luồng hàng hải), thủ tục hành
chính tại cảng biển Việt Nam bao gồm [8]

 Thủ tục đến cảng đối với tàu thuyền nước ngoài.
Tất cả các tàu thuyền nước ngoài, không phân biệt lớn nhỏ, quốc tịch
và mục đích sử dụng chỉ được phép vào cảng biển khi có điều kiện an toàn,
an ninh, phòng ngừa ô nhiễm môi trường và các điều kiện khác theo quy
định của pháp luật. Các tàu thuyền nước ngoài chỉ được vào các cảng biển
đã được công bố và bến cảng, cầu cảng đã được phép đưa vào hoạt động để
bốc, dỡ hàng hoặc đón, trả hành khách.
a. Đối với tàu quân sự nước ngoài [23], Chính phủ quy định cụ thể
về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài vào thăm nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam như sau:
Thông tư liên tịch Quốc phòng – Ngoại giao số 3320/1997/TTLT.
QP.NG ngày 11/12/1997 hướng dẫn thực hiện nghị định số 55/CP ngày
01/10/1996 của Chính phủ về hoạt động của tàu Quân sự nước ngoài và
thăm nước CHXHCN Việt Nam quy định Tàu quân sự nước ngoài vào thăm
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu trong Nghị định 55/CP bao
gồm: tàu nổi, tàu ngầm, tàu bổ trợ thuộc lực lượng vũ trang của một quốc
gia hay một tổ chức quân sự quốc tế được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cho phép đến cảng Việt Nam.
Các chuyến thăm bao gồm:
 Thăm chính thức là chuyến thăm do Nguyên thủ quốc gia đến thăm
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng tàu quân sự để đáp lại lời
mời của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 Thăm xã giao là chuyến thăm nhằm duy trì, phát triển quan hệ hữu
nghị giữa nhân dân và lực lượng quân đội hai nước hoặc giữa nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tổ chức quân sự quốc tế hoặc các chuyến
thăm mà hai bên thoả thuận không thuộc các chuyến thăm quy định tại mục
a của điểm này.

1 Thăm thông thường là chuyến thăm nhằm huấn luyện, diễn tập quân
sự hoặc tiến hành các công việc khác theo quy định của Hiệp định đã được
ký kết giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với quốc gia, tổ chức quân
sự quốc tế có tàu đến thăm (nếu Hiệp định không có quy định khác) hay các
chuyến thăm nhằm cung cấp, tiếp nhận vật tư, trang thiết bị kỹ thuật, nhiên
liệu, lương thực, thực phẩm hoặc cho thuỷ thủ nghỉ ngơi.
Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam, các
điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia và thực hiện những nội
dung mà hai bên đã thoả thuận cho chuyến thăm, đồng thời phải tuân theo sự
hướng dẫn của các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành của Việt Nam.
Khi tàu đến Việt Nam, phải tiến hành làm thủ tục xin phép với các
bước cụ thể:
1 Đối với chuyến thăm chính thức: Chậm nhất 15 ngày trước ngày dự
kiến tàu vào cảng, quốc gia, tổ chức quân sự quốc tế có đoàn tàu đến thăm
phải thông báo cho Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam những nội dung liên quan đến chuyến thăm mà hai bên đã
thoả thuận.
2 Thời gian xin phép cho đoàn đến thăm bằng tàu quân sự nước ngoài
tại cảng Việt Nam theo Hiệp định đã được ký kết giữa Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với quốc gia, tổ chức quân sự quốc tế liên
quan thực hiện theo các quy định trong Hiệp định nêu trên.
3 Đối với chuyến thăm xã giao, thăm thông thường, quốc gia, tổ chức
quân sự quốc tế có đoàn đến thăm bằng tàu quân sự phải có Công hàm cùng
tờ khai gửi đến Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) hoặc cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước sở tại chậm nhất 30 ngày trước
ngày dự kiến tàu vào cảng.
4 Nội dung tờ khai theo mẫu kèm theo.
5 Sau khi được phép vào thăm, 48 giờ trước khi tàu đi vào lãnh hải
Việt Nam, quốc gia, tổ chức quân sự quốc tế hoặc Trưởng đoàn/Thuyền

