ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ XUÂN BÌNH
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP QUYỀN
MÃ SỐ: 50501
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LUẬT
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ XUÂN BÌNH
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Lý luận nhà nước và pháp quyền
Mã số: 50501
Luận văn: Thạc sỹ khoa học Luật
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Phạm Tuấn Khải
HÀ NỘI - 2004
Mục lục
Trang
Phần mở đầu
1
Chương I: Một số vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính
1.1 Sự cần thiết thành lập Toà án hành chính ở Việt nam
6
1.2 Khái niệm vụ án hành chính
11
1.3 Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
19
1.4 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp trong giải quyết vụ án
hành chính
26
1.5 Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hành chính
31
1.6 Trình tự thủ tục giải quyết vụ án hành chính tại toà án nhân dân
34
Chương II: Thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính
2.1 Thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
hiện hành
48
2.1.1 Những ưu điểm của pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính
48
2.1.2 Những bất cập của pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính
50
2.2 Thực tiễn giải quyết vụ án hành chính tại toà án trong thời gian
qua
69
2.2.1 Những kết quả đạt được trong qiải quyết các vụ án hành chính
69
2.2.2 Một số vướng mắc trong xét xử vụ án hành chính tại toà án nhân
dân
74
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
3.1 Một số nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính
86
3.1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính phù hợp công cuộc cải cách hành chính nhà nước và cải
cách tư pháp hiện nay
86
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
trên nguyên tắc củng cố và mở rộng nền dân chủ XHCN
88
3.1.3 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp luật về thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống
89
pháp luật
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện
93
3.2.1 Hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật
93
3.2.2 Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của toà án
về giải quyết khiếu kiện hành chính
95
3.2.3 Hoàn thiện các quy định về trình tự , thủ tục tố tụng hành chính
cho phù hợp với đặc điểm của vụ án hành chính.
102
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyền khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân, được quy định
trong Hiến pháp Việt Nam [13]. Từ trước đến nay, việc giải quyết kịp thời và
hiệu quả các khiếu nại tố cáo của công dân luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm và coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thể hiện bản
chất tốt đẹp của Nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện
trách nhiệm của cơ quan nhà nước trước công dân. Từ trước khi Toà án hành
chính được thành lập, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được giao cho các cơ
quan hành chính nhà nước. Cho đến năm 1996, với việc thành lập Toà án
hành chính, thì ngoài việc khiếu nại tại các cơ quan hành chính nhà nước,
công dân còn có quyền khởi kiện một quyết định hành chính, hành vi hành
chính ra toà án để yêu cầu giải quyết.
Sau khi Toà án hành chính đi vào hoạt động 1.7.1996, số vụ kiện đưa
đến Toà hành chính tương đối lớn và tăng nhanh qua từng năm. Tính đến
nay, Toà án nhân dân đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ. Việc giải quyết
vụ án hành chính trong thời gian qua đã có những kết quả tích cực. Nhiều vụ
kiện phức tạp đã được giải quyết dứt điểm, thấu tình đạt lý, có ảnh hưởng tích
cực trong dư luận.
Việc giải quyết các vụ án hành chính đã thúc đẩy tinh thần trách
nhiệm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương của các cơ quan hành chính nhà nước,
nâng cao trách nhiệm của cán bộ công chức trong thi hành công vụ, bảo vệ
được quyền lợi hợp pháp cho nhân dân. Và điều quan trọng là, tạo được niềm
tin, đồng thời cũng nâng cao được ý thức pháp luật của các chủ thể trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là, các công chức nhà nước, cơ
quan, tổ chức đại diện cho quyền lực nhà nước, khi có những hành vi, quyết
định bất hợp pháp, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
đều bị đưa ra xét xử và phải chịu phán quyết của cơ quan có thẩm quyền.
2
Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ án hành chính trong thời gian qua còn
nhiều hạn chế và bất cập. Số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo ngày càng tăng.
Số đơn khởi kiện ra toà rất lớn. Trong khi đó, số án hành chính được thụ lý
và số án hành chính được đem ra xét xử chiếm một tỷ lệ nhỏ, không phản ánh
đúng thực tiễn khiếu kiện của công dân.
Một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng của tình hình trên
đây đó là những vướng mắc, hạn chế ngay trong các quy định pháp luật về
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Các quy định pháp luật về thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính còn mâu thuẫn, chưa đồng bộ, thống nhất,
chưa thể hiện được tính đặc thù của việc xét xử vụ án hành chính, mà mang
tính sao chép của thủ tục tố tụng dân sự. Nhiều quy định thiếu chặt chẽ, phức
tạp, khó hiểu làm cho không chỉ người dân mà ngay cả các cán bộ toà án,
thẩm phán hành chính cũng cảm thấy lúng túng khi áp dụng. Quyền khởi kiện
của công dân được quy định quá chặt chẽ, thiếu cởi mở, thẩm quyền xét xử
vụ án hành chính của toà án còn hạn hẹp, việc tổ chức và phân định thẩm
quyền của toà án nhân dân các cấp chưa đảm bảo được tính độc lập của toà
án.v.v.
