Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban Nhân dân cấp quận, phường trong điều kiện không tổ chức hội đồng nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 92 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ MINH CHÂU






CẢI CÁCH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, PHƯỜNG
TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ MINH CHÂU




CẢI CÁCH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, PHƯỜNG
TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Văn Thành



HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, PHƯỜNG TRONG
ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
10
1.1.
Một số khái niệm cơ bản
10
1.1.1.
Chính quyền địa phương
10
1.1.2.
Chính quyền đô thị
12
1.2.
Tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường
16
1.2.1.
Ủy ban nhân dân quận
16
1.2.2.
Ủy ban nhân dân phường
19
1.3.
Yêu cầu cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân
cấp quận, phường khi không tổ chức Hội đồng nhân dân
21
1.3.1.
Thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường
21

1.3.2.
Yêu cầu cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân
cấp quận, phường
24
1.4.
Một số kinh nghiệm nước ngoài về tổ chức chính quyền đô thị
30

Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY
BAN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, PHƯỜNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG
TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
35
2.1.
Hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước về thực hiện thí
điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường
35
2.2.
Những kết quả đạt được về tổ chức, hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp quận, phường trong điều kiện không tổ chức
Hội đồng nhân dân.
40
2.2.1.
Về tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường
40
2.2.2.
Về hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường
44
2.2.3.
Đánh giá về hoạt động của Ủy ban nhân dân quận, phường
trong thời gian thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân

51
2.3.
Khó khăn, vướng mắc và những vấn đề đặt ra
52

Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CẢI CÁCH TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, PHƯỜNG
TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
57
3.1.
Mục tiêu, quan điểm cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy
ban nhân dân cấp quận, phường
57
3.1.1.
Mục tiêu
57
3.1.2.
Quan điểm
57
3.2.
Giải pháp cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân
dân cấp quận, phường
62
3.2.1.
Về tổ chức Ủy ban nhân dân cấp quận, phường
62
3.2.2.
Về hoạt động Ủy ban nhân dân cấp quận, phường
70
3.3.

Các giải pháp đảm bảo
75
3.3.1.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền địa
phương trong đó có cấp quận, phường
75
3.3.2.
Tăng cường mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân quận, phường
với các cơ quan cơ quan hành chính cấp trên và các cơ quan khác
75
3.3.3.
Tăng cường giám sát, kiểm tra, phản biện của nhân dân ở
quận, phường
76

KẾT LUẬN
81

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng

Tên bảng
Trang
2.1
Số liệu về kết quả bổ nhiệm các thành viên Ủy ban nhân
dân quận, phường nơi thực hiện thí điểm không tổ chức
Hội đồng nhân dân
43
2.2
Thống kê số lượng các văn bản quản lý, điều hành của
Ủy ban nhân dân quận, phường nơi thực hiện thí điểm
44
2.3
Tổng hợp thu - chi ngân sách năm 2009 trên địa bàn
quận, phường của 10 tỉnh, thành phố thực hiện thí điểm
46
2.4
Thống kê các cuộc giám sát của thường trực Hội đồng
nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với
hoạt động của Ủy ban nhân dân quận
48
2.5
Thống kê số lượng các cuộc kiểm tra định kỳ, đột xuất
của Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp đối với hoạt động
của Ủy ban nhân dân quận, phường thí điểm
49
2.6
Thống kê giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp đối với
hoạt động của Ủy ban nhân dân quận, phường thí điểm
50





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách hành chính nhà nước đặt ra yêu cầu cấp thiết là cải cách tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa các cấp chính
quyền, giữa chính quyền đô thị và nông thôn. Quá trình cải cách hành chính ở
nước ta thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích cực, song trên thực tế
vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc về thể chế, tổ chức bộ máy, con người và
hiệu quả quản lý. Việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
bộ máy hành chính nhà nước ở cả trung ương và địa phương, phân biệt chính
quyền đô thị và nông thôn đang là đòi hỏi bức thiết hiện nay.
Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững của các địa phương trong
những năm tiếp theo đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền
địa phương, đáp ứng các yêu cầu, chuẩn mực của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra yêu cầu:
Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho phù hợp với những
thay đổi chức năng, nhiệm vụ. Phân biệt rõ những khác biệt giữa
chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy
phù hợp. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra hoạt động của
bộ máy chính quyền cơ sở [14, tr. 159].
Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của hội đồng

nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền
đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo

[14, tr. 170].