trưởng phải thông báo cho Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng để tổ chức đón
tiếp, đồng thời giữ liên lạc với Cảng vụ nơi tàu đến theo tần số liên lạc đã
thoả thuận. Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng có trách nhiệm thông báo ngay
cho Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao để phối hợp chỉ đạo việc tổ chức đón tiếp.
Trường hợp trên tàu có sự thay đổi về nội dung đã được thoả thuận trước
trong tờ khai thì Trưởng đoàn/Thuyền trưởng phải thông báo cho Cục Lãnh
sự Bộ Ngoại giao (nếu là chuyến thăm chính thức) hoặc thông báo cho Cục
Đối ngoại Bộ Quốc phòng (đối với các chuyến thăm thông thường, chuyến
thăm xã giao) giải quyết trước khi tàu vào cảng.
6 Khi đến lãnh hải để vào cảng Việt Nam, tàu quân sự nước ngoài phải
tuân thủ các quy định tại Điều 7 Nghị định 55/CP và quy chế quản lý hoạt
động hàng hải tại cảng Việt Nam và các khu vực hàng hải.
7 Khi tàu quân sự nước ngoài vào cảng, sỹ quan liên lạc của tàu phải
liên lạc với sỹ quan liên lạc của Ban tổ chức đón tiếp tại cảng để thống nhất
các hoạt động lễ tân. Riêng tàu thực hiện chuyến thăm thông thường, ghé
đậu kỹ thuật; sỹ quan liên lạc của tàu cần liên hệ với Cảng vụ để đảm bảo
các yêu cầu theo nội dung đã được thoả thuận trước.
b. Đối với những loại tàu khác: thủ tục khi tàu thuyền đến và rời
cảng biển cũng phải tuân theo quy định, quy trình nhất định nhằm đảm bảo
tính thống nhất trong quản lý nhà nước tại cảng biển. Các bước thủ tục đó
bao gồm:
Trước khi tàu thuyền dự kiến đến cảng, chủ tàu, người quản lý tàu,
người khai thác hoặc người được uỷ quyền (gọi chung là người làm thủ tục)
phải gửi cho cảng vụ hàng hải nơi tàu đến thông báo tàu đến cảng:
Nội dung thông báo gồm: các thông số chính liên quan đến tàu và
hàng như: tên, quốc tịch, hô hiệu, nơi đăng ký của tàu và tên chủ tàu; Chiều
dài, rộng, chiều cao và mớn nước của tàu khi đến cảng; Tổng dung tích,
trọng tải toàn phần, số lượng hàng hoá chở trên tàu; số lượng thuyền viên,
cảng rời cuối cùng và dự kiến thời gian tàu đến cảng…. Người làm thủ tục
có thể sử dụng mẫu “Bản khai chung” để thông báo tàu đến cảng.

Đối với các loại tàu thuyền trừ các tàu như tàu quân sự, tàu biển có
động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu vận chuyển phóng xạ, tàu đến
theo lời mời chính thức của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam là 24 giờ
trước khi tàu dự kiến đến cảng, còn lại chậm nhất 8 giờ trước khi tàu dự kiến
đến cảng.
Khi nhận được thông báo tàu đến, Cảng vụ trên cơ sở thực tế tại cảng
và loại tàu, cỡ tàu ra các lệnh điều động tàu như chỉ định vị trí neo đậu cho
tàu thuyền trong vùng nước cảng, chậm nhất 02 giờ kể từ khi nhận được
thông báo tàu đến vị trí đón trả hoa tiêu.
Địa điểm, thời hạn và giấy tờ làm thủ tục tàu thuyền vào cảng biển
cũng được phân chia rõ ràng giữa tàu thuyền hoạt động trên tuyến nội địa và
tuyến nước ngoài. Chi tiết cụ thể như sau:
 Đối với tàu thuyền Việt Nam hoạt động trên tuyến nội địa:
5 Địa điểm làm thủ tục: trụ sở chính hoặc văn phòng đại diện của cảng
vụ hàng hải.
6 Thời hạn làm thủ tục của chủ tàu: chậm nhất 02 giờ kể từ khi tàu đã
vào neo đậu tại cầu cảng hoặc 04 giờ kể từ khi tàu đã neo đậu tại các
vị trí khác trong vùng nước cảng.
7 Thời hạn làm thủ tục của cảng vụ hàng hải:
+/ Đối với tàu biển: chậm nhất một giờ kể từ khi chủ tàu đã nộp, xuất
trình đủ các giấy tờ hợp lệ như: bản chính 1 bản khai chung, 1 bản danh sách
hành khách (nếu có); giấy phép rời cảng cuối cùng; Ngoài ra còn phải xuất
trình bản chính giấy chứng nhận đăng ký tàu thuyền, các giấy tờ chứng nhận
về an toàn kỹ thuật của tàu theo quy định, sổ thuyền viên, chứng chỉ chuyên
môn của thuyền viên theo quy định.
+/ Đối với các loại tàu thuyền khác, giấy tờ phải nộp và xuất trình
thực hiện theo quy định pháp luật có liên quan.
 Tàu thuyền Việt Nam và tàu thuyền nước ngoài hoạt động tuyến
nước ngoài:
8 Địa điểm làm thủ tục: trụ sở chính hoặc văn phòng đại diện của Cảng