Tất cả những vấn đề nêu trên đang là một thách thức của thực tiễn. Từ
một số vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, và trên cơ
sở thực trạng pháp luật hiện hành về tố tụng hành chính, Luận văn đã đưa ra
các giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định trong lĩnh vực này nhằm thúc
đẩy có hiệu quả việc giải quyết các vụ án hành chính tại toà án nhân dân.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật về thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về tài phán hành chính ở nước ta có một số công trình nghiên cứu như:
Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt nam, NXB. Chính trị quốc
gia,1994 của TS. Lê Bình Vọng: Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta,
NXB.TP Hồ Chí Minh, 1996 của TS. Đinh Văn Mậu và TS. Phạm Hồng
Thái; Đề tài khoa học cấp bộ: Quyết định hành chính và hành vi hành chính -
đối tượng xét xử của toà án hành chính do TS. Phạm Hồng Thái làm chủ
3
nhiệm đề tài; Giáo trình Luật hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội,
Giáo trình Luật hành chính của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo
trình Luật hành chính và tài phán hành chính của Học viện Hành chính quốc
gia, các bài nghiên cứu trên Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Thanh tra
Tuy nhiên, các công trình, bài viết trên do yêu cầu nghiên cứu khác
nhau, nên mới chỉ xem xét và giới hạn ở mhững khía cạnh nhất định, chưa có
đề tài nào chuyên sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống và toàn diện về
thủ tục giải quyết vụ án hành chính. Trong quá trình thực hiện đề tài chúng
tôi có tham khảo, kế thừa chọn lọc và phát triển những vấn đề có liên quan
của các công trình nói trên và các công trình có liên quan khác.
3. Mục đích của đề tài nghiên cứu
Trên thực tế, tình hình khiếu nại, tố cáo ngày càng gia tăng nhanh
chóng, diễn biến phức tạp trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, các vụ khiếu kiện tập
thể kéo dài, gây ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội. Việc giải quyết khiếu
nại tại các cơ quan hành chính nhà nước tỏ ra kém hiệu quả và không đáp
ứng được yêu cầu của xã hội. Trong khi đó, các vụ án hành chính thụ lý tại
các toà án để giải quyết là rất ít. Thủ tục tố tụng hành chính được quy định
như hiện nay là chưa phù hợp với đặc điểm của vụ án hành chính, còn nhiều
bất cập với đòi hỏi của thực tiễn rất sôi động và cấp thiết. Trên cơ sở phân
tích những quy định của pháp luật thực định về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính, có liên hệ với thực tiễn giải quyết vụ án hành chính, đề tài muốn
chỉ ra những nguyên nhân, yếu tố tác động giữa các quy định của pháp luật
với thực tiễn.
Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, tăng cường pháp chế XHCN,
nâng cao trách nhiệm của các công chức, cán bộ, cơ quan nhà nước trong
hoạt động công quyền, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính chủ yếu trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua 21.5.1996 và
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính 1996 và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ
sung năm 1998, bao gồm các nguyên tắc xét xử vụ án hành chính, những
người tham gia tố tụng, thẩm quyền của toà án nhân dân trong việc giải quyết
khiếu kiện hành chính, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hành chính tại toà
án, từ thủ tục khởi kiện, thụ lý xét xử vụ án hành chính, thủ tục xét sử sơ
thẩm, thủ tục xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đến vấn đề về thi
hành quyết định, bản án hành chính có hiệu lực, và thực tiễn xét xử các vụ án
hành chính tại toà án từ năm 1996 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận cuả chủ
nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam.
Đề tài sử dụng các phương pháp: Phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê, xã hội hoá pháp luật
6. Điểm mới của luận văn
- Đề tài làm rõ cơ sở khoa học của việc hoàn thiện pháp luật về trình tự
thủ tục giải quyết vụ án hành chính.
- Đề tài cũng đi sâu, phân tích thực trạng pháp luật về thủ tục giải
quyết vụ án hành chính.
- Đưa ra kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính nhằm góp phần thúc đẩy làm tốt hơn nữa thực tiễn giải
quyết các khiếu kiện hành chính tại toà án nhân dân.
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài
5
Đề tài nghiên cứu góp phần nâng cao cơ sở lý luận của vấn đề giải quyết
vụ án hành chính, thúc đẩy hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính và hệ
thống pháp luật nói chung.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy, học tập tại các trường đại học pháp lý, tham khảo cho các
cán bộ quản lý, tư pháp
8. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vụ án hành chính và thủ tục giải
quyết vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án hành chính
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết
vụ án hành chính.
6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1 Sự cần thiết thành lập Toà án hành chính tại Việt nam.
Tranh chấp hành chính nảy sinh thường ngày trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Giải quyết tranh chấp hành chính luôn là một vấn đề quan trọng
được các nhà nước không phân biệt chế độ chính trị hay hình thức tổ chức
quyền lực hết sức quan tâm. Bên cạnh các Toà án hình sự, dân sự chuyên giải
quyết các tranh chấp giữa các cá nhân trong xã hội đã được thừa nhận từ lâu
đời, thì tổ chức và hoạt động của một cơ quan tài phán hành chính, thực sự là
vấn đề đang được tranh cãi, tìm tòi và thể nghiệm ở nhiều nước trên thế giới.
Việc thiết lập và hoạt động của cơ quan này ở mỗi quốc gia như thế nào cho
phù hợp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính trị, văn hoá, lịch sử,
truyền thống pháp lý, và tập quán của riêng mỗi nước.
