Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.08 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
«
TRẨN THỊ BÍCH
HOÀN TH IỆN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THEO YÊU
« •
CẦU XÂY DỤNG NHÀ NƯỚC PHÁP Q U YỂN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
MÃ SỐ : 60.38^01
LUẬN VẢN THẠC SỸ LUẬT HỌC
• ừ • •
NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC: TS. Trần Nho Thìn
ĐẠi HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM THÕNG TIN THƯ VIÊN
V - Lo / A3 xỉ _
Hà Nội - 2008
MỤC LỤC
Chương 1
NHẬN THỨC CHƯNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XẴ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1 Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Tây
1.2 Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Đông
1 .3 Yếu tố Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
1.4 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân
1.5 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
1.6 Khái niệm, những đặc trưng cơ bản và chức năng của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1.6.1 Khái niệm về Nhà nước pháp quyền


1.6.2 Những thành tổ (bộ phận) cẩu thành cơ bản của Nhà
nước pháp quyền
1.6.3 Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
1.7 Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Chương 2
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta
2.Ỉ.1 Quốc hội
Trang
10
10
13
15
17
22
26
26
28
35
41
47
47
47
1
2.1.2 Chính phủ
2.1.3. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân

2.1.4. Chính quyền địa phương
2.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước ta hiện nay
2.3. Phương hướng hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo yêu cầu
xây đựng Nhà nước pháp quyền
2.3.1. Những yêu cầu tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay
2.3.2. Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước
2.3.2.ỉ. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Quốc hội
23.2.2. Điều chỉnh chức năng và phương thức hoạt động của Chính
phủ; định rõ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Bộ
2.3.23. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các
cơ quan tư pháp
2.32.4. Đẩy mạnh việc phân công, phân cấp nàng cao tính chủ
động của chính quyền địa phương, đổi mói và kiện toàn tổ chức
chính quyền địa phương
2.3.3. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kết luận chung
52
55
58
60
63
63
67
67
72
76

80
82
86
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đã trải qua hơn 20 năm đổi mới với nhiều thành tựu to lớn,
đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng toàn diện về kinh tế xã hội, kinh
tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Khái quát lại những
thành tựu qua hơn 20 năm đổi mới ấy (1986 - 2006), Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng lần thứ X đã tổng kết “nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã đưa lại cho đất nước ta có một sự thay đổi cơ bản và
toàn diện, làm cho thế và lưc, uy tín quốc tế của nước ta tăng lên nhiều so với
trước .
Điều đó đã khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng
với chủ trương đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sự phát triển của kinh tế xã hội cũng
khẳng định vị trí, vai trò của sự quản lý nhà nước, vai trò của bộ máy nhà nước
tạo ra các điều kiên cho kinh tế xã hội phát triển, quản lý điều hành nền kinh
tế.
Nền kinh tế, xã hội nói chung đã thoát ra khỏi khủng hoảng và phát triển
đi lên nhưng vãn còn rất nhiểu yếu kém, hạn chế, đó là sự tụt hậu so với thế
giới và khu vực, là sự phát triển không bền vững, là các vấn đề xã hội nan giải
chưa thể giải quyết tất cả những điều ấy đòi hỏi phải được giải quyết kịp
thời. Theo đó, vừa phải thay đổi về cơ chế quản lý, về thể chế, về bộ máy quản
lý tức ở tầm vĩ mô là bộ máy quản lý nhà nước, kinh tế ngày càng phát triển
nhanh, tốc độ hội nhập và toàn cầu hoá càng sâu rộng hơn đòi hỏi bộ máy nhà
nước cần phải được tiếp tục đổi mói hoàn thiện.
Bộ máy nhà nước ta trong những năm qua đã có rất nhiều đổi mói, dần
đáp ứng được sự đòi hỏi của xã hội, quản lý điều hành đất nước, các cơ quan

nhà nước hoạt động hiệu quả hơn, cơ cấu gọn nhẹ, linh hoạt hơn. Tuy nhiên,
3
bộ máy nhà nước ta cũng bộc ỉộ nhiều yếu kém, đó là sự trì trệ của một bộ
máy quản lý hành chính, hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động chưa đồng
bộ, sự yếu kém của đội ngũ cán bộ công chức, điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp
đến sản phẩm hoạt động của bộ máy nhà nước là một nền kinh tế xã hội kém
phát triển. Trước yêu cầu ấy, phải nhanh chóng sửa đổi hoàn thiện bộ máy nhà
nước để nó đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước trong tình hình mới. Chủ
trương cải cách bộ máy nhà nước đã được Đảng ta đưa ra từ lâu, đã có nhiều
công trình nghiên cứu lý luận về sửa đổi bộ máy nhà nước, bộ máy nhà nước
cũng đang dần được bổ sung hoàn thiện. Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà
nước pháp quyền xâ hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là nhà nước đề cao pháp luật,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; là nhà nước tôn trọng và bảo đảm các
quyền tự do, đân chủ của công dân. Bộ máy nhà nước được tổ chức theo
nguyẽn tắc quyến lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công rành mạch
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền ỉập
pháp, hành pháp, tư pháp. Với những tiêu chí đó của Nhà nước pháp quyền thì
không những phải sửa bộ máy nhà nước mà còn phải hoàn thiện nó sao cho
đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp nảm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) lần đầu tiên đưa ra chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyến Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Việc
quy định xây dựng Nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp — văn bản pháp
luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, là cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động của bộ
máy nhà nước nhằm hướng đến một Nhà nước pháp quyền. Như vậy, việc sửa
đổi, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền là một yêu cầu cấp thiết.
VI những lý do trên tôi đã chọn đề tài "Hoàn thiện bộ máy nhà nước theo
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay."
4