2
Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn II
(2006 - 2010) đã xác định:
Đến năm 2008, xác định xong và thực hiện các quy định mới về phân
cấp quản lý hành chính nhà nước giữa trung ương và địa phương,
giữa các cấp chính quyền địa phươ-ng; tổ chức hợp lý và ổn định
các đơn vị hành chính, định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ
chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn [19, tr. 5].
Hiện nay, Quốc hội giao cho Chính phủ thực hiện thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường với mục đích qua thí điểm sẽ
tổng kết, đánh giá và xem xét để có chủ trương sửa đổi Hiến pháp, pháp luật
về tổ chức chính quyền địa phương, đảm bảo tính thống nhất, thông suốt, hiệu
lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, vị trí của chính quyền địa phương
(cụ thể là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân) được quy định như sau:
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp
quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa
phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa

vụ của địa phương đối với cả nước.
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Ủy
ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm



3
bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Ủy ban
nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo
đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương tới cơ sở.
Trong điều kiện thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân,
đơn vị hành chính huyện, quận, phường chỉ còn Ủy ban nhân dân, với tư cách
là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Việc nghiên cứu mô hình tổ
chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân huyện, quận, phường là yêu cầu bức
thiết, góp phần kiến nghị đổi mới đồng bộ bộ máy chính quyền địa phương
khi việc thí điểm đạt kết quả và triển khai trên diện rộng.
Mặt khác, để có căn cứ sửa đổi Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, việc nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân huyện, quận, phường khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
là việc làm cần thiết.
Do vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề: "Cải cách tổ chức và
hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường trong điều kiện không tổ
chức Hội đồng nhân dân" làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung

và Ủy ban nhân dân nói riêng là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh cải cách hành chính nhà
nước như hiện nay. Tuy vậy, cho đến nay những công trình nghiên cứu về vấn
đề này đã được tiến hành nhưng vẫn có hạn chế về số lượng và tầm vóc của
công trình. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về chính quyền
địa phương có liên quan đến luận văn:
Các đề tài thuộc Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX.04: Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, như:



4
Đề tài KX.04.02 "Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời
kỳ công nghiệp, hiện đại hóa" do GS.TS. Đào Trí úc chủ nhiệm; Đề tài
KX.04.08 "Cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương đáp
ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân" do PGS.TS. Lê Minh Thông chủ nhiệm.
Một số đề tài khoa học khác tiếp cận vấn đề xây dựng và hoàn thiện
chính quyền địa phương dưới góc độ đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành
chính nhà nước hoặc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta như: "Nghiên cứu các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh cải cách hành
chính ở nước ta hiện nay" do TS. Nguyễn Ngọc Hiến chủ nhiệm; "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Viện Khoa học Tổ chức nhà nước -
Bộ Nội vụ; Đề tài khoa học: mã số 93-98-397: "Đổi mới thể chế và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước ở địa phương" do PGS.TS Lê Sỹ Thiệp làm chủ
nhiệm đã luận chứng sự cần thiết phải đổi mới thể chế và hoạt động của bộ
máy quản lý nhà nước ở địa phương, đánh giá thực trạng hoạt động của bộ
máy quản lý nhà nước ở địa phương, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đổi

mới thể chế và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước ở địa phương.
Về sách chuyên khảo, có các công trình đáng chú ý như: "Một số vấn
đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam" chủ biên TS.Lê Minh Thông, Nxb Khoa học xã
hội, 2001, là công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, trong đó có tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương. Về chính quyền địa phương, một số tác giả đã
đề cập đến mô hình tổ chức của chính quyền địa phương hiện nay, yêu cầu
đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân,
tiếp tục hoàn thiện cơ chế "một cửa, một dấu".