Xét về phương diện dân chủ thì tài phán hành chính là một cơ chế bảo
đảm quyền dân chủ cho công dân khi họ cho rằng các cơ quan công quyền
trong quy trình thực hiện công vụ đã vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền
và lợi ích của họ. Xét về phương diện pháp chế thì tài phán hành chính là một
công cụ hữu hiệu để Nhà nước kiểm soát sự hoạt động của bộ máy quản lý,
đảm bảo sự nhất quán trong việc thực hiện đường lối, chính sách quyền lực
chính trị. Xuất phát từ quan điểm đó, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 8 (khoá VII) đã chỉ ra một trong những nội dung cơ bản của cải
cách hành chính nhà nước ta trong giai đoạn trước mắt là: “Đẩy mạnh việc
giải quyết các khiếu kiện của dân. Soát xét, bổ sung và thể chế hoá các chính
sách, trước hết đối với lĩnh vực mà dân khiếu kiện nhiều. Xúc tiến thiết lập hệ
thống Toà án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với các quyết
định hành chính.” [10]
7
1.1.1.Việc thành lập Toà án hành chính và vấn đề xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt nam.
Nhà nước pháp quyền là một kiểu nhà nước được xây dựng trên một xã
hội công dân, nhà nước dân chủ, một nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo pháp luật, quản lý bằng pháp luật, trong đó quyền dân chủ, quyền con
người được quy định thành luật. Mỗi công dân có quyền, đồng thời được đảm
bảo khả năng thực hiện quyền đó và buộc người nắm giữ quyền hành pháp
phải tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật. Điều đó có nghĩa là nếu pháp luật
đòi hỏi công dân phải có trách nhiệm với nhà nước, xã hội thì cũng đòi hỏi
Nhà nước có trách nhiệm với công dân [54;tr.28]. Trách nhiệm đó trước hết
là các bảo đảm pháp lý để thực hiện các quyền tự do, dân chủ nâng cao dân
trí, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền từ phía bộ máy hành chính.
Trong nhà nước pháp quyền, vai trò của cơ quan xét xử được đề cao.
“Công lý thể hiện chủ yếu trong hoạt động xét xử của Toà án” [54;tr.170].
Dựa trên nguyên tắc xét xử chỉ tuân theo pháp luật, các phán quyết của Toà
án là công bằng, chính xác, khách quan không chịu áp lực của bất kỳ tổ chức,
cá nhân nào. Nguyên tắc cơ bản này tạo cho công dân có được sự bình đẳng
cần thiết khi quyền lợi của họ bị xâm phạm. Đồng thời thông qua các phán
quyết cuả Toà án, mỗi công dân, tổ chức, mỗi cán bộ, công chức nhà nước
đều ý thức được rằng tất cả các hành vi vi phạm pháp luật sẽ đều bị xử lý.
Chính vì vậy, các cơ quan xét xử cần được tổ chức và hoạt động sao cho công
dân có thể thấy được tiện lợi nhất khi tham gia và thực hiện các hành vi tố
tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Quyền tư pháp, ngoài việc xét
xử còn có quyền kiểm tra, giám sát, phán quyết đối với việc thực thi pháp
luật của cơ quan hành pháp. Đây cũng chính là một phương thức bảo vệ
quyền lợi cho công dân một cách gián tiếp, thông qua việc thúc đẩy sự trong
sạch, lành mạnh, hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của hệ thống các cơ
quan này.
Trước đây, tại một số nước XHCN tồn tại một quan điểm phổ biến cho
rằng, quyền lợi Nhà nước và nhân dân là hoàn toàn nhất trí, không có sự mâu
8
thuẫn giữa cơ quan nhà nước và nhân dân[45;tr.105]. Trong quá trình quản lý
điều hành, nếu cơ quan nhà nước có sai lầm bị khiếu nại, thì chính cơ quan ra
quyết định sai lầm hoặc cơ quan cấp trên sẽ xem xét lại và tự sửa chữa. Đây
chính là cơ chế “Bộ trưởng - quan toà”. Trên thực tế, cơ chế giải quyết này
cũng đem lại những hiệu quả nhất định. Nhưng xét về phương diện khoa học,
cách giải quyết khiếu nại theo phương thức này thiếu một cơ chế đảm bảo
cho công dân có thể tranh luận, tham gia một cách bình đẳng với cơ quan nhà
nước khi xảy ra oan sai, thiếu một cơ quan xét xử độc lập, khách quan, thiếu
một cơ chế kiểm soát hữu hiệu tính hợp pháp trong hoạt động quản lý. Do
vậy để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi có một cơ quan chuyên thực hiện chức
năng tài phán hành chính, hoạt động theo nguyên tắc xét xử chỉ tuân theo
pháp luật. Cơ quan này có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát, phán quyết việc
thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức nhà nước.
Trong tiến trình lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã
giành được nhiều thành tựu vẻ vang. Tuy nhiên, xét dưới góc độ quản lý, Nhà
nước ta còn bộc lộ một số nhược điểm. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước
cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Quyền dân chủ của người dân
ở góc độ nào đó chưa được thực sự được bảo đảm và tôn trọng, còn mang
nặng tính hình thức. Đại hội VI của Đảng năm 1996 đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, tiến tới xây dựng nhà nước XHCN gắn
liền với một xã hội công dân mà trong đó vấn đề đảm bảo quyền dân chủ của
công dân luôn được đặt ra như là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Tiếp đó
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
đề ra phương hướng xây dựng CNXH ở nước ta: ”Xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân… thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ của nhân dân” [40;tr.34]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và lần
thứ IX tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền, trong
đó một yêu cầu bức xúc đặt ra là “xúc tiến việc thành lập Toà án hành chính
9
trong Toà án nhân dân, bổ sung thể chế làm căn cứ cho việc xét xử”"
[11;tr.243].
