Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Hoạt động trợ giúp pháp lý các chương trình giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 98 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ THÚY





HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ THÚY





HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Tú





HÀ NỘI - 2012




5
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO
7
1.1.
Khái niệm trợ giúp pháp lý
7
1.2.
Đặc điểm của trợ giúp pháp lý
8
1.3.
Người được trợ giúp pháp lý
9
1.4.
Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý
12
1.4.1.
Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
12
1.4.2.
Người thực hiện trợ giúp pháp lý
15
1.4.3.
Các hình thức hoạt động trợ giúp pháp lý
18
1.4.3.1.
Tư vấn pháp luật
18
1.4.3.2.
Tham gia tố tụng

20
1.4.3.3.
Đại diện ngoài tố tụng
20
1.4.3.4.
Các hình thức trợ giúp pháp lý khác
21
1.5.
Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo
21
1.5.1.
Quan niệm về đói nghèo
21
1.5.2.
Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo
23
1.5.3.
Ý nghĩa, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong các
28

6
chương trình giảm nghèo

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO
32
2.1.
Thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương
trình giảm nghèo những năm qua
32

2.1.1.
Kết quả khảo sát nhu cầu trợ giúp pháp lý, rà soát, tổng hợp
danh sách các xã thuộc các chương trình giảm nghèo
32
2.1.2.
Tổ chức tập huấn quán triệt hoạt động trợ giúp pháp lý và
hướng dẫn thực hiện các chương trình giảm nghèo
32
2.1.3.
Thành lập và tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý
38
2.1.3.1.
Ban chủ nhiệm
38
2.1.3.2.
Thành phần tham gia sinh hoạt
39
2.1.3.3.
Tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý
40
2.1.3.4.
Về kinh phí tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý
43
2.1.3.5.
Quản lý tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý
44
2.1.4.
Kết quả cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, đáp ứng yêu cầu
trợ giúp pháp lý của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
45

2.1.5.
Tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động
52
2.1.6.
Cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật miễn phí
55
2.2.
Đánh giá chung
56
2.2.1.
Những thuận lợi
56
2.2.2.
Những hạn chế
57
2.2.3.
Nguyên nhân của những hạn chế
62

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG CÁC
CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO THỜI GIAN TỚI
65

7
3.1.
Quan điểm, định hướng thực hiện hoạt động trợ giúp pháp
lý trong các Chương trình giảm nghèo
65
3.1.1.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo
65
3.1.2.
Nhu cầu trợ giúp pháp lý của người nghèo, đồng bào dân
tộc thiểu số ngày càng tăng
72
3.2.
Một số giải pháp để thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý
trong các chương trình giảm nghèo có hiệu quả trong thời
gian tới
75
3.2.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động trợ giúp
pháp lý trong các chương trình giảm nghèo
75
3.2.2.
Kiện toàn tổ chức, bộ máy thực hiện trợ giúp pháp lý
77
3.2.3.
Nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức về hoạt động trợ
giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo
80
3.2.4.
Triển khai đồng bộ, có hệ thống tất cả các hoạt động trợ
giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo
81
3.2.5.
Tiếp tục thành lập, củng cố kiện toàn tất cả các Câu lạc bộ
trợ giúp ở các xã nghèo
82

3.2.6.
Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
các địa phương đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý trong
các chương trình giảm nghèo
84
3.2.7.
Phối hợp, lồng ghép các hoạt động trợ giúp pháp lý với các
chính sách khác cùng thuộc các chương trình giảm nghèo
85

KẾT LUẬN
87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89


4
Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Số liệu vụ việc trợ giúp pháp lý từ năm 2007 - 2010
48
2.2
Số người được trợ giúp pháp lý từ năm 2007 - 2010