5
Sách chuyên khảo: "Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương (lịch
sử và hiện tại)" của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Nxb Đồng Nai, 1997. Tác
giả đã đi sâu phân tích về chính quyền nhà nước ở địa phương, khái niệm, vị
trí vai trò của nó. Cuốn sách cũng đề cập về tổ chức xã, phường, thị trấn trước
cách mạng tháng 8/1945 và hiện tại, về lịch sử và vai trò của tổ chức chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ngoài ra, tác giả đi sâu thêm về
tổ chức chính quyền huyện, quận thành phố thuộc tỉnh, thị xã.
Sách chuyên khảo: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền
địa phương ở Việt Nam hiện nay" đồng chủ biên: PGS.TS.Lê Minh Thông,
PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Nxb Chính trị quốc gia, 2002. Trên cơ sở phân
tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương, kinh
nghiệm lịch sử trong xây dựng và phát triển chính quyền địa phương ở nước
ta từ 1945 đến nay, tập thể tác giả đã đi sâu phân tích về đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương tỉnh, về tổ chức chính quyền cơ sở ở
nông thôn, đổi mới mô hình tổ chức chính quyền đô thị và đưa ra ý kiến về
việc tổ chức, quản lý tốt chính quyền đô thị.

Sách chuyên khảo: "Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai
đoạn hiện nay" của PGS.TS. Bùi Xuân Đức, Nxb Tư pháp, 2004. Trên cơ sở
xác định quan điểm, nguyên tắc cải cách bộ máy nhà nước, làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn đổi mới căn bản của bộ máy nhà nước qua các bản Hiến
pháp từ đó tác giả đã đưa ra những phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó
có đổi mới tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương ở nước ta.
Sách chuyên khảo: "Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyền
địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế" của tập thể
tác giả: Nguyễn Ký, TS.Nguyễn Hữu Đức; ThS. Đinh Xuân Hà, Nxb Chính
trị quốc gia, 2006 đã trình bày khái quát tóm tắt quá trình hình thành chính
quyền địa phương, những điều chỉnh lớn về địa giới hành chính ở nước ta qua
từng thời kỳ lịch sử, phân tích những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội



6
nhập kinh tế quốc tế đối với chính quyền địa phương và đề ra phương hướng
đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp nhằm đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của tình hình mới.
Sách chuyên khảo: "Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của tác giả GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb Tư
pháp, 2006 đã đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở nước ta hiện nay, đưa ra nguyên tắc xác định mô hình tổ chức, hoạt
động của chính quyền địa phương đồng thời đề xuất mô hình đổi mới tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng đề cập đến vấn đề tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương như:"Đổi mới tổ chức và hoạt động
của Ủy ban nhân dân huyện - từ thực tiễn tỉnh Thái Bình", luận văn Thạc sĩ

quản lý hành chính công của Nguyễn Hồng Diên, Học viện Hành chính Quốc
gia, 2005; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân huyện theo
hướng phân cấp - Từ thực tiễn thành phố Hải phòng", luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Văn Khanh, Học viện Hành chính Quốc gia, 2007.
Ngoài ra, một số luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ ở Học viện Chính trị -
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính, Đại học Quốc gia,
Đại học Luật… cũng đã đề cập đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện chính
quyền địa phương dưới các góc độ khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu
như: Tạp chí Cộng sản, Nghiên cứu lập pháp, Nhà nước và pháp luật, Quản lý
nhà nước, Tổ chức nhà nước của các nhà khoa học, các nhà quản lý về quá
trình hình thành và phát triển, vấn đề đổi mới chính quyền địa phương, những
vấn đề bức xúc trong thực tiễn và lý luận tổ chức chính quyền địa phương, đổi
mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được
nhiều tác giả quan tâm như:



7
"Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân các cấp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 1999, của TS. Lê Minh Thông.
"Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương", Tạp chí Thông
tin khoa học pháp lý, 2001 của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung
"Đánh giá thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 170, 3/2010 của TS. Nguyễn Minh Phương
"Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền phường
trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân", Tạp chí Quản lý nhà
nước, số 177, 10/2010 của ThS. Dương Thị Lan Chi.
Nhìn chung các đề tài, công trình nghiên cứu, bài viết trên đã phân
tích khá toàn diện cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của

chính quyền địa phương và bước đầu đề xuất các quan điểm, phương hướng
giải pháp xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở nước ta. Các quan điểm, nhận định, đánh giá, kiến nghị của các
công trình nghiên cứu trên đã được tác giả tham khảo, chọn lựa có chọn lọc.
Song hiện nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu mô hình tổ chức,
hoạt động riêng cho quận, phường nhất là trong điều kiện thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân quận, phường như hiện nay. Do đó học viên lựa chọn
đề tài:"Cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp quận,
phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân" với mục tiêu
nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất quan điểm, giải
pháp cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân quận, phường trong
điều kiện thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Làm sáng tỏ cơ sở khoa học cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân khi không tổ chức Hội đồng nhân dân; đề xuất giải pháp hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân quận, phường đáp ứng yêu cầu cải