Trong khi đó, hầu hết các nước trên thế giới đều đã thành lập Toà án
hành chính, Toà án hành chính lâu đời nhất phải kể đến Cộng hoà Pháp được
thành lập từ cách đây hơn 200 năm, Cộng hoà Liên bang Đức, các nước châu
Âu, châu Mỹ, châu Á như Trung quốc, Thái Lan, Sinhgapore, có thể nói,
Toà án hành chính như sản phẩm tất yếu của sự phát triển của nền văn minh
nhân loại trong một xã hội công dân, ở đó, công dân không chỉ biết sử dụng
quyền để bảo vệ quyền mà họ còn biết lựa chọn và sử dụng phương pháp, cơ
chế cách thức bảo vệ quyền lợi của mình một cách hiệu quả nhất.
1.1.2 Tác động của xu hướng mở cửa và hội nhập
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước đề ra từ Đại hội VI,
việc chuyển đổi mạnh mẽ từ một nền kinh tế với cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự
điều tiết của Nhà nước đã mang lại một không khí cởi mở, năng động trong
các mối quan hệ của Việt nam với các nước trong khu vực và thế giới. Các cá
nhân, tổ chức người nước ngoài, Việt kiều dưới nhiều hình thức tham gia đầu
tư làm ăn kinh doanh tại Việt Nam, các khách du lịch, lưu học sinh Việt
nam đã tham gia các tổ chức quốc tế như ASEAN, AFTA, ký kết hiệp định
Thương mại Việt Mỹ, xúc tiến gia nhập WTO, tham gia nhiều công ước quốc
tế đa phương, song phương Một mặt chúng ta chủ động chuẩn bị các điều
kiện cần và đủ để hội nhập, đồng thời cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của xu
thế hội nhập và toàn cầu hoá. Điều đó có nghĩa các quan hệ xã hội có yếu tố
nước ngoài ở nước ta ngày càng nhiều, các tranh chấp hành chính có yếu tố
nước ngoài sẽ ngày càng phong phú, đa dạng. Trên thực tế, tất cả các cá nhân
và tổ chức nước ngoài khi vào Việt Nam đều được Nhà nước Việt nam cấp
phép. Do vậy, họ đều phải tuân thủ pháp luật Việt Nam trong đời sống sinh
hoạt, kinh doanh.v.v. Khi phát sinh những tranh chấp, họ cũng được quyền
phản ứng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó, hầu hết các
nước trên thế giới và trong khu vực đã có Toà án hành chính. Do vậy việc
10
thiết lập Toà án hành chính để giải quyết các tranh chấp hành chính mang
tính quốc tế cũng là một yêu cầu cần thiết ở nước ta trên con đường hội nhập.
1.1.3. Sự gia tăng khiếu kiện hành chính từ phía công dân
Những đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế đã mang lại cho đất nước ta
những thành tựu bước đầu quan trọng. Đặc biệt, trình độ chính trị văn hoá,
khoa học, kinh tế của người dân ngày càng được nâng cao. Người dân càng
hiểu sâu sắc và biết sử dụng các quyền luật định tham gia vào bảo vệ quyền
lơị của mình. Hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước đã có những thay đổi
cơ bản, vì dân hơn, phục vụ tốt hơn công cuộc đổi mới. Tuy nhiên trong quá
trình đổi mới, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cán bộ công chức
nhà nước không tránh khỏi việc ra những quyết định hoặc hành vi trái pháp
luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích của hợp pháp của cơ quan, của cá nhân
tổ chức.
Trong những năm qua, tình hình giải quyết khiếu nại ở nước ta có diễn
biến tương đối phức tạp. Tình hình khiếu nại, tố cáo gia tăng, số vụ việc hàng
năm các cơ quan nhà nước phải thụ lý rất lớn, tình trạng khiếu kiện vượt cấp
ngày càng tăng, khiếu kiện tập thể phức tạp, gây bức xúc, ảnh hưởng đến an
ninh và trật tự xã hội (Xem phụ lục 1, 2)[31]. Tình hình đó phải kể đến một
số nguyên nhân sau:
- Chính sách pháp luật nước ta đang trong quá trình hoàn thiện nên
thiếu tính đồng bộ. Những quy định của Luật khiếu nại, tố cáo là luật khung
về luật nội dung nhưng cũng còn nhiều điểm mâu thuẫn.
- Về phía người khiếu kiện, nhiều người quá nặng vì lợi ích cá nhân, so
sánh lợi ích trước, sau cho rằng mình bị thiệt thòi nên khiếu kiện kéo dài.
Nhiều người không hiểu chính sách pháp luật, khiếu kiện thiếu căn cứ cố
chấp, không tôn trọng pháp luật.
-Về phía cơ quan nhà nước: nhiều vụ việc không giải quyết dứt điểm
khi mới phát sinh, nhiều ngành cấp đùn đẩy, né tránh, có trường hợp thiếu
trách nhiệm khi giải quyết, chất lượng giải quyết chưa cao, nhiều vụ việc giải
11
quyết không đúng chính sách, pháp luật. Nhiều cán bộ sai phạm, nhưng
không nhận thức đúng sai phạm của mình, thách đố với nhân dân.
-Cơ chế giải quyết khiếu nại theo con đường hành chính như hiện nay,
cơ quan hành chính vừa là người bị kiện lại vừa là người đưa ra các phán
quyết đối với các khiếu nại của dân về chính các quyết định hành chính, hành
vi hành chính của mình, là thiếu khách quan, hiệu quả thấp, chưa kể có những
cơ quan im lặng, không chịu trả lời, coi thường pháp luật.
