Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận công tác cải cách thủ tục hành chính ở tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.05 KB, 32 trang )

Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An

ĐỀ TÀI
“Công tác cải cách thủ tục hành
chính ở tỉnh Nghệ An”


Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện : Hoàng Hồng
Hoàng Hồng – QLXH 29 1
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Hoàng Hồng – QLXH 29 2
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Hoàng Hồng – QLXH 29 3
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
A. LỜI MỞ ĐẦU
Cải cách thủ tục hành chính là một công việc thuộc nội dung cải cách thể chế
hành chính, trong khi đó, cải cách thể chế hành chính là một trong bốn nội dung
của Chương trình tổng thể cải cách hành chính. Tuy nhiên, cải cách TTHC lại
được đặt ra trước cải cách hành chính, được xem như là khâu đột phá của cải
cách hành chính, và trong tiến trình cải cách hành chính, vấn đề TTHC thường
xuyên được Chính phủ quan tâm. Đó là vì TTHC hàng ngày liên quan đến công
việc nội bộ của một cơ quan, cấp chính quyền, cũng như đến các tổ chức và cá
nhân công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Các quyền, nghĩa vụ của mọi
công dân đã được quy định ở Hiến pháp hay ở các bộ luật, cũng như các yêu
cầu, nguyện vọng của họ có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào
đều phải thông qua TTHC do các cơ quan, các cấp chính quyền nhà nước quy
định và trực tiếp giải quyết.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện trên hầu khắp các lĩnh
vực đời sống xã hội, từ kinh tế, xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục, dân tộc, tôn giáo
cho đến an ninh - quốc phòng, đối ngoại Chức năng quản lý nhà nước không


chỉ nhằm bảo vệ pháp luật, chế độ chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, các quyền hợp pháp chính đáng của mọi tổ chức và công dân, mà còn tạo
điều kiện, môi trường pháp lý, môi trường xã hội thuận lợi cho các tổ chức và
công dân làm ăn, sinh sống. Việc tạo điều kiện, môi trường pháp lý thuận lợi
cho các tổ chức và công dân sinh sống, phát triển kinh tế thường được xác định
như là một chính sách; còn trên thực tế, sự thuận lợi hay khó khăn trong làm ăn,
sinh sống của người dân cũng như niềm tin của họ đối với Nhà nước như thế
nào lại được thẩm định thông qua các quy định TTHC và cách thức giải quyết
các thủ tục ấy.
Trong điều kiện Nhà nước ta thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần và tham gia sâu rộng vào các quan hệ quốc tế, thì các nhu cầu
của các tầng lớp dân cư trong xã hội cũng tăng lên về số lượng và đa dạng,
Hoàng Hồng – QLXH 29 4
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
phong phú, phức tạp về hình thức, nội dung. Tình hình đó đặt ra các yêu cầu mà
Nhà nước phải thực hiện: 1- Chuyển đổi cơ chế quản lý thích ứng với cơ chế
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. 2- Mở rộng và nâng cao khả năng cung ứng
dịch vụ, phục vụ xã hội. 3- Khắc phục tình trạng yếu kém, hạn chế, bất cập của
bộ máy quản lý, gồm: tổ chức, thể chế, cán bộ - công chức, cơ sở vật chất - tài
chính.
Cải cách thể chế hành chính, trong đó có TTHC, là một vấn đề không riêng của
Nhà nước, mà còn liên quan đến đời sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Đó chính là nguyên do đòi hỏi Nhà nước phải dành sự quan tâm nhiều hơn đối
với việc cải cách thủ tục hành chính, nhằm đáp ứng các yêu cầu dịch vụ, phục
vụ xã hội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong điều kiện
chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Hiện nay, các TTHC còn tồn tại một số hiện tượng mang tính khá phổ biến như:
rườm ra, trùng chéo, cứng nhắc (hợp pháp nhưng chưa hợp lý, chưa phù hợp
thực tế); thủ tục cũ, mới lẫn lộn. Bên cạnh đó, việc ban hành TTHC có lúc, có
nơi còn tuỳ tiện, kể cả ban hành "giấy phép con"; cách thức giải quyết thủ tục

vẫn còn hiện tượng cửa quyền, hạch sách, chậm trễ theo lối "dân cần, quan
không vội” và vẫn còn qua nhiều khâu trung gian lòng vòng; thẩm quyền, trách
nhiệm giải quyết thủ tục nhiều khi không rõ và vẫn còn hiện tượng tổ chức,
công dân (khách hàng) đi lại nhiều lần, ca thán hoặc lo lót, hối lộ để được việc.
Có thể nói, tính bức xúc của việc đẩy mạnh cải cách TTHC không chỉ nhìn từ
khía cạnh kinh tế, tức là tiết kiệm tiền của, là xây dựng môi trường pháp lý để
các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư yên tâm làm ăn, phát triển; không chỉ
nhìn từ khía cạnh xã hội, tức là tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Hơn thế, nó còn xuất phát từ
việc sắp xếp, tổ chức bộ máy theo hướng gọn nhẹ, hiện đại; đổi mới công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về chuyên môn, nghiệp vụ theo hướng
chuyên nghiệp hoá; góp phần bài trừ tệ quan liêu, cửa quyền, hối lộ, làm trong
Hoàng Hồng – QLXH 29 5
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
sạch bộ máy nhà nước.
Để làm cơ sở lí luận và thực tiễn cho công tác cải cách TTHC, đã có nhiều công
trình nghiên cứu của các chuyên gia, những người tâm huyết. Tuy nhiên, các
nghiên cứu ấy chủ yếu ở tầng vĩ mô, còn chung chung, rất ít các công trình
nghiên cứu về cải cách TTHC ở những địa phương cụ thể. Nhận thấy đây vẫn là
vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết, em chọn đề tài: “Công tác cải cách thủ
tục hành chính ở tỉnh Nghệ An” làm bài tiểu luận môn “Quản lí hành chính
nhà nước”.
Bài tiểu luận của em tập trung làm sáng tỏ nhũng vấn đề sau:
-Cở sở lí luận của cải cách TTHC.
-Thực tế vấn đề cải cách TTHC Nghệ An.
-Nhiệm vụ và giải pháp đặt ra.
Bài tiểu luận được chia thành 3 chương chính:
-Chương I: Cơ sở lí luận của cải cách TTHC.
-Chương II: Thực trạng công tác cải cách TTHC ở tỉnh Nghệ An trong những
năm gần đây.