Đề tài của tôi nhằm góp phần giải quyết vấn đề đánh giá thực trạng tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay, tìm ra một số nguyên
nhân và gợi ý một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Đây tuy không phải là một vấn đề mới vì đã có nhiều công trình nghiên
cứu về sửa đổi bộ máy nhà nước song nó vẫn mang tính cấp thiết, trên cơ sờ
các công trình nghiên cứu, tài liệu tham khảo, các báo cáo đánh giá thực tế
cùng với hiểu biết của mình, tôi hy vọng sẽ giải quyết phần nào các yêu cầu
đặt ra, tìm ra những giải pháp, phương hướng hoàn thiện bộ máy nhà nước để
đáp ứng nhiệm vụ đặt ra của luận văn và góp phẩn đưa những kiến giải đó vào
việc tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Chủ trương cải cách bộ máy nhà nước đã được Đảng ta đề xướng từ lâu
cùng với chủ trương đổi mới đất nước xây dựng nền kinh tế nhiều thành phẩn
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền
cũng được Đảng ta đề cập đến từ Đại hội VI. Do đó, đã có rất nhiều những
công trình nghiên cứu kể cả những đề tài cấp nhà nước liên quan đến việc sửa
đổi, hoàn thiện bộ máy nhà nước, về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: PGS.TS. Bùi Xuân Đức (2004) - “Đổi mới,
hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay”; PGS.TS. Lê Minh
Thông chủ biên (2001) - “Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; GS.
Nguyên Đức Bình đồng chủ biên (1999) - “Đổi mới và tăng cường hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn mới”; Chương trình khoa học xã hội cấp nhà
nước “Xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân ở Việt nam. MS 04”; Chương trình KHXH 05 “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng” và rất nhiều bài
5
viết, những chuyên khảo khác như: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung (2004) -
“Hiến pháp và bộ máy nhà nước”; PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế với nhiều bài

viết chuyên sâu về Nhà nước pháp quyền và bộ máy nhà nước trên các tạp chí
khoa học xã hội Như vậy đề tài về Nhà nước pháp quyền và hoàn thiện bộ
máy nhà nước đã có bề dày nghiên cứu của các nhà khoa học có tên tuổi với
những công trình nghiên cứu góp phần đưa ra những giải pháp phù hợp cho
công cuộc cải cách bô máy nhà nước ta. Tuy nhiên, về vấn đề hoàn thiện bộ
máy nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền thì cho đến nay
vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu mang tính chuyên sâu và có hệ
thống. Vì lý do đó đã thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận vẻ Nhà nước pháp quyền, luận văn
làm rõ những nhận thức khái quát về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa để từ đó có một cái nhìn tổng quát về Nhà nước pháp
quyền mà chúng ta đang xây dựng và những yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền làm cơ sở lý luận cho những kiến giải của luận văn.
Từ thực tế những số liệu, tài liệu tổng kết, báo cáo của các cơ quan nhà
nước, luận văn có nhiệm vụ đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước ta hiện nay, những thành tựu; điểm mạnh của hệ thống các cơ
quan trong bộ máy nhà nưóc và những hạn chế; yếu kém còn tổn tại trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nưóc ta, tìm ra nguyên nhân của những tồn
tại đó. Từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục sửa đổi,
hoàn thiộn bộ máy nhà nước để đáp ứng nhiệm vụ chính trị của đất nước trong
giai đoạn mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
6
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bộ máy nhà nước là một lĩnh vực khá rộng ỉón và liên quan đến nhiều
vấn đề, có sự nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Dưới góc độ
của khoa học luật, trong khuôn khổ của luận văn này, tập trung nghiên cứu
những quan điểm của, các nhà luật học về tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước trong đó đặc biệt chú trọng đến những điểm mạnh, hạn chế của các

cơ quan trong bộ máy nhà nước về tổ chức và hoạt động; đánh giá nguyên
nhân và tìm ra các phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện. Nhưng việc
đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước lại trong bối cảnh, điều kiện xây đựng
Nhà nước pháp quyền, nên ngoài việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhằ nước, luận văn còn tìm hiểu, nghiên cứu nhận thức về Nhà nước
pháp quyền, những quan điểm của các nhà khoa học hiện nay về Nhà nước
pháp quyền, những tiêu chí, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đối với bộ máy
nhà nước, bản chất của Nhà nưóe pháp quyền, chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước pháp quyền, các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Như vậy, luận
văn mới đảm bảo tính khoa học, khái quát tổng thể.
5. Cơ sở khoa học của đề tài
* Cơ sở lý luận của đề tài
Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước, bộ máy nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa và
các quan điểm, đường lối hiện nay của Đảng ta về việc đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
* Cơ sở thực tiễn
Đó chính là thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện
nay, trên cơ sở các báo cáo tổng kết của các cơ quan chuyên môn, các số liệu
thống kê, luận văn đánh giá những thành tựu và hạn chế trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, đưa ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện bộ máy
7
nhà nước trong thời gian tới. Liên quan đến vấn đề này, iuận văn có tham khảo
một số kinh nghiệm tổ chức bộ máy nhà nước của một số nước trên thế giới để
làm phong phú hơn nguồn tư liệu, cũng làm thực tế sinh động hơn của luận
văn và quan trọng hơn là để học hỏi nhõng giải pháp, kinh nghiệm của các
nước, áp dụng những hạt nhân hợp lý vào tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước ta.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp phân tích,

phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê xã hội
học để đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ
những số liệu thực tế, báo cáo tổng kết của các cơ quan nhà nước.
Luận văn cũng dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lê
nin để nghiên cứu vấn đề.
7. Những điểm mới của luận văn
Mặc dù không phải là những kiến giải lần đầu tiên được công bố nhưng
những phương hướng, giải pháp mà luận văn đưa ra là kết quả của sự tổng hợp
các nghiên cứu vể việc đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước đó là:
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Quốc hội.
Điều chỉnh chức năng và phương thức hoạt động của Chính phủ; định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ.
Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp.
Đẩy mạnh việc phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính
quyền địa phương, đổi mới và kiện toàn tổ chức chính quyền địa phương.
8
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục những tài liệu trích dẫn và tài
liệu tham khảo, luận văn được bố cục thành 2 chương:
Chương 1 : Nhận thức chung về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ơiương 2: Phương hướng hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
9
CHƯƠNG Ị
NHẬN THỨC CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưửng phương Tây

Nhà nước pháp quyền lúc đầu như một ý tưởng, ý niệm sau dần dần hình
thành và phát triển thành một học thuyết và được vận dụng, làm phong phú
hơn trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Học
thuyết cũng như thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền là một trong những
giá trị chung mang tính phổ biến mà nhân loại đã tích luỹ được trong quá
trinh lịch sử lâu dài và gian khổ nhằm hướng tới một xã hội công bằng, dân
chù, binh đẳng, bác ái và một cuộc sổng ấm no, tự do, hạnh phúc.
Ý tưởng về một Nhà nước pháp quyền ỉà hình thức tổ chức quyền lực
nhà nước trong đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà nước và pháp luật ra đời từ
rất sớm, ngay từ thời kỳ cổ đại. Biểu tượng thần công lý: Nữ thần che mắt
bằng vải đen, một tay cầm kiếm, một tay cầm cán cân công lý tượng trưng
cho sự thống nhất giữa sức mạnh và quyền lực của pháp iuật, sự bình đẳng
của mọi thành viên trong một xã hội có nhà nước. Biểu tượng thể hiện khát
vọng của nhân dân về sự công bằng, bình đẳng, về sự trông chờ vào nữ thần -
quan toà công minh, bảo vệ cho họ trước mọi bạo lực cường quyền.
Biểu tượng nữ thần xét xử, theo quan niệm của người cổ đại không chì là
biểu tượng về Toà án công bằng mà còn là biểu tượng về một chế độ nhà
nước công bằng nói chung. Tư pháp được coi là sự phán xét dựa trên cơ sở
pháp luật, không chỉ đối với những tranh chấp được xem xét tại Toà án, trước
mặt quan toà, mà còn đối với mọi công việc của đời sổng được tổ chức thành
nhà nước.Từ thời cổ đại, người ta đã rất đề cao vai trò của pháp luật, chú
trọng tới mối quan hệ giữa quyền iực và pháp luật. Xôlông (Thế kỷ VI trước
10
Công nguyên) đã áp dụng tư tường kết họp sức mạnh với pháp luật trong việc
tổ chức nhà nước Ai Cập trên những nguyên tắc dân chủ. Sau này đến Arixtôt
- cha đẻ của khoa học chính trị cổ đại thi nhấn mạnh ràng nơi nào không có
sức mạnh của pháp luật thì nơi đó không có hình thức chế độ nhà nước. Như
vậy là ông đã đề cao tính tối cao của pháp luật trong một nhà nước.
Các nhà tư tưởng thời cổ đại không chỉ chú trọng tới tính tối cao của
pháp luật mà còn chú ý tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực nhà