8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên cơ sở Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng
Chính phủ, hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước ra đời để giúp đỡ pháp lý
miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Để khẳng định tầm quan
trọng của công tác trợ giúp pháp lý cũng như tạo cơ sở pháp lý bền vững thúc
đẩy công tác này phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu giúp đỡ pháp luật của
người dân, ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua
Luật Trợ giúp pháp lý (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007). Cùng với các quy
định cụ thể, chặt chẽ về khái niệm, nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý, tổ
chức bộ máy, người thực hiện trợ giúp pháp lý, Luật đã quy định các hoạt
động trợ giúp pháp lý. Để đưa các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý đi vào
cuộc sống, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan đã
ban hành đồng bộ nhiều văn bản quy phạm pháp luật (nghị định, quyết định,
thông tư) hướng dẫn chi tiết thi hành Luật.
Đến nay, hoạt động này đã và đang ngày càng khẳng định được vị trí,
vai trò trong đời sống pháp luật của xã hội, trở thành bộ phận quan trọng
trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo và được cụ
thể hóa tại điểm d khoản 4 Điều 1 Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày
10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi
(Chương trình 135 giai đoạn II) và điểm d khoản 2 mục V Điều 1 Quyết định
số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 (sau đây
gọi là các chương trình giảm nghèo).
Có thể nói, mặc dù hoạt động trợ giúp pháp lý, nâng cao nhận thức

pháp luật cho nhân dân mới được bổ sung vào các chương trình giảm nghèo

9
và bắt đầu được triển khai thực hiện từ quý IV năm 2007, nhưng ngành Tư
pháp đã chủ động triển khai thực hiện đồng bộ các hoạt động và mang lại một
số kết quả bước đầu, đó là: thành lập và hướng dẫn việc tổ chức sinh hoạt cho
các Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý lưu động, thực hiện trợ giúp
pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số bằng các hình thức khác
nhau, cung cấp thông tin pháp lý… đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý phong
phú, đa dạng của nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo, người dân tộc
thiểu số và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được tiếp cận với
dịch vụ pháp lý, tìm hiểu pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn
chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, đồng thời tham gia phát triển kinh tế,
vươn lên xóa đói, giảm nghèo, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Tuy đạt được những kết quả đáng khích lệ nêu trên nhưng việc thực
hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo còn một
số tồn tại như chưa đáp ứng có hiệu quả tất cả nhu cầu trợ giúp pháp lý của
người dân do nhận thức của các cấp chính quyền địa phương còn chưa đầy đủ
về hoạt động này; văn bản hướng dẫn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý
trong các chương trình giảm nghèo còn một số bất cập; nhiều người vẫn chưa
biết và chưa được hưởng lợi từ dịch vụ trợ giúp pháp lý; người dân gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận với tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, đặc biệt là
người dân sống ở vùng sâu, vùng xa; Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư
pháp các tỉnh có nhiều người dân tộc thiểu số chưa có đủ đội ngũ trợ giúp
viên và cộng tác viên trợ giúp pháp lý là những người có thể nói tiếng dân tộc,
do đó việc sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân tộc thiểu số còn
gặp nhiều khó khăn; kỹ năng trợ giúp pháp lý của một số Trợ giúp viên pháp
lý và cộng tác viên trợ giúp pháp lý còn chưa cao, đặc biệt các Trợ giúp viên
pháp lý còn rất ít kinh nghiệm trong việc thực hiện các vụ việc tham gia tố

tụng do họ mới chỉ bắt đầu được thực hiện trợ giúp pháp lý theo hình thức này

10
sau khi Luật Trợ giúp pháp lý có hiệu lực vào ngày 01/01/2007; năng lực thực
hiện trợ giúp pháp lý của Trợ giúp viên và cộng tác viên trợ giúp pháp lý còn
hạn chế trong một số lĩnh vực pháp luật phức tạp và có nhiều thay đổi như
pháp luật đất đai, chế độ chính sách,
Xuất phát từ những kết quả đạt được của hoạt động trợ giúp pháp lý
trong các chương trình giảm nghèo, để khắc phục những hạn chế, bất cập trên
và nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân, tạo thuận lợi cho
người dân tiếp cận với dịch vụ mang tính chất ưu đãi của nhà nước dành cho
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn khác
thì việc nghiên cứu đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương
trình giảm nghèo" là cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương
diện thực tiễn để thực hiện có hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các
chương trình giảm nghèo giai đoạn tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ mới của ngành Tư pháp thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính
sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho
những đối tượng yếu thế trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật,
công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ,
thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan về trợ giúp pháp lý miễn phí cho
người nghèo và đối tượng chính sách. Đó là: Luận án Tiến sĩ: "Điều chỉnh
pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới", của Tạ Thị
Minh Lý; Luận văn Thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam", của Vũ Hồng Tuyến; Luận văn thạc sĩ: "Hoàn thiện