-Chương III: Quan điểm, giải pháp để tiếp tục đẩy đẩy mạnh công tác cải cách
TTHC của Trung ương và địa phương.
Trong phạm vi kiến thức hạn hẹp, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em
rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung ý kiến của các thầy cô để những bài
viết sau của em được hoàn chỉnh hơn.


Hoàng Hồng – QLXH 29 6
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA CẢI CÁCH TTHC
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam về cải cách nền HCNN
Các nhà kinh điển theo học thuyết Mác - Lênin đã có những tư tưởng bước đầu
về cải cách nền HCNN, đặc biệt những tư tưởng của Lênin.
Trong quá trình lãnh đạo nhà nước Xô Viết, Lênin rất chú trọng đối với công
tác cải cách nền hành chính. Người coi đây là cơ sở thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội.
Trong cải cách nền hành chính, Lênin nhấn mạnh đến việc sắp xếp, tinh giảm
bộ máy hành chính và thực hành tiếp kiệm. Người nhấn mạnh: “Nhiệm vụ cấp
thiết, chủ yếu nhất lúc này và trong những năm sắp tới là không ngừng tinh
giảm bộ máy Xô Viết và giảm bớt chi phí của nó…xóa bỏ tác phong lề mề hành
chính, bệnh quan liêu và giảm bớt các khoản chi tiêu phi sản xuất”.
Cùng với việc thiết lập một hệ thống quản lí mới, Lênin xúc tiến việc cải cách
chính để đảm bảo cho bộ máy nhà nước vận hành thông suốt. Lê nin coi trọng
việc cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm bớt những khâu xét
duyệt giấy tờ không cần thiết.Người đặc biệt lưu ý tới việc soạn lại các quy định
thật cơ bản, thiết thực đã tính toán chính xác để thi hành có hiệu quả.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vận dụng
đầu tiên và sáng tạo những quan điểm trên của Lênin trong việc xây dựng một

nền hành chính quốc gia thực sự hiện đại và hoạt động có hiệu quả. Ngay từ
buổi đầu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến
hành xây dựng một nền hành chính phù hợp với yêu cầu mới, mà việc đầu tiên
là ban hành các văn bản quy định quy chế hoạt động của các cấp các ngành.
Người yêu cầu “phải xây dựng một nền hành chính của dân, do dân và vì dân”.
Giảm thiểu những sách nhiễu, phiền hà trong giải quyết công việc hành chính.
Hoàng Hồng – QLXH 29 7
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Thủ tục hành chính phải phù hợp với yêu cầu giải quyết công việc theo đúng
quy định, song cũng cần phù hợp với trình độ của nhân dân.
Người lên án mọi hành vi cửa quyền, lộng quyền của cán bộ khi giải quyết công
việc của nhân dân. Người yêu cầu “cán bộ, đảng viên phải là những công bộc
trung thành và tận tình của nhân dân”.
Những quan điểm của Lê nin và chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta kế thừa
và phát triển trong điều kiện hiện nay. Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6-
1991) đã đánh dấu bước đổi mới, phát triển tư duy về cải cách nền HCNN trong
sự nghiệp đổi mới đất nước. Đảng đã đặt trọng tâm vào cải cách hệ thống
HCNN trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa VII (tháng 1-1995) đã ra nghị quyết
chuyên đề về cải cách một bước nền HCNN với một hệ thống chủ trương, nội
dung, phương hướng cải cách tương đối đồng bộ, cơ bản, chuyên sâu. Các đại
hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6-1996), IX (tháng 4-2000), X (tháng 4-2006) và
các hội nghị Trung ương của Đảng đã tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối, chủ
trương cải cách, xây dựng nền hành chính nhà nước trong đó trọng tâm là thực
hiện cải cách TTHC. Đây là thành tựu nổi bật trong đổi mới, phát triển tư duy lí
luận của Đảng về xây dựng nền HCNN nói riêng, về xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN nói chung; là kết quả của việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạch định đường lối, chủ trương cải cách
hành chính trong giai đoạn hiện nay.
1.2 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của TTHC

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thể chế HCNN. HCNN bao gồm
hai bộ phận lớn. Thứ nhất là bộ phận thể chế hành chính thuần túy, thứ hai là bộ
phận thể chế hành chính tác động trực tiếp tới hoạt động kinh doanh.
“ Thể chế HCNN là một hệ thống gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật,
tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chình nhà nước; một mặt thực
hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như
Hoàng Hồng – QLXH 29 8
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
cho mọi tổ chức và cá nhân sống và làm việc theo pháp luật; mặt khác là các
quy định về các mối quan hệ trong hoạt động kinh tế cũng như các mối quan hệ
giữa các cơ quan HCNN và nội bộ bên trong của các cơ quan này”.
TTHC là một trong số những yếu tố cấu thành thể chế HCNN.
1.2.1. Khái niệm TTHC
Pháp luật hành chính gồm có những quy phạm quy định tổ chức, quyền hạn,
nhiệm vụ các cơ quan nhà nước và quyền, nghĩa vụ của công dân và tổ chức xã
hội trong lĩnh vực quản lí HCNN. Những quy phạm ấy hợp thành luật hành chính
về nội dung. Bên cạnh những quy phạm đó, còn có nhiều quy phạm quy định
những trình tự, hình thức trong việc giải quyết những yêu cầu của công dân đối
với cơ quan HCNN hoặc những yêu cầu trong nội bộ cơ quan hành chính nhà
nước, hay còn gọi là TTHC. TTHC rất đa dạng, nhưng có thể phân thành 2 loại
cơ bản: 1) Những thủ tục tiến hành những công việc thuộc quan hệ nội bộ các cơ
quan nhà nước. 2) Những thủ tục tiến hành những công việc thuộc quan hệ của
cơ quan nhà nước đối với công dân và các tổ chức xã hội. Mỗi loại thủ tục bao
gồm nhiều thủ tục riêng áp dụng trong từng loại việc, từng lĩnh vực quản lí.
TTHC trong quan hệ với công dân gồm có 2 loại quan trọng: a) TTHC trong việc
các cơ quan nhà nước xét, giải quyết những quyền chủ quan hợp pháp của công
dân, trong việc công dân kiện một cơ quan nhà nước. b) TTHC trong việc các cơ
quan có thẩm quyền xét vấn đề trách nhiệm hành chính và xử phạt các vi phạm
của công dân. Còn gọi là thủ tục xử lí vi phạm hành chính, hoặc tố tụng hành
chính.