8
cách hành chính nhà nước, đảm bảo tính thống nhất, thông suốt của bộ máy
nhà nước từ trung ương đến địa phương.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
1. Phân tích một số vấn đề về lý luận tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp quận, phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân
2. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp
quận, phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường.
3. Đề xuất quan điểm và các giải pháp cải cách tổ chức và hoạt động

của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường khi không tổ chức Hội đồng nhân dân
quận, phường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: tổ chức và hoạt động của Ủy
ban nhân dân cấp quận, phường.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Ủy ban nhân dân cấp quận của các thành phố trực thuộc Trung ương;
+ Ủy ban nhân dân phường của thành phố trực thuộc tỉnh và thành phố
trực thuộc Trung ương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận để tiến hành nghiên cứu trong luận văn là các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng ta về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy chính quyền địa phương
nói riêng.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được luận văn sử dụng là: Hệ
thống hóa; thống kê; so sánh; phân tích, tổng hợp; lấy ý kiến chuyên gia.
Phương pháp khảo sát và điều tra được sử dụng chừng mực cần thiết.



9
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau: Trong điều kiện thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường luận văn đã phân tích một số
vấn đề lý luận về tổ chức chính quyền địa phương, luận giải yêu cầu đổi mới
tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân quận, phường; đánh giá thực trạng
về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường trong thời
gian thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân và đưa ra các giải
pháp cải cách tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường
trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp quận, phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp
quận, phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp cải cách tổ chức và hoạt động của
Ủy ban nhân dân cấp quận, phường trong điều kiện không tổ chức Hội đồng
nhân dân.



10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP QUẬN, PHƯỜNG TRONG ĐIỀU KIỆN
KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Chính quyền địa phương
Chính quyền là khái niệm chỉ hình thức tổ chức bộ máy nhà nước của
mỗi quốc gia từ trung ương đến cấp cơ sở, sử dụng quyền lực nhà nước theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật để cai trị, quản lý và phát triển đất nước.
Ở nước ta, khái niệm chính quyền địa phương được hiểu ở theo nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, chính quyền địa phương: "Bao gồm hoạt
động của tất cả các cơ quan nhà nước có phạm vi hoạt động trong vùng lãnh
thổ địa phương của các cơ quan quyền lực nhà nước, hành chính, tư pháp,
kiểm sát" [8, tr. 13].
Theo nghĩa hẹp, chính quyền địa phương chỉ cơ quan quyền lực nhà

nước (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Ủy
ban nhân dân hoặc Ủy ban hành chính) ứng với mỗi cấp hành chính - lãnh thổ
được tổ chức và hoạt động theo các quy định của pháp luật. Chính quyền địa
phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân cấp của chính
quyền nhà nước trung ương và tổ chức thực hiện các công việc của địa
phương trong khuôn khổ pháp luật chung. Chính quyền địa phương quản lý
công việc của địa phương với sự tham gia của nhân dân địa phương, đáp ứng
nhu cầu hợp pháp của cộng đồng địa phương, phục vụ mục đích phát triển của
mỗi địa phương, góp phần vào sự phát triển chung của quốc gia.
Trước Cách mạng Tháng tám 1945, chính quyền địa phương được tổ
chức theo các đơn vị hành chính như: kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), tỉnh,



11
huyện, tổng, xã và làng. Mỗi kỳ có một số tỉnh, mỗi tỉnh có một số huyện,
mỗi huyện có một số tổng, mỗi tổng có một số xã và mỗi xã có một số làng,
có trường hợp làng với xã là một.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, tại Điều 58 Hiến pháp năm 1946 đã quy
định về chính quyền địa phương như sau:
Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu
phổ thông trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị
xã hay xã, cử ra Ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban
hành chính. Ủy ban hành chính bộ do Hội đồng nhân dân các tỉnh,
thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng nhân dân
các xã bầu ra [19, tr. 20].
Hiến pháp năm 1959, Điều 87 quy định: "Ủy ban hành chính các cấp
là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương, là cơ quan hành
chính của Nhà nước ở địa phương" [19, tr. 53].
Hiến pháp năm 1980, xác định chính quyền địa phương được tổ chức

theo ba cấp: tỉnh, huyện, xã; Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương, thay tên gọi Ủy ban hành chính bằng Ủy ban nhân dân nhưng
vẫn là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật và các
văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, chính quyền địa
phương bao gồm: chính quyền cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương), chính quyền cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và
chính quyền cấp xã (xã, phường, thị trấn). Mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ đều
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và là
cơ quan đại biểu cho nhân dân ở địa phương, do nhân dân bầu ra, chịu trách