vụ hàng hải.
9 Các trường hợp làm thủ tục tại tàu: tàu khách và trường hợp có đủ cơ
sở để nghi ngờ tính xác thực khai báo về kiểm dịch của chủ tàu hoặc
trước khi đến Việt Nam tàu đó rời cảng cuối cùng ở những khu vực có
dịch bệnh của người, động vật và thực vật thì các cơ quan quản lý nhà
nước chuyên ngành liên quan tiến hành thủ tục tại vùng kiểm dịch.
Trong cả hai trường hợp này, các cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành đó phải thông báo cho cảng vụ hàng hải và chủ tàu biết.
10 Thời hạn làm thủ tục của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành:
không quá 01 giờ, kể từ khi người làm thủ tục đã nộp, xuất trình đủ
các giấy tờ hợp lệ như: bản chính của 3 bản khai chung (nộp cho cảng
vụ hàng hải, biên phòng cửa khẩu, hải quan cửa khẩu), 3 bản danh
sách thuyền viên (nộp cho cảng vụ hàng hải, biên phòng cửa khẩu, hải
quan cửa khẩu); 1 bản danh sách hành khách (nếu có – nộp cho Biên
phòng cửa khẩu); 01 bản khai hàng hoá nộp cho Hải quan cửa khẩu;
02 bản khai hàng hoá nguy hiểm nếu có (nộp cho Hải quan cửa khẩu
và cảng vụ hàng hải); 01 bản khai dự trữ của tàu nộp cho Hải quan
cửa khẩu; 01 bản khai hành lý thuyền viên nộp cho Hải quan cửa
khẩu; 01 bản khai kiểm dịch y tế nộp cho cơ quan kiểm dịch y tế quốc
tế; 01 bản khai kiểm dịch thực vật và động vật (nếu có – nộp cho cơ
quankiểm dịch thực vật, động vật); bản chính giấy phép rời cảng cuối
cùng nộp cho Cảng vụ hàng hải.
Ngoài ra còn phải xuất trình bản chính giấy chứng nhận đăng ký tàu
thuyền, các giấy tờ chứng nhận về an toàn kỹ thuật của tàu theo quy định, hộ
chiếu thuyền viên, sổ thuyền viên, chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên
theo quy định; phiếu tiêm chủng quốc tế của thuyền viên; các giấy tờ liên
quan đến hàng hoá chuyên chở trên tàu, giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật
nếu có; giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật nếu có; giấy chứng nhận kiểm
dịch động vật hoặc giấy chứng nhận sản phẩm động vật nếu hàng hoá là sản
phẩm động vật của nước xuất hàng; giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ tàu về ô nhiễm môi trường, nếu là tàu chuyên dùng vận
chuyển dầu mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc các hàng hoá nguy hiểm khác; Hộ
chiếu, phiếu tiêm chủng quốc tế của hành khách (nếu có khi cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành liên quan yêu cầu)
1 Thông báo tàu thuyền rời cảng biển:
Chậm nhất 02 giờ, trước khi tàu thuyền rời cảng, người làm thủ tục
phải thông báo cho Cảng vụ hàng hải tên tàu và thời gian tàu dự kiến rời
cảng. Sau khi nhận được thông báo của người làm thủ tục, Cảng vụ hàng hải
phải báo ngay cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành liên quan biết để
kịp thời làm thủ tục xuất cảnh cho tàu.
Địa điểm, thời hạn và giấy tờ khi làm thủ tục tàu thuyền rời cảng biển:
được tiến hành làm tại trụ sở chính hoặc văn phòng đại diện của Cảng vụ
hàng hải chậm nhất 01 giờ kể từ khi chủ tàu đã nôp, xuất trình đủ các giấy
tờ hợp lệ quy định dưới đây: Giấy tờ phải nộp (bản chính): 01 bản khai
chung; Các giấy tờ phải xuất trình (bản chính): các giấy chứng nhận của tàu
và chứng chỉ khả năng chuyên môn của thuyền viên (nếu thay đổi so với khi
đến); các giấy chứng nhận liên quan đến xác nhận việc nộp phí, lệ phí, tiền
phạt hoặc thanh toán các khoản nợ theo quy định của pháp luật.
Đối với tàu thuyền xuất cảnh địa điểm làm thủ tục được tiến hành tại
trụ sở chính hoặc văn phòng đại diện của cảng vụ hàng hải; riêng đối với tàu
khách thì địa điểm làm thủ tục có thể là tại tàu nhưng chỉ do cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành có yêu cầu thực hiện, chậm nhất 02 giờ trước khi
tàu rời cảng.
Thời hạn làm thủ tục của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành:
chậm nhất 01 giờ kể từ khi người làm thủ tục phải nộp, xuất trình đủ các
giấy tờ hợp lệ dưới đây: bản chính của 3 bản khai chung (nộp cho cảng vụ
hàng hải, biên phòng cửa khẩu, hải quan cửa khẩu), 3 bản danh sách thuyền
viên – nếu thay đổi so với khi đến (nộp cho cảng vụ hàng hải, biên phòng
cửa khẩu, hải quan cửa khẩu); 1 bản danh sách hành khách (nếu có – nộp
cho Biên phòng cửa khẩu); 01 bản khai dự trữ của tàu nộp cho Hải quan cửa

khẩu; 01 bản khai hàng hoá nộp cho Hải quan cửa khẩu; 01 bản khai hành lý
của hành khách trên tàu khách nước ngoài đến cảng và sau đó rời cảng trong
cùng một chuyến thì không áp dụng thủ tục khai báo hải quan; những giấy tờ
do các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành đã cấp cho tàu, thuyền viên
và hành khách (để thu hồi).
Các giấy tờ phải xuất trình (bản chính): các giấy chứng nhận của tàu
và chứng chỉ khả năng chuyên môn của thuyền viên (nếu thay đổi so với khi

×