nước, tổ chức các cơ quan nhà nước, sự phân định rõ ràng thẩm quyền của các
cơ quan đó. Hai nội dung này có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, nếu không có
sự tổ chức quyền lực nhà nước, không có sự phân định rõ ràng về nhiệm vụ,
chức năng, quyền hạn của các cơ quan quyền lực nhà nước, không có quy
định trật tự nhất định trong mối quan hệ giữa các cơ quan đó thì không thể
bảo đảm được tính tối cao của luật và ỉẽ đương nhiên không thể có Nhà nước
pháp quyền. Mặt khác, tổ chức hệ thống quyền lực của Nhà nước pháp quyền
không thể tồn tại được nếu nó không phù hợp với pháp luật, nếu không được
tuân thủ.
Quan niệm của các tác giả Hy Lạp cổ đại về mối liên hệ lẫn nhau giữa
Nhà nước và pháp luật, chính trị và luật được Xixêrông - Nhà tư tưởng La Mã
cổ đại phát triển và diễn đạt về nhà nước như một cộng đồng pháp luật công
cộng. Theo ông "Nhân dân không phải là sự tập hợp bất kỳ nào của nhiều
người, tập trung lại với nhau theo kiểu nào đó mà là sự tập hợp của nhiều
người gắn bó với nhau bằng sự thống nhất về pháp luật và lợi ích chung"(65,
tr. 8). Nghĩa là Xixêrông coi pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ, tổ chức nhà
nước, pháp luật được hiểu là pháp luật tự nhiên, có trước nhà nước và luật
thành văn, luật nhà nước phải đáp ứng đòi hỏi của luật tự nhiên.
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển và hoàn thiện cùng
với các cuộc cách mạng tư sản đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến ở Tây Âu.
11
Trong sự phát triển về lịch sử và lý luận cùa những quan niệm mới về Nhà
nước pháp quyền vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản,
điều có ý nghĩa quan trọng là những vấn đề về quyền lực chính trị dưới hình
thức phân quyền phù hợp với tương quan mới của các lực lượng chính trị xã
hội, giai cấp, loại trừ khả năng độc quyền hoá quyền lực trong tay một người,
một cơ quan.
Giai cấp tư sản mới rất coi trọng tính tối cao của luật trong việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Các công trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền
đều ghi nhận công lao vĩ đại của John-Lock, Rút xô, Monteskiữ - những

người đã đặt nền móng vững chắc cho Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Theo John-Lock, nhà tư tưởng người Anh thế kỷ thứ XVII, luật có tính
tối cao và phải phù hợp với pháp luật tự nhiên, công nhận các quyền tự nhiên
và tự đo cá nhân, phải thực sự phân quyền. Ông cho ràng nguyên tắc "cho
phép làm tất cả những gì mà luật không cấm" được áp dụng với công dân, còn
nguyên tắc "chỉ được làm những gì mà luật cho phép" được thực hiện đổi với
những người nắm giữ quyền lực. Các quan niệm về phân quyền được thể hiện
đầy đủ trong các tư tưởng của Monteskiơ người Pháp, thế kỷ XVIII. Theo ông
ở mỗi nhà nước đều có ba loại quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Để tránh
lạm quyền, ba quyền đó cần nằm trong tay ba cơ quan khác nhau, có khả năng
kiềm chế lẫn nhau. Đỏ là điều kiện để đảm bảo cho tự do của công dân.
Các tư tưởng về phân quyền của J.Lock và Monteskiơ đã ảnh hường rõ
nét trong Hiến pháp Mỹ.
Sau này các nhà tư tưởng khác như Kant cũng đồng tình với tư tưởng
phân quyền. Đối với Kant trong Nhà nước pháp quyền cần phân biệt pháp luật
với đạo đức, nghĩa vụ pháp lý với trách nhiệm của người hảo tâm, nhà nước
với tính cách là một cộng đồng pháp luật với nhà Thờ như một cộng đồng đạo
đức (65, tr.12). Ngay trong tư tường cùa các nhà tư tường theo phái duy tâm
12
như Hêgeỉ cũng có những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền. Theo Hêgel,
pháp luật là tư tưởng tự do, còn nhà nước cũng chính là pháp iuật, pháp luật
cụ thể, có nội dung phong phú và là toàn bộ hệ thống pháp luật, một hệ thống
bao hàm việc thừa nhận mọi quyền khác - quyền của cá nhân, của gia đình và
của xã hội. Ông đặt nhà nước lên trên hết, trên cả xã hội và trên cả nhân đồng
thời ông cũng đề cao tính tối cao của luật vì luật của nhà nước chính là sự thể
hiện cụ thể của pháp ỉuật tự nhiên. Tư tưởng của Hêgel về Nhà nước pháp
quyền chống lại sự lạm quyền, chuyên chế, chống mọi sự dùng bạo lực phi
pháp. Tuy nhiên, thuật ngữ Nhà nước pháp quyền chỉ xuất hiện đầu tiên ở
Đức vào đầu thế kỷ XIX, bởi một sổ luật gia R.Mohn, Cacteodo, Vain-ke.
Theo họ, tiêu chuẩn quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền là tính tối cao