11
các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay", của Đỗ Xuân Lân; Luận văn thạc sĩ: "Bảo đảm quyền được
trợ giúp pháp lý", của Phan Thị Thu Hà; Luận văn thạc sĩ: "Trợ giúp pháp lý
ở cơ sở", của tác giả Đặng Thị Loan; đề tài cấp Bộ: "Mô hình tổ chức và
hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện
nay" Tuy nhiên, về vấn đề hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương
trình giảm nghèo đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Hoạt động trợ
giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo", tác giả Luận văn sẽ đi
sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về mặt lý luận và thực
tiễn, góp phần tìm ra giải pháp khoa học thúc đẩy các hoạt động trợ giúp
pháp lý trong các chương trình giảm nghèo thời gian tới để người nghèo,
người dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn khác được trợ giúp
pháp lý khi có yêu cầu.
3. Mục đích, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các
chương trình giảm nghèo; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực
hiện chính sách này có hiệu quả trong thời gian tới, góp phần xóa nghèo về
pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu
thế khác trong xã hội.
Thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận, chính trị pháp lý và cơ sở thực tiễn thực hiện
hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng triển khai các hoạt động trợ giúp pháp
lý trong các chương trình giảm nghèo để thấy được những mặt ưu điểm, hạn chế,
khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.


12
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động trợ
giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo trong thời gian tới.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước về xóa đói giảm
nghèo; quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con
người, quyền công dân.
- Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử,
so sánh, đối chiếu. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và
sử dụng các tư liệu thực tiễn, kết quả khảo sát để hoàn chỉnh luận văn.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo của
Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, luận văn sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách hệ thống, chuyên sâu về cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động trợ
giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo.
- Luận văn góp phần chứng minh quá trình phát triển đúng đắn các
quy định pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm
nghèo tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy hoạt động này. Đồng thời, có sự
đánh giá sâu sắc, sát thực tình hình thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong
các chương trình giảm nghèo, nêu và phân tích yêu cầu về mặt pháp lý và
thực tiễn trong thời gian tới đối với hoạt động này.
- Luận văn này đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần
thực hiện có hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm
nghèo giai đoạn tiếp theo.

13

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương
trình giảm nghèo.
Chương 2: Thực trạng thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các
chương trình giảm nghèo.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp
pháp lý trong các chương trình giảm nghèo trong thời gian tới.












14
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TRONG CÁC CHƢƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO

1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20,
xuất phát từ tiếng Anh là "legal aid". Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê
Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì "legal aid" có nghĩa là "trợ

cấp pháp lý" [33]. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới
do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì "legal aid" trong cụm từ "legal aid
schem" có nghĩa là "bảo trợ tư pháp". Ngoài ra, trong một số tài liệu khác còn
gọi là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp".
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin, 1998 thì "trợ giúp" là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc
gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến". Trong Từ điển Từ và
ngữ Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh, 2000 giải thích: trợ giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc
vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công. Như vậy, có nhiều
cách gọi khác nhau về thuật ngữ này nhưng cụm từ "trợ giúp" có nghĩa chung
nhất, bao hàm nội dung sự "giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ".
Ở Việt Nam, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các tài
liệu từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam. Đến năm 1996, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được
sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình tổ chức và hoạt
động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay" của
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997, thuật ngữ này
được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối

15
tượng chính sách. Năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý đã có quy định chính
thức về khái niệm trợ giúp pháp lý:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp
người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp

và vi phạm pháp luật [42, Điều 3].
1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý
- Trợ giúp pháp lý là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, có
đầy đủ những đặc trưng của dịch vụ công như: được xác định là một trong những
chức năng xã hội của Nhà nước và là trách nhiệm của Nhà nước; đối tượng được
hưởng trợ giúp pháp lý là những người yếu thế, không có đủ điều kiện tiếp cận
với các loại dịch vụ pháp lý có thu, cần có sự trợ giúp của Nhà nước; các chi
phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu do ngân sách Nhà nước bảo đảm.
- Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người
có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm đáp ứng
nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người nghèo và đối tượng chính sách thông qua
việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực
hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại… Trợ
giúp pháp lý được coi là một loại hình dịch vụ pháp lý nói chung bởi hình
thức và phương thức thực hiện tương tự như dịch vụ pháp lý nói chung. Điểm
khác biệt ở đây là trợ giúp pháp lý có đối tượng, phạm vi, lĩnh vực trợ giúp, tổ
chức, người thực hiện hẹp hơn; trợ giúp pháp lý của Nhà nước được thực hiện
theo một trình tự, thủ tục khác so với trình tự, thủ tục thực hiện dịch vụ pháp
lý chung do tổ chức và cá nhân khác thực hiện. Người thụ hưởng trợ giúp
pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào.

16
- Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính nhân
văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những người có
hoàn cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ
trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu
thế, góp phần tạo sự công bằng trong xã hội;
- Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý, thể hiện qua phương thức hoạt
động và mục đích hướng tới của nó. Tính chất pháp lý của hoạt động trợ giúp
pháp lý thể hiện ở chỗ, trợ giúp pháp lý là một trong các biện pháp thực thi

pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống bởi Nhà nước phải có trách nhiệm tạo
ra các cơ chế để giúp người dân biết các quy định pháp luật để thực hiện, sử
dụng, tuân thủ trong cuộc sống để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Đặc biệt, khi Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật và
giải quyết các vấn đề phát sinh hàng ngày trên cơ sở pháp luật thì yêu cầu cần
phải giúp cho người dân hiểu biết pháp luật trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
- Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: Trợ giúp pháp lý
được xác định là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt,
thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình
đẳng trong tiếp cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó,
góp phần thiết lập sự ổn định chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ
xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân vào chế độ.
Trợ giúp pháp lý là một trong những phương thức có hiệu quả để Nhà nước
giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết cộng đồng,
bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội.
1.3. Ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý
Theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp
pháp lý bao gồm:
- Người nghèo là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp
luật. Chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn cho

17
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Chuẩn nghèo hiện
nay được thực hiện theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 về
việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015.
- Người có công với cách mạng bao gồm: Người hoạt động cách mạng
trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người
hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến
bị nhiễm chất độc hóa học; Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng

chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng;
Cha, mẹ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có công
nuôi dưỡng liệt sĩ.
Đây là những người đã có nhiều cống hiến về sức lực, tài năng, trí tuệ
và cả tính mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế trong thời chiến cũng như trong thời bình,
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp
luật. Phần lớn những đối tượng này gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống do bị
ảnh hưởng của thương tật, suy giảm sức khỏe và khả năng lao động (thương
binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh), mất chỗ dựa
chính trong gia đình (thân nhân liệt sĩ),… Chỉ một bộ phận nhỏ trong số họ có
thu nhập ổn định. Với loại đối tượng này, chính sách trợ giúp pháp lý của Nhà
nước chủ yếu thể hiện sự ưu tiên, ưu đãi, sự biết ơn đối với những cống hiến
của họ chứ không căn cứ vào điều kiện thu nhập.
- Người già cô đơn không nơi nương tựa: là những người từ 60 tuổi
trở lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng.
- Người tàn tật không nơi nương tựa: là những người bị khiếm khuyết
một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật
khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt,