Thực tế đó đặt ra một đòi hỏi khách quan, một mặt phải chấn chỉnh,
củng cố việc khiếu nại tố cáo của các cơ quan nhà nước theo thủ tục hành
chính, mặt khác cần có một cơ quan tài phán hành chính độc lập, hoạt động
theo một trình tự tố tụng chặt chẽ và chỉ tuân theo pháp luật để giải quyết
nhanh chóng, hiệu quả các khiếu kiện hành chính, bảo đảm quyền bình đẳng
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nghị quyết Hội nghị 8 Ban chấp hành trung ương Đảng VII về tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt nam, trọng tâm là cải
cách một bước nền hành chính, đã nhấn mạnh: “đẩy mạnh việc giải quyết
khiếu kiện của nhân dân. Xúc tiến việc thiết lập Toà án hành chính để xét xử
các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính”
Sự ra đời và hoạt động của một hệ thống các cơ quan tài phán hành
chính là một bước biến đổi về chất trong việc giải quyết các tranh chấp hành
chính, nó thể hiện sự phân biệt rõ ràng giữa hành chính quản lý và hành chính
tài phán. Toà án hành chính với cơ chế giải quyết có nhiều ưu việt, các khiếu
kiện được giải quyết tại Toà án độc lập hoàn toàn với cơ quan hành chính nhà
nước, kết quả giải quyết của Toà án thể hiện bằng một bản án nhân danh nhà
nước nên hiệu lực cao, và có một cơ chế thi hành án, các điều kiện đảm bảo
cho việc thực hiện cao hơn một quyết định cuả cơ quan hành chính. Tại Kỳ
họp thứ 7, Quốc hội khoá IX đã quyết định thành lập mô hình tổ chức toà
hành chính là toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân tối cao và Toà án nhân
dân cấp tỉnh, ở Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm phán xét xử khiếu kiện
hành chính. Kể từ ngày 1.7.1996, Toà hành chính đi vào hoạt động.
1.2. Khái niệm vụ án hành chính
12
Cùng với việc Quốc hội quyết định thành lập toà án hành chính thuộc
Toà án nhân dân tối cao, ngày 21.5.1996, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, có hiệu lực thi
hành từ 1.7.1996. Sau 2 năm đưa pháp luật vào thực tiễn, ngày 25.12.1998,
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, (dưới đây gọi tắt
là Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung) điều chỉnh những vướng mắc trên thực tế, một
mặt để phù hợp với Luật Khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội thông qua ngày
2.12.1998 và có hiệu lực từ 1.1.1999.
Cũng như mô hình toà hành chính lần đầu tiên xuất hiện ở Việt nam,
vụ án hành chính cũng là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Trước khi tìm
hiểu khái niệm vụ án hành chính, chúng ta sẽ bắt đầu từ một số khái niệm có
liên quan:
1.2.1 Khái niệm Khiếu nại hành chính
Khái niệm khiếu nại xuất phát từ tiếng Latinh “Complaint” nghĩa là
cầu cứu, kêu oan, nài xin. Thông thường khiếu nại thường được nảy sinh từ
mối quan hệ bất bình đẳng giữa người khiếu naị và người bị khiếu nại. Người
bị khiếu nại thường có quyền hạn nhất định đối với người bị khiếu nại và đã
sử dụng quyền hạn đó tác động vào người khiếu nại và bị người khiếu nại
phản đối. Dưới giác độ luật học thì khái niệm này thường được hiểu hẹp hơn
so với nghĩa của từ này. Theo Từ điển Pháp- Việt, công dân có “ quyền khiếu
nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về một quyết định hoặc một việc
làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc nhân viên nhà
nước trong hoạt động quản lý hành chính” [18;tr.246]. Theo khoản 1 Điều 2
của Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 quy định: “khiếu nại là việc công dân, cơ
quan, tổ chức hoặc cán bộ công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình”[25] Theo quy định của Luật này thì khái
13
niệm khiếu nại ở đây chỉ bao hàm các khiếu nại về quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong các cơ quan nhà nước và các khiếu nại quyết định
kỷ luật cán bộ, công chức của các cơ quan tổ chức. Do đó, khái niệm khiếu
nại ở đây hẹp hơn khái niệm khiếu nại thông thường và khái niệm khiếu nại
hành chính.
Thuật ngữ khiếu nại hành chính được định nghĩa tại Từ điển Bách khoa
Việt nam 2002 như sau: “Khiếu nại hành chính là việc cá nhân hay tổ chức đề
nghị cơ quan hành chính nhà nước xem xét, sửa chữa một hành vi hay một
quyết định hành chính mà họ cho là hành vi và quyết định đó không đúng
pháp luật, gây thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
họ ” [42; tr.506,507]. Thuật ngữ này bước đầu đưa ra khá đầy đủ và tương
đối phù hợp với các quan niệm hiện nay cũng như các quy định pháp luật
hiện hành về vấn đề này. Do đó, có thể hiểu khiếu nại là quyền chính trị pháp
lý được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện xét về phương diện chính trị
pháp lý. Về phương diện quản lý nhà nước, khiếu nại là một phương thức
thực hiện kiểm tra ngược, giám sát bộ máy quản lý nhà nước, từ kênh thông
tin này buộc các cơ quan nhà nước phải tự kiểm tra điều chỉnh lại hoạt động
của mình. Đây là một phương thức tự vệ mà pháp luật và nhà nước đều
khuyến khích công dân sử dụng khi cần phản kháng lại các hành vi vi phạm
pháp luật.
1.2.2 Khái niệm khiếu kiện hành chính.
Khiếu kiện hành chính là một khái niệm mới ra đời, nó chỉ được sử
dụng như một thuật ngữ pháp lý trong vòng khoảng 10 năm trở lại đây, gắn
liền với quá trình cải cách nền hành chính, đặc biệt là việc đổi mới giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân. Cho đến nay, từ điển Việt Nam nêu và giải
thích khái niệm khiếu kiện hành chính còn sơ lược. Mặc dù vậy khái niệm
này ngày càng được sử dụng rộng rãi, chính thức khi đề cập tới công tác giải
quyết khiếu nại tố cáo, nhất là trong các văn kiện của Đảng, của Nhà nước.