12
nhiệm trước nhân dân và trước cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân
có hai chức năng: 1) Quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương;
2) Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính cùng cấp.
Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân có các chức năng:
1) Quản lý hành chính nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa
bàn, theo chính sách, pháp luật của Nhà nước; 2) Đảm bảo cung ứng các dịch
vụ công, đáp ứng nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người dân địa phương. Để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Ủy ban nhân dân có bộ máy các cơ
quan chuyên môn: Ở cấp tỉnh là các sở, ban, ngành; ở cấp huyện là các phòng,
ban; còn ở cấp xã là các chức danh chuyên môn.
Như vậy, chính quyền địa phương tại Việt Nam hiện nay được hiểu là
một bộ phận cấu thành hữu cơ của hệ thống chính quyền nhà nước, là bộ máy

thực thi quyền lực nhà nước ở ba cấp tỉnh, huyện, xã. Ở mỗi đơn vị hành
chính - lãnh thổ đều tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
1.1.2. Chính quyền đô thị
Mặc dù đô thị là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ lâu nhưng
hiện nay khái niệm đô thị vẫn chưa thực sự thống nhất. Sự không thống nhất
này không chỉ thể hiện giữa các quốc gia với nhau (với các cách gọi khác
nhau về đô thị như Stadt, Cité, City, Town…) mà thậm chí khái niệm, các chỉ
tiêu xác định đô thị cũng không đồng nhất ở ngay trong một nước. Việt Nam
cũng vậy, hiện nay chúng ta có nhiều từ để chỉ đô thị như thành phố, thị trấn,
thị xã, thành thị… và các khái niệm, các chỉ tiêu xác định đô thị cũng không
đồng nhất ở những thời điểm khác nhau. Theo Điều 3 Luật Quy hoạch đô thị
năm 2009, đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ
yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp; là trung tâm chính trị,
hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương.



13
Đô thị bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn; lãnh thổ của đô thị gồm nội
thành hay nội thị và ngoại ô hay ngoại thành (thị).
Mỗi đơn vị hành chính đô thị đều gắn liền với một bộ phận lãnh thổ
nhất định, được xác định bởi một ranh giới lãnh thổ nhất định, do đó còn có
khái niệm "đơn vị hành chính - lãnh thổ". Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay,
trong nội bộ đô thị còn chia ra thành các đơn vị hành chính như quận, phường
ở nội thị và huyện, xã, thị trấn ở nông thôn. Việc phân chia này chỉ có ý nghĩa
thuần túy về quản lý hành chính mà không dựa theo đặc điểm tự nhiên về địa
lý, lãnh thổ của mỗi khu vực.
Về khái niệm chính quyền đô thị, cho đến nay vẫn chưa có văn bản
pháp luật nào định nghĩa, và chính quyền đô thị ở Việt Nam bao gồm những

thiết chế nào, mối quan hệ và cơ chế hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu
thành. Thuật ngữ "chính quyền đô thị" là khái niệm phát sinh từ khái niệm "hệ
thống các cơ quan nhà nước ở địa phương". Nếu hiểu chính quyền địa phương
bao gồm Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, với ngân sách riêng, được tổ
chức ở các đơn vị hành chính lãnh thổ ở cả ba cấp: tỉnh, huyện và xã thì chính
quyền đô thị là chính quyền địa phương (chính quyền thành phố thuộc trung
ương), hoặc là một bộ phận của chính quyền địa phương (chính quyền thành
phố thuộc tỉnh; thị xã; thị trấn) thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa
bàn đô thị.
Như vậy, cần phân biệt khái niệm đô thị (thành phố, thị xã, thị trấn)
với khái niệm đơn vị hành chính đô thị (thành phố, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thị trấn, phường. Và theo đó,phân biệt chính quyền đô thị (thành phố, thị
xã, thị trấn) và chính quyền đơn vị hành chính thuộc đô thị (phường, quận)
Các loại hình đơn vị hành chính đô thị bao gồm:
- Thành phố: thường là các trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi
địa phương, mỗi vùng, mỗi khu vực lãnh thổ, là nơi có mật độ dân cư đông
đúc, sống tập trung và chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp.