18
học tập gặp nhiều khó khăn mà không có ai nuôi dưỡng, chăm sóc hoặc là
người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV hoặc bị các bệnh khác làm
mất năng lực hành vi dân sự mà không có nơi nương tựa.
- Trẻ em không nơi nương tựa: là người dưới 16 tuổi, không có gia
đình hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hoàn cảnh không bình
thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ
bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng.
- Người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật. Ngày 05/3/2007,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ban hành
Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn làm căn cứ thực hiện
một số chế độ, chính sách đặc thù để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an
ninh quốc phòng, xóa đói, giảm nghèo nhằm cải thiện nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, giảm sự chênh lệch về trình độ phát triển so
với các vùng khác trong cả nước. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở tất cả các
vùng, miền của đất nước, nhưng tập trung phần lớn ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, bị cô lập về mặt địa lý, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và
các dịch vụ xã hội cơ bản. Thu nhập của đồng bào chủ yếu là từ sản xuất nông
nghiệp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngoài một số dân tộc có mặt bằng
dân trí cao, mức sống khá như người Hoa (sống ở Thành phố Hồ Chí Minh),
người Khơ-me (sống ở đồng bằng sông Cửu Long), người Chàm (sống ở một
số tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ), còn lại các dân tộc thiểu số khác đều có
trình độ dân trí thấp. Hầu hết các tộc người không có chữ viết riêng, phần
đông không biết chữ quốc ngữ. Luật tục (tập quán pháp) giữ vai trò rất quan
trọng trong đời sống cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số, quy định các
chuẩn mực ứng xử của con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong
cộng đồng, gần như thay thế cho pháp luật của Nhà nước. Do không có điều
kiện tiếp cận để tìm hiểu pháp luật của Nhà nước nên trình độ nhận thức, hiểu
biết pháp luật của người dân tộc thiểu số còn hạn chế.

19
- Các đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Hiện Việt
Nam đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước: Cu Ba, Bungari,
Hungari, Ba Lan, Lào, Nga, Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Bêlarút.
Công dân của các nước này cũng có thể được xem xét hưởng trợ giúp pháp lý
miễn phí nếu họ đang ở Việt Nam.
1.4. Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý

1.4.1. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
Theo Điều 13 Luật Trợ giúp pháp lý thì tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý là Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ
giúp pháp lý.
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp các tỉnh/thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là Trung tâm) do Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập. Trung tâm là đơn vị
sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, chịu sự quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, sự chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn của
Bộ Tư pháp. Trung tâm có Giám đốc, Phó giám đốc, Trợ giúp viên pháp lý.
Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước do Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Trung tâm thực hiện các hoạt động chính sau đây:
- Truyền thông về trợ giúp pháp lý trên các phương tiện thông tin đại
chúng và các hình thức khác;
- Khảo sát nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân. Để có thể xây
dựng kế hoạch hoạt động phù hợp với nhu cầu được giúp đỡ pháp luật của
người dân tại từng địa bàn, các Trung tâm tiến hành khảo sát vướng mắc pháp
luật của người dân ở từng địa phương, nhu cầu cần giúp đỡ trong từng lĩnh
vực pháp luật cụ thể;

20
- Cử người tiếp dân và thụ lý vụ việc trợ giúp pháp lý: thực hiện tư vấn
pháp luật; ra quyết định cử người tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và thực
hiện những hình thức trợ giúp pháp lý khác cho người được trợ giúp pháp lý;
- Tổ chức và thực hiện các đợt trợ giúp pháp lý lưu động đến các địa
bàn cơ sở xa Trung tâm;
- Hướng dẫn hoạt động và cử người trực tiếp tham dự sinh hoạt Câu
lạc bộ trợ giúp pháp lý;
- Cung cấp tờ gấp pháp luật và nói chuyện chuyên đề pháp luật tại

cộng đồng;
- Tổ chức tập huấn về kỹ năng trợ giúp pháp lý và cập nhật văn bản
pháp luật mới cho Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên;
- Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những vấn đề liên
quan đến thi hành pháp luật;
- Thực hiện các chức năng quản lý cán bộ, tài chính, cơ sở vật chất
theo quy định.
Quyền và nghĩa vụ của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
- Thực hiện trợ giúp pháp lý.
- Đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan phối hợp, cung cấp thông tin, tài
liệu về vụ việc trợ giúp pháp lý.
- Bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện trợ
giúp pháp lý.
- Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về trợ giúp pháp lý.
- Giải quyết khiếu nại theo quy định tại khoản 1 Điều 49 của Luật Trợ
giúp pháp lý.
- Giải quyết tranh chấp trong trợ giúp pháp lý.
- Kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật.