Hiện nay, khái niệm TTHC vẫn còn nhiều ý kiến tranh cãi. Dưới đây là khái
niệm được nhiều nhà khoa học ở Việt Nam chấp nhận nhất: TTHC là trình tự,
trật tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc
của cá nhân, tổ chức được ủy quyền hành pháp trong việc giải quyết các
công việc của Nhà nước, các kiến nghị yêu cầu chính đáng của công dân
Hoàng Hồng – QLXH 29 9
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
hoặc tổ chức nhằm thi hành nghĩa vụ hành chính, đảm bảo công vụ nhà
nước và phục vụ nhân dân.
1.2.2. Các đặc điểm của TTHC
 TTHC được Luật Hành chính quy định rất chặt chẽ, các hoạt động không
được quy phạm TTHC quy định thì không phải là TTHC.
 Trong TTHC thì nguyên tắc chủ thể có quyền xem xét và ra quyết định theo
trình tự mà luật TTHC quy định là cơ quan quản lí hành chính nhà nước (cơ
quan quản lí hành chính nhà nước hiểu theo nghĩa rộng).
 Các quy phạm TTHC không chỉ quy định trình tự thực hiện theo quy phạm
vật chất của Luật Hành chính mà còn quy định trình tự nhằm thực hiện quy
phạm vật chất của các ngành luật khác.
 TTHC rất đa dạng, phức tạp. Tính đa dạng, phức tạp của nó được quy định
bởi hoạt động quản lí HCNN là hoạt động diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và bộ máy hành chính. Hơn nữa nền HCNN ta hiện đang
chuyển từ nền hành chính kế hoạch hóa tập trung sang nền hành chính phục vụ;
đồng thời với xu hướng hợp tác quốc tế đối tượng quản lí không chỉ là công
dân, tổ chức trong nước mà còn có các yếu tố nước ngoài.
1.2.3. Ý nghĩa của TTHC
Cải cách TTHC được Chính phủ lựa chọn là khâu đột phá với 03 lý do chính:
- Cải cách TTHC là một nội dung của cải cách hành chính, nhưng là nội dung
phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời là nội dung
có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp, cũng như có nhiều yêu cầu
đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế.

- Trong điều kiện nguồn lực còn nhiều khó khăn nên chưa thể cùng một lúc
thực hiện được nhiều nội dung cải cách như: cải cách tài chính công, cải cách
tiền lương, cải cách tổ chức bộ máy, …
- Thông qua cải cách TTHC, chúng ta có thể xác định
căn bản các công việc của cơ quan nhà nước với
Hoàng Hồng – QLXH 29 10
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
người dân, doanh nghiệp; qua đó chúng ta có thể xây dựng bộ máy phù hợp và
từ đó có thể lựa chọn đội ngũ cán bộ, công chức hợp lý, đáp ứng được yêu cầu
công việc.
Như vậy, có thể coi cải cách TTHC là tiền đề để thực hiện các nội dung cải
cách khác như: nâng cao chất lượng thể chế; nâng cao trình độ, thay đổi thói
quen, cách làm, nếp nghĩ của cán bộ, công chức; phân công, phân cấp thực hiện
nhiệm vụ giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp của bộ máy hành
chính; thực hiện chính phủ điện tử,…
TTHC có ý nghĩa quan trọng trong quản lí nhà nước và xã hội.
 Trước hết, nếu không thực hiện các TTHC cần thiết thì một quyết định hành
chính sẽ không được đưa vào thực hiện hoặc bị hạn chế tác dụng.
 TTHC đảm bảo cho việc thi hành quyết định được thống nhất và có thể kiểm
tra được tính hợp pháp, hợp lí cũng như các hệ quả do thực hiện các quyết định
hành chính tạo ra.
 TTHC khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lí sẽ tạo ra khả năng
sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lí, đem lại hiệu quả thiết thực
cho quản lí Nhà nước.
 TTHC là một bộ phận của pháp luật hành chính, vì vậy việc nắm vững và
thực hiện các quy định về TTHC sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình cải cách
nền hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.3 Về nội dung cải cách TTHC
Chương trình tổng thể cải cách HCNN giai đoạn 2001 - 2010 đã được Thủ
tướng Chính phủ ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17- 9- 2001 phê

duyệt. Cải cách hành chính đã được triển khai trên các nội dung: cải cách thể
chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công; hiện đại hoá nền hành chính.
Qua 10 năm triển khai, có thể khẳng định những kết quả tích cực đã đạt được
của cải cách hành chính: Bộ mặt của nền hành chính nhà nước đã bước đầu thay
Hoàng Hồng – QLXH 29 11
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
đổi, hướng tới phục vụ dân, xã hội, hệ thống thể chế được xây dựng và hoàn
thiện hơn, tổ chức bộ máy tinh gọn hơn và chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức được nâng lên một bước, cải cách hành chính đã thực sự góp phần vào
những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị và trật tự xã hội ở
nước ta trong thời gian qua.
Trên cơ sở kết quả đạt được trong công cuộc cải cách hành chính 10 năm qua
và thực trạng nền hành chính của đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011- 2020 đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã nêu rõ
3 giải pháp đột phá nhằm đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong đó tiếp
tục khẳng định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành
chính.
Theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 04 tháng 03 năm
2011 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02 năm 2011 và căn cứ Kết luận
của Thủ tướng Chính phủ tại hội nghị trực tuyến tổng kết thực hiện Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và xây dựng
Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, bộ Nội vụ đã
xây dựng Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu,
nhiệm vụ, các giải pháp tổ chức thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan có
liên quan trong triển khai thực hiện Chương trình.
Mục tiêu chung của Chương trình cải cách hành chính giai đoạn tới là thông
qua cải cách để có được một hệ thống thể chế kinh tế thị trường ngày càng hoàn
thiện, giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi

nguồn lực cho phát triển đất nước, coi trọng cải cách thủ tục hành chính để tạo
môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm
giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế; hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới
cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm và phát
Hoàng Hồng – QLXH 29 12
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
huy quyền làm chủ của nhân dân; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất,
năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất
nước.
Trọng tâm cải cách hành chính trong cả giai đoạn 10 năm là: xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng
là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ,
công chức làm việc; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch
vụ sự nghiệp công.
Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 có 6 nhiệm vụ là: cải
cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách
tài chính công, hiện đại hoá hành chính được chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn 1
(2011-2015) và giai đoạn 2 (2016-2020), nêu rõ các mục tiêu định lượng cụ thể
phải đạt được.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện cải cách TTHC để tiếp tục cải thiện môi
trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển
nhanh, bền vững.
Một số lĩnh vực trọng tâm cần tập trung là: Đầu tư, đất đai, xây dựng, sở hữu
nhà ở, thuế, hải quan, xuất khẩu, nhập khẩu, y tế, giáo dục, lao động, bảo hiểm,
khoa học, công nghệ và một số lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quyết
định theo yêu cầu cải cách trong từng giai đoạn.
Bên cạnh đó, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các TTHC theo quy định

của pháp luật; công khai, minh bạch tất cả các TTHC bằng các hình thức thiết
thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức
phải bỏ ra khi giải quyết TTHC tại cơ quan hành chính nhà nước; duy trì và cập
nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC.
Về nội dung thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”
Hoàng Hồng – QLXH 29 13
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
a. Khái niệm “một cửa”, “một cửa liên thông”
Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” được ban hành kèm theo quyết định
181/2003/QĐ-TTg ngày 04-09-2003 và quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày
22-06-2007 của Thủ tướng chính phủ. Đây được coi là mũi đột phá quan trọng
trong công tác cải cách TTHC.
“Một cửa” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, công dân thuộc thẩm
quyền của cơ quan HCNN từ tiếp nhận yêu cầu, hồ sơ đến trả lại kết quả
thông qua một đầu mối duy nhất là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại cơ
quan hành chính nhà nước.
Còn cơ chế “một cửa liên thông” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức,
cá nhân thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan HCNN cùng cấp
hoặc giữa các cấp hành chính từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải
quyết đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả tại cơ quan HCNN. Cơ chế này đặt ra yêu cầu các cơ quan nhà
nước có trách nhiệm phối hợp trong quy trình xử lí hồ sơ, không để cho tổ chức,
công dân phải cầm hồ sơ đi từ cơ quan này tới cơ quan khác.
b. Về lợi ích của cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”.
- Giảm phiền hà cho tổ chức, công dân.
- Chống tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu, nâng cao hiệu quả
quản lí nhà nước.
- Tinh giảm, sắp xếp lại bộ máy cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả và khoa học.
- TTHC đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật.

- Công khai các TTHC, các loại phí, lệ phí và thời gian giải quyết đối với từng
loại TTHC.
- Bảo đảm giải quyết công việc nhanh, chính xác.
c. Về phạm vi và các lĩnh vực áp dụng cơ chế “một cửa”, “một cửa liên
thông”.
Hoàng Hồng – QLXH 29 14
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Ở cấp tỉnh, 4 sở bắt buộc thực hiện cơ chế này là: Sở Kế hoạch - Đầu tư; Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở Xây
dựng. Cụ thể áp dụng trong các lĩnh vực: Phê duyệt các dự án đầu tư trong và
ngoài nước; xét duyệt cấp vốn xây dựng cơ bản; cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh; cấp giấy phép xây dựng; giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và
quyền sử dụng đất; giải quyết chính sách xã hội…
Ở cấp huyện áp dụng trong các lĩnh vực: Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho hộ kinh doanh cá thể; giấy phép xây dựng; giấy chứng nhận quyền
sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất; đăng ký hộ khẩu; công chứng; giải quyết
chính sách xã hội.
Ở cấp xã áp dụng trong các lĩnh vực: Cấp giấy phép xây dựng nhà ở; đất đai; hộ
tịch; chứng thực.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH Ở
NGHỆ AN TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1 Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An.
Nghệ An có diện tích: 16.487km². Có vị trí đặc biệt quan trọng của khu kinh tế
Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía Tây giáp với nước bạn Lào,
phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển Đông.
Dân số Nghệ An (theo điều tra dân số ngày 01/04/2009) có 3.113.055 người,
giảm so với thời kỳ điều tra đân số năm 2004 vì một bộ phận dân cư di cư vào
các địa phương khác sinh sống mà chủ yếu là các tỉnh phía Nam. Trên toàn tỉnh
Nghệ An có nhiều dân tộc cùng sinh sống: Kinh (chiếm chủ yếu), Thái , Thổ,
Khơ mú, Đan Lai