14
Thành phố là nơi có trình độ phát triển kinh tế, xã hội và kết cấu hạ tầng kỹ
thuật cao hơn các loại hình khác. Căn cứ vào quy mô và tính chất đặc thù của
đô thị, thành phố được chia thành hai loại, đó là: thành phố trực thuộc TW và
thành phố thuộc tỉnh.
+ Thành phố trực thuộc Trung ương: là các trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa của cả nước hoặc của từng vùng, từng khu vực lãnh thổ của đất
nước, có quy mô lớn, dân số đông, kinh tế văn hóa phát triển cao hơn các khu
vực khác, hoặc là các thành phố có đặc thù riêng như thủ đô, hoặc có vị trí
chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng của đất nước.

+ Thành phố thuộc tỉnh, thị xã: là những đô thị tỉnh lỵ hoặc là những
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một địa phương. Trong đó, thị xã
thường là đô thị có quy mô nhỏ hơn, chậm phát triển hơn so với thành phố.
- Thị trấn: Đơn vị hành chính thị trấn có vị trí ngang với xã, đều trực
thuộc huyện và có vai trò, vị trí là đơn vị hành chính cấp cơ sở. Thị trấn là đô
thị có quy mô nhỏ, thường là trung tâm chính trị, văn hóa của một huyện;
hoặc các địa điểm tập trung dân cư, có sự phát triển cao hơn trong địa phương
về tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ
- Quận: là loại hình đơn vị hành chính nội bộ của đô thị, được tổ chức
ở khu vực nội thành của các thành phố trực thuộc Trung ương.
- Phường: cũng giống như quận, phường cũng là loại hình đơn vị hành
chính trong nội bộ đô thị, trực thuộc quận, thành phố thuộc tỉnh hoặc thị xã.
Việc phân chia đô thị thành các đơn vị hành chính quận và phường là
nhằm thực hiện các công việc quản lý hành chính nhà nước ở đô thị một cách
có hiệu quả. Tuy nhiên, đô thị chỉ nên được quản lý bởi một cấp chính quyền
hoàn chỉnh; việc bộ máy chính quyền đô thị chia thành nhiều cấp chính quyền
hoàn chỉnh và đều có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và tình trạng
mệnh lệnh quản lý từ chính quyền thành phố, thị xã xuống tới quận, phường
bị cắt khúc, triển khai chậm do trong nhiều trường hợp phải được Hội đồng



15
nhân dân cấp dưới ra nghị quyết để thực hiện, đó là chưa kể các trường hợp
không thống nhất giữa Hội đồng nhân dân với mệnh lệnh của cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên đã làm chia tách tính thống nhất đó.
Do tất cả các cấp đều thực hiện chế độ "trực thuộc hai chiều" nên tính
tập trung thống nhất trong quản lý đô thị không cao. Mọi mệnh lệnh chỉ huy
của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên đối với cơ quan
hành chính cấp dưới thường bị khuếch tán qua nhiều cơ chế dẫn đến trách

nhiệm không dứt khoát, không rõ rệt của cấp dưới đối với cấp trên và đồng
thời là sự kiểm soát không chặt chẽ của cấp trên đối với cấp dưới.
Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đều được tổ chức ở các đơn vị hành
chính lãnh thổ của cả ba cấp: tỉnh, huyện, xã và mô hình tổ chức bộ máy
chính quyền ở đô thị cũng được tổ chức tương tự.
Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường ở 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bộ máy chính quyền đô
thị ở các thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và các thị
xã, thành phố thuộc tỉnh của 7 tỉnh đã được tổ chức lại. Các đơn vị hành chính
thuộc nội thị gồm: quận, phường và đơn vị hành chính ngoại thị là huyện chỉ
có Ủy ban nhân dân.
- Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền đô thị:
Thứ nhất, quản lý nhà nước trên địa bàn lãnh thổ bao gồm:
+ Xây dựng và quản lý chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng đất đai, tài nguyên, lao động… của
địa phương.
+ Tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước trên địa bàn.
+ Kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách của
công dân, tổ chức trên địa bàn;