của luật.
1.2. Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Đông
Bàn về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Đông, hiện
nay còn có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng chưa có tư
tưởng về Nhà nước pháp quyền ở phương Đông cổ đại. Tuy nhiên, đa số các
học giả cho rằng Ịịch sử tư tưởng về Nhà nước pháp quyền không chỉ có thể
tìm thấy ở các nhà tư tưởng phương Tây trong lịch sử mà còn thấy ở phương
Đông, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam.
Phương Đông là sự khởi đầu của nền văn minh nhân loại, các nền vãn
minh ở phương Đông xuất hiện rất sớm và phát triển rực rỡ. Từ thời cổ đại,
con người phương Đông đã sớm nhận thức được giá trị của sức mạnh cộng
đồng và ý thức đỏ đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình tạo dựng nhà nước.
Ngay từ khi có nhà nước, người phương Đông đã nhìn thấy nguy cơ lạm
quyền và thèm khát quyền lực của những người cầm quyền, các nhà tư tưởng
và chính trị phương Đông đã bắt đầu tìm kiếm phương thức quản lý xã hội có
13
hiệu quả hơn, đó là tư tưởng Đức trị và Pháp trị, đặc biệt nổi bật ở Nhà nước
Trung Hoa cổ đại.
Khổng Tử, nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc cổ đại, đại diện cho phái
Nho giáo đã xây dựng học thuyết Đức trị sau này được Mạnh Tử, Tuân Tử,
Đổng Trọng Thư và các học trò khác bổ sung hoàn chỉnh. Phái Nho giáo chủ
trương lấy nhân trị và iễ trị dể trị quốc và quản iý xã hội, đề cao các quy phạm
đạo đức để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội, thiết lập tôn ty, đẳng cấp
trong xã hội, đề cao Hoàng đế.
Sau này đến Mạnh Tử, Tuân Tử, Nho giáo chủ trương kết hợp lễ với luật
để trị nước. Tuân Tử cho rằng pháp luật là để ngăn cấm điều bạo ngược, ghét
bỏ điều ác và ngăn chặn điều xấu. Đối với người tốt thì dùng lễ, đổi với người
xấu thì dùng luật.
Đổi lập với thuyết Đức trị của Khổng Tử, thuyết Pháp trị là học thuyết
của phái Pháp gia mà đại biểu là Quản Trọng, Tử Sản, Thương Ưcmg và đặc

biệt là Hàn Phi Tử phát triển và hoàn chỉnh tư tưởng pháp trị. Quản Trộng và
Tử Sản chủ trương đùng pháp luật làm công cụ cơ bản để cai trị đất nước và
đề ra nguyên tắc "pháp bất ly thân"(59, tr.24), bất cứ ai đều phải tuân thủ pháp
luật. Pháp luật ban ra phải cẩn trọng và ít thay đổi, pháp luật của vua phải
rành mạch về luật - hình - chính. Đây là luận điểm của phái pháp trị chổng lại
phái đức trị chủ trương "hình phạt chỉ dành cho hạng thứ dân mà bậc trượng
phu không phải chịu hình phạt"(67, tr.17). Đến Hàn Phi (280 - 233 trước CN)
là người phát triển tư tưởng pháp trị lên đỉnh, cao, nội dung chủ yếu của tư
tưởng này là lấy pháp luật thay cho lễ làm công cụ trị nước, an dân. Vua trị
nước phải có ba yếu tố là pháp, thế và thuật và khi vua có đủ ba yếu tố này thì
vua phải chuyên quyền, độc đoán, thẳng tay dùng nghiêm hình phạt để cai trị.
Theo Hàn Phi Tử hình phạt không trừ bậc đại phu "pháp luật không a đua quý
tộc, pháp luật đặt ra thì người có tiền cũng không tránh được, hình phạt không
14
tránh quan đại thần. Khen thưởng không bỏ rơi kè thường dân"(18, tr.40). Tuy
nhiên, Hàn Phi chưa có quan điểm rõ ràng về bản chất của pháp luật, luật của
Hàn Phi chính là "phép tác cùa tiên vương”, nhà vua trị nước bằng pháp luật
chính là bằng những quy định do chính nhà vua ban ra. Luật theo Hàn Phi là
chuẩn mực, là thước đo việc làm của quan, của dân và kể cả của vua. Nhưng
chuẩn mực của luật là cái gì thì Hàn Phi lại không nói tới. Hàn Phi thiên về
chức năng trừng phạt của pháp luật.
Như vậy, Hàn Phi không đùng thuật ngữ "Nhà nước pháp quyền" nhưng
về cơ bản ông cỏ tư tưởng về sự ngự trị, thống trị của pháp luật - một trong
những yếu tố của Nhà nước pháp quyền ngày nay.
Mặc dù, các yéu tố của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng
phương Đông còn tản mạn, khồng rd ràng, chưa tập trung thành một học
thuyết, tư tưởng, nhưng trong tư tưởng của các nhà tư tưởng, chính trị phương
Đông cổ đại vẫn có những nhân tố của Nhà nước pháp quyền. Đó chính là tư
tưởng dùng pháp luật để cai trị đất nước, pháp luật phải nghiêm minh, không
phân biệt quan dân, sang hèn; tư tưởng kết hợp giữa pháp luật và đạo đức