Về hành chính Nghệ An bao gồm 1 thành phố trực thuộc là Thành phố Vinh, 2
thị xã: Thị Xã Cửa Lò, Thị xã Thái Hòa và 17 huyện: Nam Đàn, Hưng Nguyên,
Nghi Lộc, Diễn Châu, Yên Thành, Đô Lương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương
Hoàng Hồng – QLXH 29 15
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Dương, Kỳ Sơn, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong,
Tân Kỳ, Thanh Chương.
Nghệ An có 479 đơn vị hành chính cấp xã gồm 462 xã phường và 17 thị trấn.
Về doanh nghiệp, tính đến nay toàn tỉnh có trên 8000 doanh nghiệp.
Về công nghiệp, hiện nay ngành công nghiệp của Nghệ An tập trung phát triển
ở 3 khu vực là Vinh - Cửa Lò gắn với Khu kinh tế Đông Nam, Khu vực Hoàng
Mai và khu vực Phủ Quỳ. Phấn đấu phát triển nhiều ngành công nghiệp có thế
mạnh như các ngành chế biến thực phẩm - đồ uống, chế biến thuỷ hải sản, dệt
may, vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, chế tác đá mỹ
nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy Hiện nay, trên địa bàn tỉnh
Nghệ An các khu công nghiệp sau: Khu kinh tế Đông Nam, Khu công nghiệp
Bắc Vinh, Khu công nghiệp Nam Cấm, Khu công nghiệp Nghi Phú, Khu công
nghiệp Hưng Đông, Khu công nghiệp Cửa Lò, Khu công nghiệp Hoàng Mai,
Khu công nghiệp Đông Hồi, Khu công nghiệp Phủ Quỳ, Khu công nghiệp Tân
Thắng
Về du lịch: Nghệ An là tỉnh có rất nhiều địa điểm du lịch như: Cửa Lò, Biển
Diễn Thành (Diễn Châu), Bãi Lữ (Nghi Lộc), khu di tích Hồ Chí Minh, khu di
tích đền Cuông (Nam Đàn), rừng quốc gia Pù Mát, thác Khe Kèm (Con Cuông),
Đền Chín gian, thác Sao Va (Quế Phong), …
Trình độ dân trí: Tính đến năm 2002, đã phổ cập giáo dục tiểu học cho 10
huyện với 215 xã, đạt 90%. Tỷ lệ người biết chữ 80% trong độ tuổi (35 tuổi) ở
10 huyện miền núi. Số lượng học sinh 10 huyện miền núi là 314.420 em. Số
học sinh người dân tộc thiểu số chiếm 36%. Số giáo viên toàn tỉnh có 35 nghìn
người trong đó giáo viên là người dân tộc thiểu số chiếm hơn 10%.
Số thầy thuốc toàn tỉnh có 2.395 người, bình quân toàn tỉnh mới chỉ đạt 2,8 bác

sỹ/ vạn dân. Ở vùng miền núi chỉ mới có 1,8 bác sỹ/vạn dân. Trong tổng số thầy
thuốc thì bác sỹ có 871 người, trong đó bác sỹ là người dân tộc thiểu số có 59
người.
Hoàng Hồng – QLXH 29 16
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Mạng lưới giao thông đường bộ: Toàn tỉnh có 7.009 km đường giao thông.
Trong đó, đường do trung ương quản lý dài 665 km, chiếm 9,48%, trong đó có
560 km đường nhựa chiếm tỷ lệ 84%; đường do tỉnh quản lý dài 344 km, chiếm
4,90%, trong đó có 152 km đường nhựa chiếm tỷ lệ 44%; đường do huyện và
xã quản lý dài 6.000 km, chiếm 85,60%, kết cấu phổ biến là mặt cấp phối tự
nhiên và đường đất chiếm 87%, mặt nhựa chiếm 13%, vùng miền núi có 1.398
km (đường nhựa và đá dăm dài 86km).
Mạng lưới bưu chính viễn thông: Ở 10 huyện miền núi có số lượng bưu cục là
41 đơn vị, 15.716 cái điện thoại và 42 Fax, 141 bưu điện văn hoá xã.
Mạng lưới điện quốc gia: Hiện đã có 9/10 huyện miền núi được hòa mạng lưới
điện quốc gia, hơn 70% số xã và 68% số hộ miền núi đã có điện lưới sử dụng.
Hệ thống cấp nước sinh hoạt: Tỉnh có nhà máy nước Hưng Vĩnh (thành phố
Vinh) với công suất trên 20.000 m3/ngày. Ngoài ra, tỉnh Nghệ An còn có 11
nhà máy nước ở các huyện thị, trong đó có 6 nhà máy nước ở 7 huyện miền núi:
Anh Sơn, Nghĩa Ðàn, Tân Kỳ, Con Cuông, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Thanh
Chương.
GDP bình quân đầu người năm 2010 trên 700 USD/người/năm, tăng 1,8 lần so
với năm 2005 và 2,8 lần so với năm 2000. (Năm 2000 là 281USD và năm 2005
là 430 - 450 USD).
Giá trị xuất khẩu năm 2011 đạt 340 - 370 triệu USD, tăng gấp 3 lần so với năm
2005 và trên 10 lần so với năm 2000.
2.2 Thực trạng công tác cải cách TTHC ở tỉnh Nghệ An trong những năm
gần đây
2.2.1 Cơ sở pháp lý để cải cách TTHC của tỉnh
- Nghị quyết số 38/CP ngày 4-5-1994 của Chính phủ về “Cải cách một bước

TTHC”
Hoàng Hồng – QLXH 29 17
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
- Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của
Chính phủ ban kèm theo quyết định số 136/2001/QĐ-TTg, ngày 17-9-2001 của
Thủ tướng chính phủ.
- Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương ban hành kèm theo quyết định số 181/2003/QĐ-TTg, ngày 04-9-2003
của Thủ tướng chính phủ.
- Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/02/2008 quy định về việc tiếp nhận, xử lý phản ánh,
kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính.
- Chỉ thị Số: 24/2008/CT-UBND Về việc đẩy mạnh thực hiện Đề án đơn giản
hóa thủ tục hành chính
- Nghị định 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 về kiểm soát thủ tục hành chính.
- Quyết định 4367/QĐ-UBND Về việc ban hành Kế hoạch tuyên truyền Đề án
Đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn
2007-2010
- Quyết định Số: 4366 /QĐ-UBND Về việc ban hành Quy chế hoạt động của Tổ
Công tác Đề án 30 tỉnh Nghệ An
- Quyết định Số: 3382 /QĐ-UBND Về việc thành lập Tổ công tác thực hiện Đề
án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai
đoạn 2008 - 2010 tỉnh Nghệ An
- Quyết định Về việc ban hành Kế hoạch Cải cách hành chính Nhà nước tỉnh
Nghệ An năm 2008 (23/01/2008)
- Quyết định Số:Số: 3527/QĐ-UBND, ngày 27 tháng 7 năm 2009 Về việc ban
hành Kế hoạch thực hiện Giai đoạn rà soát thủ tục hành chính của Đề án Đơn
giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước, tỉnh Nghệ An
- Kế hoạch thực hiện Giai đoạn rà soát thủ tục hành chính của Đề án đơn giản
hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước, tỉnh Nghệ An (Ban
hành kèm theo Quyết định số 3527/QĐ-UBND ngày 27 tháng 7 năm 2009 của