16
Thứ hai, chức năng tự quản của chính quyền đô thị
Là việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phục vụ nhu cầu của cộng
đồng dân cư ở đô thị, bao gồm:
+ Hướng dẫn và tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để nhân dân thực
hiện nhiệm vụ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nâng cao đời sống vật
chất, văn hóa, tinh thần, xây dựng cuộc sống mới của nhân dân;

+ Tổ chức thực hiện và mở rộng xã hội hóa dịch vụ công để cung ứng
các phúc lợi công cộng như phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, công trình phúc
lợi công cộng: y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, bảo vệ trật tự trị an, vệ sinh,
môi trường… trên địa bàn đô thị.
1.2. Tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp quận, phường
Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003,
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Ủy ban
nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm
bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Ủy ban
nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo
đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương tới cơ sở.
1.2.1. Ủy ban nhân dân quận
Hiến pháp 1959 quy định đơn vị hành chính của thành phố bao gồm
các khu phố. Có thể xem khu phố là tiền thân của quận.
Đến Hiến pháp 1980 có quy định thành phố trực thuộc trung ương
chia thành quận, huyện và thị xã. Bộ máy lãnh đạo - quản lý quận gồm có:



17
Quận ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng lãnh
đạo - quản lý hành chính nhà nước trong phạm vi lãnh thổ, quyết định và thực
hiện các biện pháp nhằm xây dựng quận toàn diện, bảo đảm phát triển kinh tế,
văn hóa, nâng cao đời sống nhân dân.
Hiện nay, quận được tổ chức tại thành phố trực thuộc Trung ương, là

đơn vị hành chính nội bộ của đô thị. Quận là bộ phận cấu thành nên thành phố
trực thuộc Trung ương và quận được chia thành các phường.
- Về cơ cấu tổ chức: Ủy ban nhân dân quận được tổ chức theo Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Nghị định số
14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 4 tháng 2 năm 2008 quy định tổ chức
các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc
tỉnh. Theo đó, cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân quận, huyện gồm:
+ Chủ tịch
+ Các phó chủ tịch phụ trách các lĩnh vực: Văn hóa xã hội; Kinh tế,
đất đai; Xây dựng, giải phóng mặt bằng.
+ Các phòng ban chuyên môn thuộc quận là cơ quan tham mưu, giúp
Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, thực
hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, góp phần đảm
bảo sự phát triển của ngành hoặc lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở. Cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân quận chịu sự quản lý về tổ chức, biên chế
và công tác của Ủy ban nhân dân quận, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, báo cáo công tác trước Ủy ban
nhân dân quận và cơ quan chuyên môn cấp trên. Hiện nay, cơ cấu tổ chức các
phòng ban chuyên môn thuộc quận gồm: 1. Văn phòng Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân; 2. Phòng Nội vụ; 3. Phòng Tư pháp; 4. Phòng Tài chính;
5. Phòng Tài nguyên môi trường; 6. Phòng Lao động thương binh và xã hội;
7. Phòng Văn hóa - thể thao; 8. Phòng Giáo dục đào tạo; 9. Phòng Y tế; 10. Thanh
tra quận; 11. Thanh tra xây dựng quận; 12. Phòng Quản lý đô thị; 13. Phòng



18
Kinh tế - Kế hoạch; 13.Trung tâm phát triển quỹ đất và quản lý duy tu hạ tầng
đô thị.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân quận được quy định