21
Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm: Văn phòng luật sư,
Công ty luật theo quy định của pháp luật về luật sư; Trung tâm tư vấn pháp
luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp theo quy định của Chính phủ về tổ chức, hoạt động
tư vấn pháp luật.
Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật tham gia
trợ giúp pháp lý phải đăng ký với Sở Tư pháp nơi đã cấp Giấy đăng ký hoạt
động. Các tổ chức này có thể lựa chọn để đăng ký về hình thức, phạm vi, lĩnh
vực thực hiện trợ giúp pháp lý phù hợp. Cá nhân luật sư có thể tham gia trợ
giúp pháp lý với tư cách là cộng tác viên của Trung tâm (đến tháng 6/2011,

toàn quốc đã có 242 Văn phòng luật sư, 21 Công ty luật và 57 Trung tâm tư
vấn pháp luật đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý).
Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật khi tham
gia trợ giúp pháp lý có quyền lợi và trách nhiệm sau đây:
- Được thực hiện trợ giúp pháp lý trong phạm vi Giấy đăng ký tham gia
trợ giúp pháp lý; phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc Chi
nhánh của Trung tâm để thực hiện có hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý.
- Được đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu
liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý để phục vụ thực hiện trợ giúp pháp lý.
- Được giới thiệu người có yêu cầu trợ giúp pháp lý đến Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước hoặc Chi nhánh của Trung tâm để được trợ giúp pháp
lý; từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý trong những trường
hợp quy định tại Điều 45 Luật Trợ giúp pháp lý.
- Được Nhà nước hỗ trợ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng
trợ giúp pháp lý cho đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý.
- Được kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những vấn
đề liên quan đến thi hành pháp luật phát sinh trong quá trình thực hiện trợ
giúp pháp lý.

22
- Giải quyết tranh chấp trong trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật
Trợ giúp pháp lý và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Được biểu dương, khen thưởng khi có thành tích trong hoạt động trợ
giúp pháp lý hoặc có đóng góp, hỗ trợ tích cực cho việc mở rộng và phát triển
công tác trợ giúp pháp lý ở địa phương.
- Bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý và các
quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý khi người của tổ chức mình tham
gia trợ giúp pháp lý.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện trợ giúp pháp lý
của Luật sư, Tư vấn viên pháp luật thuộc quyền quản lý của mình và chịu

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong quá trình thực
hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý.
- Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thực hiện chế
độ báo cáo, thống kê về trợ giúp pháp lý cho Sở Tư pháp nơi đăng ký.
1.4.2. Người thực hiện trợ giúp pháp lý
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật trợ giúp pháp lý, người thực
hiện trợ giúp pháp lý là Trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp
pháp lý.
Trợ giúp viên pháp lý là viên chức của Trung tâm được Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm và cấp thẻ. Để trở thành Trợ giúp viên pháp lý,
viên chức của Trung tâm phải có bằng cử nhân luật, có Chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ trợ giúp pháp lý sau khi đã hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề luật sư
(hiện đang là 06 tháng) và có thời gian làm công tác pháp luật từ 02 năm trở lên.
Theo quy định tại Điều 21 Luật trợ giúp pháp lý, Trợ giúp viên pháp
lý phải có đầy đủ các tiêu chuẩn:
Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân

23
luật; có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; có thời
gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên; có sức khỏe bảo đảm
hoàn thành nhiệm vụ được giao [42].
Trong tương quan với luật sư, tại Điều 10 Luật Luật sư năm 2006, tiêu
chuẩn Luật sư được quy định như sau: "Công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử
nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật
sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [41]
Như vậy, tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý và Luật sư đang được quy định
tương đương như nhau, ví dụ: Trợ giúp viên pháp lý và Luật sư đều có tiêu
chuẩn bắt buộc là phải có bằng cử nhân luật, phải tham gia khóa đào tạo luật