trong việc quản lý xã hội
1.3. Yếu tố Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưỏrng Việt Nam
Trong lịch sử Việt Nam cũng đã có những biểu hiện của tư tưởng đề cao
tính tối cao của pháp luật, đặc biệt là giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XIV đến giữa
thế kỷ XVIII.
Thời Lý - Trần (Thế kỷ XII - XIV), các đời vua đã coi trọng tới việc
dùng pháp luật để trị nước. Thời kỳ này, nhà Trần đã ban hành Bộ luật Hình
thư để quản lý xã hội. Từ thế kỷ XV, nhất là từ triều đại Lê Thánh Tông, Nho
giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị của các triều đại
phong kiến. Các quan điểm của Nho giáo về quyền lực nhà nước, cậch tổ
15
chức bộ máy nhà nước, phương thức cai trị, công cụ quản lý xã hội như "tôn
thần quyền", "quân chủ thần quyền", "nhân trị", "lễ trị", được tiếp thu nhằm
xây dựng bộ máy nhà nước bào đảm tập trung quyền lực vào nhà vua, xây
dựng nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh.
Việc ban hành pháp luật thời kỳ này được xúc tiến mạnh, thể hiện các
vua phong kiến Việt Nam rất quan tâm tới pháp luật. Thời Lê đã ban hành Bộ
iuật Hồng Đức có nhiều giá trị tiến bộ.
Bên cạnh quyền lực tuyệt đối của nhà vua, trong các triều đại phong kiến
Việt Nam đã xuất hiện cơ chể hạn chế vương quyền hay còn cỏ thể gọi là
“hạn chế quyền lực tuyệt đối” được đánh giá là những nhân tố của Nhà nước
pháp quyền. Cụ thể:
- Đã hình thành nên một cơ chế kiểm soát, hạn chế sự lạm dụng quyền
lực như: Lập ra các tổ chức có nhiệm vụ can gián nhà vua và xem xét các
quan đại thần có lỗi. Giữa các chức quan và các cơ quan có cơ chế giám sát
ỉẫn nhau;
- Triều đình phong kiến có các biện pháp kiểm soát hoạt động hành
chính, đặc biệt là các biện pháp kiểm soát của triều đình đối với các làng xâ
khá phong phú;
- Đặt ra chế độ tuyển dụng quan lại là cơ chế phát hiện nhân tài công

bằng và dân chủ hình thành một đội ngũ quan lại có nhiều tài năng, hiểu biết,
có đức, ích nước và lợi dân;
- Cùng với sự ra đời của nhà nước, pháp luật Việt Nam ra đời từ rất
sớm, đây là nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành và
phát triển Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Như vậy, từ thời phong kiến ở nước ta đã có những nhân tố của Nhà
nước pháp quyền mà cho đến ngày nay nó vẫn có những giá trị nhất định.
16
Vào thời cận đại, Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) là một học giả có
những tư tường tiến bộ, cách tân. Ông cho rằng, nói đến phép trị nước là phải
nói đến dùng pháp luật để duy trì trật tự. Luật pháp phải hợp với lòng người,
lòng trời. Muốn vậy, pháp luật không nên cưỡng ép mà phải xét đến những
yểu tổ ở trọng tâm, tức là được xây dựng trên cơ sở tự đo và công bằng. Quan
điểm của Nguyễn Trường Tộ ở một mức độ nhất định đã cố những dấu hiệu
tư tưởng về một Nhà nước pháp quyền: “Pháp luật không phâi là sản phẩm
của sự duy ý chí, tuỳ tiện, một khi pháp luật đã ban hành thì phải thực hiện
nguyên tắc mọi người (kể cả vua) đều phải bình đẳng trước pháp iuật”(67,
tr.21 )
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân.
1.4.1. Tư tưởng về một nhà nước của nhân dân, do nhân dần, vì nhân
dân với một nền dân chủ triệt để
Xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chỉ Minh. Nhà nước pháp
quyền Việt Nam là kết tinh của khối đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là công
- nông - trí thức. Tất cả mọi người Việt Nam, không phân biệt gái, trai, giàu,
nghèo, nòi giống, dân tộc, giai cấp, tôn giáo đều là người chủ của Nhà nước,
có trách nhiệm xây dựng nhà nước. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nước ta là
nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của đân"(26, tr.698).

Ngay từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ trước, với tư cách là một
nhà cách mạng dân chủ, Hồ Chí Minh không những theo đuổi mà thực sự là
một chiến sỹ đấu tranh cho một kiểu chính quyền theo tinh thần hiến tộ, pháp
quyền. Trong "Bản yêu sách cùa nhân dân An Nam'', Nguyễn Ải Quốc đã đề
ra yêu sách "thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật". Điều này có
17
ý nghĩa quan trọng, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một phương diện hết sức cơ
bản của đời sống pháp luật, của một nước, của một quốc gia: Đó là dân chủ
hoá hoạt động lập pháp, thay thế chế độ độc tài, cực quyền của một cá nhân
hoặc một nhóm người dùng sắc lệnh để cai trị đất nước bằng một chế độ đại
nghị - đân cử có quyền ban hành ra các đạo luật làm nền, khung pháp lý cho
quản ỉý, điều hành hoạt động nhà nước đối vởi xã hội.
1.4.2. Tư tưởng về một nhà nưởc hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý
xã hội theo pháp luật.
Tư tường về một Nhà nước pháp quyền dân chủ được Hồ Chí Minh thể
hiện ngay trong bài diễn ca bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”:
“ xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (24, tr.438)
Đến năm 1926, trong yêu sách gửi Hội Vạn Quốc, Nguyễn Ái Quốc lại
đề ra yêu sách:
“Nếu được độc lập ngay thì nước chúng tôi:
1