giống như Ủy ban nhân dân huyện, tại các điều từ 97 -107, Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 trên 11 lĩnh vực sau: 1. Kinh tế;
2. Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi và đất đai; 3. Công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp; 4. Xây dựng, giao thông vận tải; 5. Thương mại, dịch vụ và
du lịch; 6. Giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao; 7. Khoa
học, công nghệ, tài nguyên và môi trường; 8. Quốc phòng, an ninh và trật tự,
an toàn xã hội; 9. Thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo; 10.
Thi hành pháp luật; 11. Xây dựng chính quyền và quản lý địa giới hành chính.
Ngoài việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn như đối với Ủy ban
nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân quận, còn có thêm những nhiệm vụ, quyền
hạn riêng được quy định ở điều 109, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003.
- Phương thức làm việc của Ủy ban nhân dân thông qua các kỳ họp,
mỗi tháng họp ít nhất một lần và các quyết định của Ủy ban nhân dân phải
được quá nửa tổng số thành viên Ủy ban nhân dân biểu quyết tán thành. Theo
Điều 124, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Ủy
ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số các vấn đề sau đây:
1. Chương trình làm việc của Ủy ban nhân dân; 2. Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của
địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định; 3. Kế hoạch đầu tư, xây
dựng các công trình trọng điểm ở địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết
định; 4. Kế hoạch huy động nhân lực, tài chính để giải quyết các vấn đề cấp
bách của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định; 5. Các biện pháp
thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế - xã hội; thông qua
báo cáo của Ủy ban nhân dân trước khi trình Hội đồng nhân dân; 6. Đề án



19
thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân

dân và việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính ở địa phương.
1.2.2. Ủy ban nhân dân phường
Theo Hiến pháp 1980, thị xã chia thành phường và xã, quận chia
thành phường. Tổ chức bộ máy ở phường gồm có: Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân quản lý nhà nước ở địa phương.
Hiện nay cũng giống như quận, phường cũng là loại hình đơn vị hành
chính trong nội bộ của đô thị, được tổ chức ở thành phố, thị xã và trong các
quận. Phường tương đương xã, thị trấn.
- Về cơ cấu, tổ chức: Ủy ban nhân dân phường được tổ chức theo Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003; Nghị định số
107/2004/NĐ-CP ngày 01/4/2004 của Chính phủ quy định về số lượng Phó
chủ tịch và cơ cấu thành viên Ủy ban nhân dân các cấp; Nghị định
92/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã do Chính phủ ban hành. Theo
đó, Ủy ban nhân dân phường gồm có Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các phó Chủ
tịch, và các công chức phụ trách các lĩnh vực khác nhau gồm: Địa chính - xây
dựng; Hộ tịch - Tư pháp; Văn phòng - Thống kê; Kế toán - Tài chính, Văn
hóa - xã hội; Quân sự; Công an.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân phường được quy định
giống như Ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại các điều từ 111-118, Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 trên 7 lĩnh vực sau: 1. Kinh
tế; 2. Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi và tiểu thủ công nghiệp;
3. Xây dùng, giao thông vận tải; 4. Giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa và thể dục
thể thao; 5. Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; 6. Thực hiện chính
sách dân tộc và chính sách tôn giáo; 7. Thi hành pháp luật.



20

Ngoài ra, Ủy ban nhân dân cấp phường được quy định thêm những
nhiệm vụ và quyền hạn riêng của tại Điều 119.
- Phương thức làm việc, cũng như Ủy ban nhân dân quận, Ủy ban
nhân dân phường thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của địa
phương thông qua các kỳ họp. Ủy ban nhân dân phường họp mỗi tháng ít nhất
1 lần và thảo luận, quyết định theo đa số các vấn đề sau: 1. Quy chế làm việc,
chương trình hoạt động hàng năm và thông qua báo cáo của Ủy ban nhân dân
trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp trên. 2. Quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm và quỹ dự trữ của
ngân sách cấp mình, đầu tư, xây dựng các công trình trọng điểm, huy động
nhân lực, tài chính để giải quyết các vấn đề cấp bách của địa phương theo quy
định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp trên. 3. Các chủ
trương, biện pháp để phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa
phương và thực hiện các vấn đề khác theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cùng cấp.
- Khi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân, mô hình tổ
chức bộ máy ở chính quyền phường đã có sự thay đổi. Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân không còn tồn tại song song, tổ chức ở phường chỉ còn Ủy
ban nhân dân và Ủy ban nhân dân được xem là cơ quan hành chính nhà nước
trực thuộc Ủy ban nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo đó, chức
năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân phường chỉ là cánh tay nối dài của cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên. Hay nói các khác, Ủy ban nhân dân
phường là cơ quan chấp hành, thừa lệnh, không có thẩm quyền quyết định
những vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội ở địa bàn.
Tóm lại, về vị trí, quận, phường là những đơn vị hành chính nằm trong
nội bộ của đô thị. Trước thời điểm thực hiện thí điểm quận, phường là đơn vị
có tổ chức bộ máy chính quyền đầy đủ gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức

×