Nghị quyết 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách
một bước nền hành chính, đã nhấn mạnh: đẩy mạnh việc giải quyết các khiếu
14
kiện của dân xúc tiến việc thiết lập hệ thống Toà án hành chính để xét xử
các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính. Như vậy có thể
nói, thuật ngữ “khiếu kiện” hay “ khiếu kiện hành chính” ra đời cùng với quá
trình đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính và với sự ra đời của cơ
chế tài phán hành chính ở nước ta.
Trước khi thành lập Toà án hành chính 1996, việc giải quyết khiếu nại
ở nước ta hoàn toàn giao cho cơ quan hành chính nhà nước giải quyết. Trong
khi đó nhiều nước trên thế giới việc giải quyết tranh chấp hành chính được
thực hiện bằng cả hai con đường: giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính
và giải quyết khiếu nại theo thủ tục tố tụng. Do đó, khái niệm khiếu kiện
hành chính là thuật ngữ có nội hàm rộng lớn hơn, chỉ việc cá nhân, tổ chức
phản đối lại một quyết định hành chính, hành vi hành chính, tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo thủ tục hành chính hoặc tại Toà án có thẩm quyền
theo thủ tục tố tụng tư pháp nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp cuả cá nhân, cơ
quan tổ chức nhằm hạn chế các vi phạm từ phía cơ quan hành chính nhà
nước.
1.2.3 Khái niệm vụ án hành chính: lần đầu tiên khái niệm này được
quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính: “ Cá
nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền
khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình”. Như vậy khi công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức thực hiện
quyền khởi kiện của mình theo thủ tục do luật định, yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà họ cho rằng bị xâm phạm bởi quyết
định hành chính, hành vi hành chính và được Toà án thụ lý giải quyết thì khi
đó phát sinh vụ án hành chính.
Vụ án hành chính có những đặc điểm sau:
a) Về nội dung, vụ án hành chính xuất phát từ quan hệ pháp luật hành
chính, quan hệ về khiếu nại và giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền, trong quá trình hoạt động quản lý hành chính.
b) Đối tượng xét xử của vụ án hành chính là quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chính- người có thẩm quyền.
15
Quyết định hành chính, đó là những quyết định bằng văn bản của Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn
phòng Quốc hội, cơ quan nhà nước địa phương, các Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể (Điều4) [33].
Như vậy theo khái niệm này, quyết định hành chính là đối tượng xét xử
của Toà hành chính khi nó thoả mãn các dấu hiệu sau:
- Quyết định hành chính phải là quyết định cá biệt;
- Quyết định hành chính đó phải tác động trực tiếp đến quyền và lợi
ích cuả công dân, làm phát sinh tranh chấp giữa công dân với cơ quan công
quyền;
- Quyết định đó phải là quyết định lần đầu, vì nếu không phải là quyết
định lần đầu, mà người có yêu cầu khiếu kiện đã có khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo được quy định tại Luật khiếu nại, tố
cáo và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo đã có quyết định
giải quyết theo đúng thẩm quyền, đúng thủ tục thì Toà án không có thẩm
quyền thụ lý giải quyết.
Ngoài các quyết định hành chính, các quyết định kỷ luật buộc thôi việc
cũng là đối tượng xét xử của Toà hành chính nếu bị khởi kiện. Tại khoản 2
Điều 2 và khoản 3 Điều 4 Pháp lệnh 1998 quy định: quyết định thôi việc là
quyết định hành chính của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình
thức kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ
trưởng và tương đương trở xuống thuộc quyền quản lý của mình theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, không phải tất cả các quyết định kỷ luật buộc thôi việc đều có thể kiện
ra toà hành chính mà chỉ các quyết định buộc thôi việc đối với cán bộ công
chức từ vụ trưởng và tương đương trở xuống, nếu bị khiếu kiện mới thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà hành chính.
Hành vi hành chính hay còn gọi là hành vi của cán bộ, công chức trong
hoạt động công vụ, là hành vi của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
16
Theo quy định điều 2, điều 4, điều 12 của Pháp lệnh 1998 thì hành vi hành
chính là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện công vụ của cán bộ, viên
chức nhà nước trong khi thực hiện công vụ. Cùng là đối tượng xét xử của toà
hành chính, nhưng hành vi hành chính không được thể hiện bằng văn bản, mà
hình thức biểu hiện dưới dạng không làm đúng, hoặc làm trái các quy định
của pháp luật, hay im lặng tức là không thực hiện một trách nhiệm, một nghĩa
vụ đáng lẽ phải làm.Tóm lại, “hành vi có thể được thực hiện dưới hình thức
hành động hoặc không hành động”[56;tr.401].Hành vi trái pháp luật này trực
tiếp gây ra thiệt hại hoặc xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, giữa hành vi này và thiệt hại có mối quan hệ nhân quả.
Giải quyết vụ án hành chính là việc Toà án xem xét và phán quyết tính
có căn cứ, tính hợp pháp đối với quyết định hành chính của cơ quan nhà nước
hoặc hành vi hành chính của nhân viên nhà nước khi thực hiện quyền lực
công bị khiếu kiện. Toà án không xác định các quyền dân sự của công dân,
pháp nhân như trong vụ án dân sự.
Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, để đánh giá tính hợp
pháp của một văn bản quy phạm pháp luật thì phải xem xét những căn cứ về
nội dung, mục đích, thẩm quyền thể thức, trình tự thủ tục ban hành của văn
bản ấy. Đồng thời, các điều khoản, các chứng cứ, tài liệu được sử dụng làm
căn cứ để ban hành quyết định hành chính đó, cũng phải đảm bảo yêu cầu
hợp pháp.
Hành vi hành chính bị coi là không hợp pháp trong các trường hợp sau:
các hành vi bị xử phạt trong quyết định xử lý vi phạm hành chính không đúng
với hành vi vi phạm trong biên bản vi phạm hành chính hoặc không có hành
vi vi phạm hành chính; vi phạm thời hiệu hoặc vi phạm thời hạn ban hành
trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
c) Đương sự trong vụ án hành chính có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ
chức. Tuỳ từng vụ án họ tham gia với tư cách là người khiếu kiện, bị kiện hay
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
d) Khi giải quyết vụ án hành chính, Toà án được áp dụng pháp luật dân
sự, và tố tụng dân sự để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của người
17
khiếu kiện. Có nghĩa là trong vụ án hành chính, được áp dụng cả hai hệ thống
văn bản pháp luật (hành chính và dân sự) để giải quyết khi người khởi kiện
đưa ra yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính đó.
Các đặc điểm chính trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cần thiết
đối với quá trình tố tụng hành chính, đây là mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức. Theo đó, thủ tục giải quyết các vụ án hành chính phải phù hợp với
đặc thù các vụ án hành chính.
Tóm lại, vụ án hành chính là vụ án được phát sinh tại Toà án có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính, do cá nhân, cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức khiếu kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình đối với một quyết định hành chính, hành vi hành chính mà họ
cho rằng xâm phạm đến quyền và lợi ích cá nhân của họ.
18
1.3 Phân biệt cơ chế giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính
và cơ chế giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục tƣ pháp.
Xét về bản chất, giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính và giải
quyết vụ án hành chính tại Toà án không khác nhau, khi cơ quan quản lý xem
xét giải quyết khiếu nại tức là cơ quan quản lý cũng đã thực hiện chức năng
hành chính tư pháp [19]. Cả hai cơ chế này đều nhằm mục đích cuối cùng là
giải quyết triệt để, dứt điểm các tranh chấp hành chính. Tuy nhiên, đây là hai
giai đoạn khác nhau trong quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính. Cái
khác nhau chủ yếu của hai giai đoạn này là phương thức thực hiện, tiến hành
công việc đó.
Cơ chế giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính gồm những đặc
điểm sau:
- Công dân, tổ chức có quyền khiếu nại trong mọi lĩnh vực nếu cho
rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm quyền trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích của
mình.
-Trình tự thủ tục giải quyết trên những nguyên tắc của hoạt động hành
chính, đó là các khâu: thủ tục nhận đơn, thẩm tra, ban hành quyết định, trình
tự giải quyết theo thứ bậc hành chính
-Trong quá trình giải quyết vụ việc, ngoài việc đánh giá tính hợp pháp
của khiếu nại hành chính, hành vi hành chính các cơ quan có thẩm quyền còn
có thể xét đến tính hợp lý của các quyết định bị khiếu nại. Đồng thời, các cơ
quan nhà nước khi giải quyết khiếu kiện hành chính không chỉ quan tâm đến
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại mà còn quan tâm đến
việc bảo đảm tính liên tục cho hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước không bị ách tắc, không ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý cũng như lợi
ích chung của toàn xã hội.
Việc giải quyết khiếu nại ở nước ta cho đến trước năm 1996 giao cho
cơ quan quản lý nhà nước thực hiện. Việc áp dụng cơ chế này cũng đã mang
lại nhiều tác dụng tích cực:
19
- Số lượng các vụ khiếu nại hàng năm và trên các lĩnh vực là rất lớn.
Tính chất các vụ khiếu nại rất đa dạng, phức tạp, số lượng quyết định hành
chính bị khiếu nại rất nhiều, do nhiều cơ quan ban hành thậm chí do các cơ
quan liên ngành ban hành. Do đó, sự tham gia giải quyết các khiếu nại của
nhiều cơ quan ban ngành sẽ tránh được tình trạng ùn tắc, tiết kiệm về mặt
thời gian cho cả hai bên hơn so với việc khi chỉ một cơ quan Toà án đứng ra
thụ lý giải quyết.
- Hoạt động quản lý vốn đa dạng và phức tạp, cơ sở để cơ quan nhà
nước ban hành một quyết định rất phức tạp. Ngoài việc căn cứ vào rất nhiều
loại văn bản, quy định của nhà nước: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản cá
biệt, đồng thời quyết định đó còn phải căn cứ vào thực tế công tác quản lý,
hoàn cảnh điều kiện kinh tế xã hội, cũng như lợi ích cộng đồng lúc bấy giờ.
Việc ban hành các quyết định hành chính, văn bản cá biệt, ngoài các yêu cầu
hợp pháp, còn phải đảm bảo tính hợp lý, nhanh chóng, kịp thời để phục vụ
cho các mối quan hệ hành chính đang phát sinh từng ngày từng giờ trong
công tác quản lý. Không phải khi nào cơ quan quản lý nào cũng có đủ thời
gian và các điều kiện cần thiết để cân nhắc và tìm ra căn cứ pháp luật vững
chắc cho quyết định của mình. Do vậy, việc giải quyết khiếu nại theo con
đường hành chính tạo điều kiện cho họ xem xét và tự sửa chữa những sai sót
là cần thiết để có thể thay thế quyết định của mình hoặc huỷ bỏ quyết định
của cấp dưới.