2

3. xếp đặt một nền hiến pháp theo những lý tường dân quyền”.
Và trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Hồ
Chí Minh đã đề nghị Chính phủ nhanh chóng thực hiện hai việc quan trọng là
tổ chức tuyển cử và ban hành Hiến pháp. Chỉ mười bốn tháng sau ngày Tuyên
ngôn độc lập, bản Hiến pháp dân chủ đã được ban hành - một bản Hiến pháp

dân chủ đầu tiên ở Đông Nam châu Ả.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp iuật là của nhân dân và để phục vụ
nhân dân. Mọi quyền hạn công lý đều là nơi dân, pháp luật đối với nhà nước
ta phải là công cụ để duy trì và bảo vệ sự bình đẳng: Bình đẳng dân tộc, bình
đẳng giai cấp, bình đẳng nam nữ, bình đẳng xã hội. Nói tóm lại, tư tưởng của
18
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật thể hiện trong chính thực tiễn chỉ đạo
hoạt động của bộ máy nhà nước, đó là tư tưởng đề cao pháp luật và một nền
pháp luật dân chủ, tiến bộ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
1.4.3. Tư tưởng về một nền pháp luật dân chủ, bảo đàm quyền con người,
qưyền công dân trên thực tế.
Những tư tưởng công bằng, độc lập, tự do, chân chính luôn luôn là
những lý tưởng thể hiện bản chất của pháp iuật. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm về pháp luật như vậy, trách nhiệm của Nhà nước là tạo cho nhân dân lựa
chọn hành vi của mình sao cho phù hợp với lẽ phải, bảo đảm công bằng, tự
do, trật tự. Nhà nước phải đưa nên thành luật những ý chỉ, những yêu cầu đó
cùa nhân dân, pháp luật đối với nhà nước ta phải là công cụ để duy trì và bảo
vệ sự bình đẳng, bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải Một nhà nước với việc sử
dụng pháp luật như vậy là nhà nước thực sự của nhân dân, có kỷ cương, bình
đẳng, công bằng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực mạnh là nhà
nước quản lý đất nước theo pháp luật và ỉàm cho pháp luật có hiệu ỉực trong
thực tế. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được tôn trọng và phải được
thể chế hoá bằng pháp luật, pháp luật càng chặt chẽ thì quyền của công dân
càng được bảo đảm.
Không chỉ dừng lại ở việc ban hành pháp luật, Hồ Chí Minh còn rất chú
trọng tới công tác tuyên truyền pháp ỉuật, đưa pháp luật vào cuộc sổng, tạo ra
cơ chế cho pháp ỉuật được thi hành, đồng thời tạo ra cơ chế kiểm tra, giám sát
thi hành pháp luật trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Người coi
giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân là một việc làm kiên trì và lâu dài.

Công dân hiểu được pháp luật, hiểu được tinh thần và nội dung của pháp luật
để tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, để rồi tự bảo vệ quyền của mình,
đó là một yêu cầu quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
19
ỉ.4.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước có hiệu lực mạnh mẽ, có
sự phân công và phối hợp giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài cũng như sự
nghiệp lãnh đạo đất nước của Người sau này, Người đã am hiểu về cách thức
tổ chức nhà nước, chế độ chính trị của các nước Âu, Mỹ như chế độ tổng
thống của nước Mỹ, chế độ lưỡng tính của nước Pháp hoặc chế độ cộng hoà
đại nghị của nước Anh. Nhưng Người đã không rập khuôn máy móc các kiểu
tổ chức nhà nước đó mà Hồ Chí Minh đã áp dụng những kinh nghiệm tổ chức
nhà nước của các quốc gia tiên tiến trên thế giới, kết hợp với truyền thống văn
hoả của đất nước để lập ra bộ máy nhà nước ta. Trước hết đỏ là nguyên tắc về
quyền lực thống nhất, nhưng có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, có sự linh
hoạt mềm dẻo.
Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta được biên soạn
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh đã đưa ra nguyên tắc "tất cả quyền
bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam"(67, tr.90). Vì vậy, sau
khi giành chính quyền, việc bầu cử trực tiếp rộng rãi vảo Nghị viện nhân dân
đã được tiến hành. Nghị viện nhân đân mà sau này là Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất nắm những quyền lập hiến, lập pháp, quyết định
những vấn đề quan trọng nhất của đất nước.
Quyền lực tập trung còn thể hiện ở cách thức tổ chức bộ máy hành pháp.
Chính phủ bao gồm cả Chủ tịch nước và Nội các. Chủ tịch nước đồng thời là
Chủ tịch Chính phủ. Đối với bộ máy tư pháp, Hồ Chí Minh đã rất chú trọng,
quan tâm, Người xem hệ thống Toà án ngay từ đầu là một cơ quan trọng yếu
của chính quyền. Các nguyên tắc cơ bản của một nền tư pháp dân chủ được
khẳng định đó là: Độc lập với cơ quan hành chính về mặt tổ chức, xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật Hồ Chí Minh thường nhắc nhở "Việc gì cũng
20
phải công bình chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán" (25,
tr.337). Đây là di sàn vô cùng quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền tàng
của tư tưởng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
J.4.5. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh gắn liền với
củng cổ đạo đức truyền thống của dân tộc.
Có thể nói rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành toàn bộ tinh lực và trí
tuệ, dày công xây dựng một chế độ nhà nước theo những phương châm thể
hiện tốt nhất bản chất nhân dân của chế độ ta, Người không chỉ đề cao pháp
luật mà còn chú trọng củng cố đạo đức truyền thống của dân tộc,
Quan niệm của Hồ Chí Minh về kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền, đạo đức cao nhất ỉà thực hiện cái gì có lợi cho dân đó
là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước. Do vậy, khi sắp xếp tổ chức, cải cách bộ máy nhà nước, đề ra chính
sách ban hành pháp iuật, không thể chỉ lấy một tiêu chuẩn nào đó để làm
trọng tâm mà phải toàn diện để xem cái gì có lợi cho dân hơn trong những
phương án tổ chức hoặc chính sách pháp luật ấy.
Đạo đức cao nhất mà Hồ Chí Minh nêu ra là trung với nước, hiếu với
dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh luôn đề cao sự gương
mẫu, đạo đức cùa cán bộ, Đảng viên, bởi vì chấp hành pháp luật chính là đã
thực hiện tất cả những chuẩn mực đạo đức đã được ghi nhận và đưa lên thành
pháp luật.
1.4.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lănh đạo của Đảng Cộng sản đổi với
nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là nguyên tắc được
thực hiện xuyên suốt trong mọi thời kỳ của thực tiễn cách mạng và hoạt động
của nhà nước ta. Đây là điều mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
21