UBND tỉnh)
Hoàng Hồng – QLXH 29 18
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của Đảng tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI.
2.2.2 Công tác cải cách TTHC trong những năm gần đây ở Nghệ An.
Thực hiện Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành
chính của Thủ tướng Chính phủ, kết thúc giai
đoạn 1, UBND tỉnh đã công bố 19 Bộ thủ tục
hành chính áp dụng tại cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã với số lượng 1.503 thủ tục; công khai rộng rãi
để nhân dân được biết và thực hiện. Bước vào
giai đoạn 2, các cấp, các ngành đã nỗ lực, cố
gắng phấn đấu đạt mục tiêu của Đề án và tiến hành rà soát 1.384 thủ tục hành
chính. Trên cơ sở các yếu tố cần thiết, chất lượng, hiệu quả, các cấp, các ngành
đã kiến nghị đơn giản hóa 934 thủ tục, đạt tỷ lệ 67,5% (vượt xa so mục tiêu Đề
án đề ra đảm bảo đơn giản hóa tối thiểu 30% các thủ tục hành chính). Tuy
nhiên, bên cạnh vẫn còn một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm, thiếu
quyết liệt nên kết quả còn hạn chế.
Phát biểu tại Hội nghị Công bố kết quả rà soát thủ tục hành chính tỉnh Nghệ,
diễn ra tại thành phố Vinh, ngày 13/4/2010, đồng chí Hồ Đức Phớc đánh giá
cao những cố gắng của các cấp, các ngành thời gian qua, đồng thời yêu cầu các
cấp, các ngành cần tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức triển khai toàn diện trên tất
cả các nội dung của công tác cải cách hành chính nhà nước, trong đó tập trung
vào cải cách thủ tục hànhchính. Tăng cường công tác tuyên truyền về mục đích,
ý nghĩa của Đề án 30 đến toàn thể nhân dân, nhằm huy động tối đa các thành
phần tham gia đóng góp ý kiến về thủ tục hành chính. Tổ chức công khai đầy
đủ thủ tục hành chính rộng rãi để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, thuận lợi.
Thống kê bổ sung các thủ tục hành chính còn thiếu, mới được ban hành hoặc đã
được sửa đổi, bổ sung một số nội dung để trình Chủ tịch UBND tỉnh công bố và

Hoàng Hồng – QLXH 29 19
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
cập nhật lên cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính và Trang thông tin
điện tử của tỉnh theo yêu cầu của Chính phủ.
Nghệ An đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong cải cách thủ tục hành chính nhà
nước. Thời gian qua, các cơ quan, ban ngành, địa phương đã đẩy mạnh việc ứng
dụng công nghệ thông tin, nâng cấp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, củng
cố hệ thống mạng nội bộ, sử dụng các phần mềm dùng chung (M.Office, E-
Office), phần mềm chuyên ngành, sử dụng hệ thống thư điện tử, hộp thư công vụ.
Đến nay, toàn tỉnh đã có 11 đơn vị sử dụng phần mềm văn phòng di động M-
Office; 5 đơn vị sử dụng phần mềm văn phòng điện tử E-Office; 65 đơn vị đang sử
dụng hộp thư điện tử tỉnh với 5.010 tài khoản, dung lượng đạt 281 GB; 100% các
cơ quan Đảng, 75% các sở, ban, ngành và UBND cấp huyện, trên 90% các cơ sở y
tế, giáo dục đào tạo sử dụng phần mềm chuyên môn. Hệ thống giao ban điện tử
trực tuyến kết nối tại 22 điểm trong toàn tỉnh đã và đang được khai thác, sử dụng
có hiệu quả.
Các thông tin về chủ trương, chính sách, thủ tục hành chính của các cơ quan, đơn
vị được cập nhật, công khai kịp thời trên Cổng thông tin điện tử Nghệ An tại địa
chỉ www.nghean.vn. Việc cung cấp các dịch vụ công trên mạng ngày một tốt hơn.
Hiện đã có 181 dịch vụ hành chính công mức độ 1; 62 dịch vụ hành chính công
mức độ 2 và 04 dịch vụ hành chính công mức độ 3 (Đăng ký kinh doanh, Cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện an ninh trật tự, Cấp giấy phép xây dựng, Cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất) được thực hiện trên cổng thông tin điện tử của tỉnh. Một
số cơ quan như Cục Thuế, Cục Hải quan đã thực hiện việc cung cấp các dịch vụ
công qua mạng.
Vừa qua, Đoàn công tác liên ngành do Sở Nội vụ Nghệ An chủ trì tổ chức kiểm
tra việc thực hiện các nội dung thuộc lĩnh vực cải cách hành chính trên địa bàn
huyện Nghĩa Đàn, Thị xã Thái hòa, Thanh tra tỉnh Nghệ An.
a. Về tình hình rà soát các văn bản quy phạm pháp luật và đơn giản hóa
TTHC trên địa bàn tỉnh.