- Mặt khác, trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của người dân Việt nam
nhìn chung còn thấp, người dân- người chịu tác động của quyết định hành
chính- ít nắm được những thông tin về pháp luật, thường chỉ quan tâm đến lợi
ích cá nhân chứ hầu như chưa quan tâm đến lợi ích cộng đồng. Có nhiều
trường hợp quyết định hành chính đúng đắn nhưng họ vẫn khiếu nại. Do đó,
khi cơ quan có thẩm quyền nhận đơn khiếu nại, họ sẽ phải tự xem xét lại việc
ra quyết định của mình, nếu quyết định đúng, cơ quan đó sẽ giải thích cặn kẽ,
đầy đủ cho đương sự để đương sự hiểu và rút khiếu nại. Còn nếu quyết định
sai, khiếu nại của người dân là đúng, thì cơ quan đó sẽ phải chấn chỉnh, sửa
20
chữa và thông báo cho các bên có liên quan, thực hiện bồi thường thiệt hại
nếu có. Như vậy, tranh chấp được giải quyết ngay từ khi phát sinh.
Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, cơ chế giải quyết khiếu nại thông qua
con đường hành chính trong nhiều năm qua đã tỏ ra kém hiệu quả và thiếu
dân chủ. Thực chất giải quyết khiếu nại hành chính là việc giải quyết tranh
chấp, trong đó đối tượng bị kiện luôn là cơ quan nhà nước, nhân viên nhà
nước trong quá trình thực thi công vụ. Quy định giao quyền giải quyết tranh
chấp cho cơ quan hành chính đã biến cơ quan hành chính vừa là người bị
kiện, vừa là quan toà. Người dân trong mối quan hệ vốn đã bất bình đẳng với
các cơ quan hành chính, chỉ có quyền nộp đơn và chờ đợi, không được tham
gia vào quá trình giải quyết khiếu nại, không được thông báo công khai cách
giải quyết, lại càng yếu thế hơn, chỉ trông chờ vào thiện ý của cơ quan nhà
nước. Đã có nhiều cơ quan, cán bộ công chức coi việc giải quyết khiếu nại
như một sự ban ơn, do đó cũng là nguyên nhân nảy sinh tiêu cực, gây sách
nhiễu phiền hà cho người dân.
Thủ tục giải quyết khiếu nại thiếu chặt chẽ, dứt điểm nên nhiều vụ việc
bị kéo dài, chuyển lòng vòng, thiếu khách quan, công bằng. Nhiều cơ quan
còn bao che, né tránh làm cho tình hình càng thêm phức tạp.
Trong khi đó, cơ chế giải quyết khiếu kiện bằng con đường Toà án có
những ưu điểm:
-Với phương thức xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, công khai,
nên việc giải quyết các khiếu kiện hành chính sẽ nhanh chóng, khách quan.
- Việc giải quyết tại Toà án tuân thủ theo một thủ tục tố tụng hành
chính chặt chẽ do luật quy định, đảm bảo công bằng, bình đẳng, trong việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.
- Pháp luật cũng quy định thời hạn bắt buộc phải giải quyết vụ án hành
chính nên tránh được tình trạng đùn đẩy, lòng vòng, kéo dài, bắt người dân
phải chờ đợi. Các vụ việc được Toà hành chính xét xử mang tính toàn diện,
đầy đủ, chính xác và triệt để.
- Toà án còn có một cơ chế hữu hiệu để thực thi các phán quyết của
Toà án. ViệcToà án giải quyết các khiếu kiện hành chính sẽ tạo tâm lý tin
21
tưởng ở công dân, tổ chức vào sự công minh, chính xác của pháp luật, mở
rộng nền dân chủ XHCN đồng thời cũng tạo ra một tác động tích cực đối với
các cơ quan nhà nước trong hoạt động công vụ, trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền mà Đảng và
Nhà nước ta đang đề ra.
1. 3. Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
1.3.1 Khái niệm thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
Tố tụng hành chính là những tranh chấp hành chính được giải quyết tại
Toà án theo quy định của pháp luật, bao gồm toàn bộ hoạt động của Toà án,
Viện Kiểm sát, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cuả cá nhân,
của cơ quan nhà nước, tổ chức trong quá trình Toà án giải quyết vụ án hành
chính cũng như trình tự do pháp luật quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý,
giải quyết vụ án hành chính và về việc thi hành bản án, quyết định của Toà án
về vụ án hành chính.
Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như đã nói ở trên bao gồm
trình tự do luật hành chính quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết
vụ án hành chính và việc thi hành bản án, quyết định của toà về vụ án hành
chính. Trình tự này được quy định chặt chẽ tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính năm 1996 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998. Pháp lệnh
này chính là cơ sở pháp lý để Toà án áp dụng về mặt thủ tục khi xét xử các vụ
án hành chính.
Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là một loại thủ tục hành chính
[56;tr.371], bao gồm trình tự do luật hành chính quy định đối với việc khởi
kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và việc thi hành bản án, quyết định
của Toà án về vụ án hành chính. Các thủ tục này có tính công khai, ổn định
để những người tham gia tố tụng nắm được và thực hiện dễ dàng, các bên
tham gia tố tụng hành chính đều có những quyền và nghĩa vụ rõ ràng theo
luật định. Họ bắt buộc phải thực hiện trách nhiệm của mình để việc xét xử
nhanh chóng, chính xác, khách quan, công minh và hiệu qủa.