Đảng Cộng sản không chỉ lãnh đạo chính quyền mà còn iãnh đạo toàn bộ hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề Đảng cầm
quyền hoặc nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền. Người quan niệm,
Đảng không bao biện và làm thay nhà nước và lúc sinh thời là người đảm
nhận cả hai chức danh Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước nhưng người thực
hiện hai chức danh này một cách rành mạch. Người luôn rèn luyện, uốn nắn
các Đảng viên nhận thức rõ về vai trò lãnh đạo của Đảng và đề cao phẩm chất
của Đảng viên. Người coi Đảng lãnh đạo là nhân tố không thể thiếu được của
cách mạng Việt Nam.
1.5. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong các văn kiện của Đảng Cộng
sản Việt Nam thể hiện quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể
và toàn diện hơn của Đảng ta về tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử
nhân loại cũng như vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay.
Quá trỉnh nhận thức đó được thể hiện trong các văn kiện có tính chất
điểm mốc dưới đây:
- Giai đoạn trước Đại hội Đảng lần thử vu.
Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền được manh nha từ Đại hội
VI, với chủ trương thực hiện "cải cách lớn" về bộ máy nhà nước theo hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ sau Đại hội Vỉ, trong các văn kiện của
Đảng đã phản ánh quá trình nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn, cụ thể và
toàn diện về các giá trị tiển bộ, nhân văn của tư tưởng Nhà nước pháp quyền
trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Đồng thời cũng nhận thức sâu sắc hơn quan
22
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Giai đoạn từ Đại hội Đảng lần thứ VII đến Đại hội Đảng lần thứ X

(2006).
Giai đoạn từ 1991 - 2006 là giai đoạn đất nước ta đạt được nhiều thành
tựu về các mặt. Các tiền đề kinh tế, chính trị, tư tường, xã hội và quốc tế đã
thúc đẩy sự nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về những tư tưởng, quan điểm
về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã chủ động,
tích cực nghiên cứu, tìm tòi xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội
chù nghĩa phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam. Đảng ta đã tiếp
cận dần đến nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở những điểm chủ
yếu sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền là mục tiêu cần hướng tới của xã
hội văn minh, nó gắn liền với quyền dân chủ của công dân;
Hai ỉà, tư tưởng, quan điểm về Nhà nước pháp quyền rất đa dạng, song
đều thống nhất ở những đặc trưng cơ bản như: Hiến pháp và pháp luật giữ vị
trí tối thượng; bộ máy nhà nước chịu sự ràng buộc của chính pháp luật do nhà
nước đặt ra, trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân; phân công và
kiểm soát giữa các nhánh quyền lực ;
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xà hội chủ nghĩa Việt Nam với
quan niệm đó không phải là một kiểu nhà nước tương ứng với một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định, cũng không phải là một hình thức nhà nước theo
quan niệm truyền thổng. Nhà nước pháp quyền là một phương thửc tổ chức
thực hiện quyền lực, bảo đảm tẩt cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Như vậy, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã có bước phát
triển rõ nét và toàn diện. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trờ
thành chủ trương có tầm chiến lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của
23
nhà nước, trở thành định hướng cho toàn bộ quá trình và nội đung đổi mới tổ
chức, hoạt động của nhà nước ta.
Qua các Nghị quyết cùa Đảng ta trong hơn 10 năm từ 1991 - 2006, có
thể thấy rõ quan điểm cơ bản trong quá trình xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà
nước, đó là:

1. Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của đân, đo dân và vì dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi
ích của Tổ quốc và của nhân dân;
2. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối họp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp;
3. Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt, động
của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
4. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam; quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa;
5. l ăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Khái quát lý luận của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn từ 1991 đến nay, có thể rút ra những
điểm chù yếu sau đây:
Thứ nhất, Đảng ta luôn khẳng định bản chất của nhà nước ta là nhà nước
của nhân dân, đo nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc
về nhân dân. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, nhận thức về bản chất
nhà nước toàn diện và sâu sắc hơn;
24

×