Hoàng Hồng – QLXH 29 20
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Ngày 01/4/2011, UBND tỉnh đã có Quyết định 1032 về việc ban hành Kế hoạch
hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh Nghệ An năm 2011.
Theo đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục tiến hành rà soát, thực thi và kiến nghị
đơn giản hóa, tăng cường kiểm soát các thủ tục hành chính. Tập trung cao rà
soát và ban hành văn bản, trongnhững năm vừa qua, đã rà soát 1.700 văn bản và
150 văn bản do UBND tỉnh ban hành có liên quan đến việc thi hành hiệp định
thương mại Việt Nam Hoa Kỳ và gia nhập WTO. Ban hành gần 1.000 văn bản
qui phạm pháp luật, tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Thu hút đầu tư, quản lý
đầu tư xây dựng cơ bản, đất đai tài nguyên khoáng sản và môi trường, quản lý
tổ chức cán bộ Cụ thể:
+ Thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân tiếp tục được xây dựng
và hoàn thiện, trong đó đáng chú ý là việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân
dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng.
+ Đã xác lập trật tự kỉ cương trong quản lý thu phí, lệ phí. Quy định công khai
và minh bạch nguyên tắc thu, mức thu, chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng đối
với các loại phí, lệ phí.
+ Trong lĩnh vực thuế, đã thí điểm triển khai thực hiện cơ chế mới có tính đột
phá doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự nộp thếu, cải tiến thủ tục trong cấp mã số
thuế, nhờ đó giảm được thời gian doanh nghiệp phải chờ đợi.
+ Trong lĩnh vực hiện đại hóa hải quan, quy trình thủ tục hành chính được cải
tiến, bỏ nhiều khâu trung gian theo hướng tổ chức dây chuyền thủ tục hải quan
hoàn chỉnh, một cửa, do đó đã giảm đáng kể thời gian thông quan.
+ Hàng năm tỉnh đã tiến hành rà soát văn bản Quy phạm pháp luật để phát hiện
và kiến nghị loại bỏ những thủ tục phiền hà rườm rà.
Các ngành tổ chức việc rà soát, sửa đổi thủ tục hành chính theo nguyên tắc:
Đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và rút ngắn thời gian thực hiện. Với tinh thần
đó, trong lĩnh vực giao đất đã rút ngắn từ 22 ngày xuống còn 4 ngày; cấp quyền
giấy sử dụng đất từ 90 ngày còn 30 ngày; cấp giấy phép xây dựng từ 30 ngày

Hoàng Hồng – QLXH 29 21
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
xuống còn 15 ngày; giao đất đô thị từ 21 khâu còn 11 khâu và từ 66 ngày xuống
còn 32 ngày
b. Tình hình thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong giải
quyết TTHC của Tỉnh.
Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tiếp tục được các địa phương, đơn vị thực
hiện nghiêm túc. Một số đơn vị đã có những việc làm cụ thể để nâng cao chất
lượng cơ chế này như: Sở Kế hoạch và Đầu tư triển khai xây dựng Đề án Nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo
cơ chế một cửa và một cửa liên thông; Cục Thuế Nghệ An tiến hành kiểm tra
công tác tuyên truyền, hỗ trợ hoạt động cho Bộ phận một cửa các Chi cục;
UBND huyện Anh Sơn tổ chức kiểm tra chấn chỉnh hoạt động của bộ phận một
cửa UBND huyện, cấp xã Đã có 10 sở, ngành, 19 huyện (100%) 418/473 xã
(88,4%) tổ chức bộ phận “một cửa” đi vào hoạt động. Nhìn chung, qua cơ chế
“một cửa” các loại dịch vụ theo quy định của Chính phủ đều qua bộ phận này
(như lĩnh vực lao động thương binh xã hội, địa chính, đăng ký kinh doanh, giấy
phép xây dựng và công chứng; thẩm định dự án đầu tư, quyết toán công
trình ) các thủ tục hành chính, lệ phí thời gian và địa điểm giải quyết đều công
khai rõ ràng. Từ đó người dân, doanh nghiệp và tổ chức dễ dàng tiếp xúc với
chính quyền, tạo điều kiện cho họ tuân thủ đúng Luật, tiết kiệm được thời gian
công sức và tiền của của nhân dân. Nhân dân và doanh nghiệp có điều kiện
giám sát công chức thi hành nhiệm vụ, công việc cơ bản được giải quyết thông
suốt.
Hiện nay, cơ chế “một cửa” tại các ngành, địa phương tiếp tục được thực hiện
tại 21/24 sở, ngành cấp tỉnh, 20/20 đơn vị cấp huyện và 456/479 đơn vị cấp xã;
đáp ứng yêu cầu giao dịch của tổ chức, công dân trên địa bàn. Các yêu cầu công
việc của nhân dân, doanh nghiệp được giải quyết kịp thời qua cơ chế một cửa
liên thông đã thực sự giảm phiền hà và tiêu cực. Mô hình một cửa liên thông
hiện đại với việc ứng công nghệ thông tin ở mức cao và áp dụng hệ thống quản

Hoàng Hồng – QLXH 29 22
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO trong giải quyết công việc đã được nhân rộng
tại các địa phương trong tỉnh. Đến nay, ngoài UBND TP Vinh và Thị xã Cửa
Lò, mô hình một cửa hiện đại đang được tiếp tục triển khai tại UBND các
huyện Quỳnh Lưu và Nam Đàn.
Tiêu biểu như Thị xã Thái Hòa, trong 2 năm 2010 và 2011, UBND thị xã Thái
Hoà đã ban hành 6 quyết định, chỉ thị về công tác cải cách hành chính trên các
mặt nội dung gồm: kế hoạch cải cách hành chính trên địa bàn, kế hoạch kiểm
tra cải cách hành chính, tăng cường kiểm tra, rà soát và xử lý văn bản quy phạm
pháp luật trên địa bàn xã, quy định về trách nhiệm người đứng đầu… Thị xã đã
tổ chức rà soát, thẩm định 158 văn bản quy phạm pháp luật nhằm kiểm tra tính
hợp pháp, thể thức văn bản. Việc kiểm tra, rà soát đã góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước bằng pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết hồ sơ hành chính
cho người dân, tổ chức và doanh nghiệp, UBND thị xã đã kiện toàn bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa. Trung tâm giao dịch một cửa thị
xã tiếp nhận và giải quyết hồ sơ trên các lĩnh vực: Lao động – Thương binh và
Xã hội và các chính sách xã hội; tư pháp hộ tịch; đăng ký kinh doanh; xây dựng
cơ bản và cấp giấy phép xây dựng nhà ở; cấp đổi, cấp mới giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Các thủ tục hành chính, quy định về hồ sơ, trình tự, thời
gian giải quyết, phí và lệ phí, trách nhiệm của cơ quan, cán bộ công chức thi
hành công vụ được niêm yết công khai, rõ ràng. Hiệu quả công việc ngày càng
được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân, tổ chức và doanh
nghiệp khi tham gia các giao dịch hành chính. Hiện UBND thị xã đang triển
khai dự án xây dựng Trung tâm giao dịch một cửa theo mô hình một cửa liên
thông hiện đại.
Hay như ở huyện Nam Đàn, trung tâm giao dịch một cửa của huyện đang được
xây dựng theo tiêu chí liên thông hiện đại đưa vào hoạt động từ tháng 9/ 2011.
Tất cả 24 xã, thị trấn đều đã đưa trung tâm giao dịch một cửa vào hoạt động ổn

Hoàng Hồng – QLXH 29 23
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
định với các lĩnh vực giao dịch là: tư pháp, địa chính - xây dựng, văn phòng-
thống kê. Quy chế hoạt động, quy trình thủ tục, các mẫu biều, mức phí và lệ phí
đều được niêm yết công khai cho nhân dân được biết. Có thực hiện quyết định
70/2010 của UBND tỉnh đã có 7 xã và Phòng Lao động - TB&XH tổ chức làm
việc cả ngày thứ 7 để tiếp nhận, giải quyết các thủ tục nhành chính cho nhân
dân. Nhiều thủ tục hành chính được đơn giản hóa và giảm nhều thời gian giải
quyết như: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tách thửa, chuyển mục đích
sử dụng đất…
Tỉnh Nghệ An cũng đã tổ chức hội thi “Những mô hình cải cách hành chính
tiêu biểu trong cán bộ, công chức trẻ Nghệ An năm 2011” Hội thi là dịp để các
ngành, các cấp, tổ chức Đoàn trao đổi những kinh nghiệm trong công tác cải
cách hành chính, nhất là cải cách hành chính công. Qua đó, khuyến khích, động
viên cán bộ, công chức trẻ tích cực tham gia các hoạt động của chương trình cải
cách hành chính; góp phần đơn giản hóa các thủ tục hành chính nhanh về thời
gian, gọn về thủ để phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
2.3 Những hạn chế, tồn tại trong công tác cải cách TTHC của Tỉnh
TTHC vẫn chưa giảm nhiều, hiệu quả của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả chưa
cao. Nhiều hồ sơ giải quyết chưa đúng hẹn nhất là trong lĩnh vực đất đai, cấp
phép xây dựng nhà ở. Sự quyết tâm trong chỉ đạo, điều hành, triển khai công tác
cải cách TTHC ở một số cơ quan đơn vị chưa quyết liệt, mang tính hình thức,
hiệu quả thấp. Đội ngũ cán bộ, công chức: về năng lực còn hạn chế, nhất là
trong lĩnh vực tin học, ứng dụng công nghệ; về đạo đức phẩm chất thì một bộ
phận không nhỏ cán bộ công chức vẫn còn hách dịch, sách nhiễu, và còn cần
đến chất “bôi trơn” để giải quyết công việc được nhanh chóng hơn. Công tác
tuyên truyền về cải cách thủ tục hành chính tiến hành chưa mạnh, chưa có chiều
sâu nên chưa tạo được bước đột phá trong nhận thức về trách nhiệm thực hiện
công vụ, cũng như tầm quan trọng của cải cách TTHC trong cán bộ, đảng viên ,
người dân, đặc biệt là người dân vùng sâu, vùng xa.

Hoàng Hồng – QLXH 29 24
Công tác cải cách thủ tục hành chính ở Nghệ An
Cách thức, lề lối làm việc của các cơ quan hành chính chưa có nhiều thay đổi,
tình trạng văn bản, giấy tờ, hội họp vẫn còn nhiều… Hoạt động của các trung
tâm giao dịch một cửa đã đi vào nền nếp nhưng chưa thực sự phát huy hiệu quả
chưa cao, vẫn còn tình trạng gây khó khăn, phiền hà cho người dân và doanh
nghiệp.
Nhiều thủ tục vẫn chưa được nghiên cứu đơn giản hoá kịp thời; công khai thủ
tục hành chính chưa đầy đủ, hướng dẫn thủ tục hành chính của cán bộ, công
chức ở một số cơ quan chưa tốt, giải quyết thủ tục hành chính ở một số lĩnh
vực, công việc tại nhiều cơ quan còn chậm thời gian so với quy định.
Đặc biệt là các lĩnh vực đất đai, khoáng sản, xây dựng, kiểm tra cấp phép đầu
tư, xử lý sau thanh tra.
Còn về việc thực hiện cơ chế “ một cửa”, “một liên thông” còn thiếu đồng bộ,
việc giải quyết những hồ sơ có tính chất liên nghành như đất đai, xây dựng thì
người dân và doanh nghiệp còn phải liên hệ với nhiều cơ quan nhiều cấp, (ít
nhất là hai cấp xã - huyện, huyện - tỉnh). Việc ứng dụng những tiến bộ của khoa
học công nghệ còn bị hạn chế, một phần do sự lạ lẫm của người dân, phần vì
trình độ của đội ngũ cán bộ.
Có những hạn chế như vậy là do nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền Nghệ
An, còn ảnh hưởng của cơ chế cũ, đội ngũ cán bộ cũng như người dân chưa kịp
thích nghi với khoa học công nghệ trong cải cách thủ tục hành chính; các biện
pháp trong cải cách TTHC chưa đủ mạnh, sự quyết tâm trong chỉ đạo, điều
hành, triển khai công tác cải cách TTHC ở một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự
quyết liệt, nhiều khi còn mang tính hình thức nên hiệu quả thấp; Công tác tuyên
truyền về cải cách TTHC tiến hành chưa mạnh và thiếu chiều sâu. Vì vậy, chưa
tạo được bước đột phá trong nhận thức về trách nhiệm thực hiện công vụ cũng
như tầm quan trọng của cải cách TTHC trong cán bộ, đảng viên. Chưa tạo được
hiểu biết cho một bộ phận nhân dân nhất là đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa
về TTHC.

Hoàng Hồng – QLXH 29 25

×