sư… Ngoài ra, để trở thành Trợ giúp viên pháp lý, các chuyên viên pháp lý
phải tham dự khóa bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và dự kỳ kiểm tra để
được cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.
Tính đến tháng 6/2011, trong toàn quốc đã có 304 Trợ giúp viên pháp
lý và hơn 300 viên chức của Trung tâm đang chuẩn bị được bồi dưỡng và cấp
Chứng chỉ nghiệp vụ trợ giúp pháp lý để được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý.
Trợ giúp viên pháp lý chiếm gần 1/3 số lượng cán bộ, công chức thuộc
biên chế các Trung tâm trợ giúp pháp lý trong toàn quốc. Trợ giúp viên pháp
lý hầu hết nắm giữ các vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy của
Trung tâm, Chi nhánh (Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng Chi nhánh, Trưởng
phòng, Phó Trưởng phòng).
Theo thống kê của Cục trợ giúp pháp lý, trong số 304 người đã được
bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý thì 100% có trình độ cử nhân luật, khoảng
trên 10% người có trình độ thạc sĩ luật, nhiều người đã qua thời gian công tác
pháp luật với các chức danh như: Thẩm phán, Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thư ký Tòa án…, nhiều người trước khi được bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý
đã qua các chức danh lãnh đạo như Chánh án, Trưởng phòng…, nhiều người

24
đã là luật sư, đã trực tiếp tham gia đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý. Do đó, các Trợ giúp viên đều đã
tích lũy được kinh nghiệm trong quá trình tham gia tố tụng.
Trợ giúp viên pháp lý được thực hiện trợ giúp pháp lý với các hình
thức sau:
- Tư vấn pháp luật;
- Tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của
đương sự trong vụ án hình sự; người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính;
- Đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý để thực hiện

các công việc có liên quan đến pháp luật;
- Thực hiện các hình thức trợ giúp pháp lý khác.
Người tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm: Cộng tác viên trợ giúp pháp
lý; Luật sư và Tư vấn viên pháp luật đang làm việc tại các Công ty luật, Văn
phòng luật sư, Trung tâm tư vấn pháp luật có đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý.
Thời gian qua, đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý không ngừng
phát triển về số lượng và được quan tâm bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp
vụ trợ giúp pháp lý và đã đóng góp không nhỏ cho thành công của hoạt động
trợ giúp pháp lý. Đến nay, trong toàn quốc đã có 8.535 Cộng tác viên (2.173 ở
cấp tỉnh; 3.043 ở cấp huyện và 3.319 ở cấp xã). Trong điều kiện cán bộ
chuyên trách của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn hạn chế, chưa đáp
ứng được nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng nhiều và phức tạp của người
dân thì sự tham gia tích cực của đội ngũ này rất quan trọng, đặc biệt, đối với
những hình thức tham gia tố tụng. Đối với hoạt động trợ giúp pháp lý tại cơ
sở, cộng tác viên (người đã và đang là thành viên Tổ hòa giải, thành viên Ban
chủ nhiệm Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, già làng, trưởng bản, trưởng thôn,
trưởng dòng họ, đại diện tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề

25
nghiệp ở cơ sở …) đã và đang giữ vai trò quan trọng, tiếp nhận và giải quyết
các vướng mắc pháp luật cho người dân ngay tại địa bàn làng, thôn, bản.
Người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được tham
gia trợ giúp pháp lý:
- Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được
xóa án tích hoặc đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng;
- Đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa
bệnh, cơ sở giáo dục hoặc quản chế hành chính;
- Mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn

ba năm, kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu lực;
- Đang bị tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư; bị thu hồi
Giấy chứng nhận tư vấn viên pháp luật.
1.4.3. Các hình thức hoạt động trợ giúp pháp lý
Theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý được thực
hiện thông qua các hình thức: Tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện
ngoài tố tụng, các hình thức trợ giúp pháp lý khác.
1.4.3.1. Tư vấn pháp luật
Tư vấn pháp luật là một loại hình dịch vụ trí tuệ, trong đó người có
trình độ hiểu biết pháp luật sâu rộng đưa ra những ý kiến của mình về một vấn
đề cụ thể nào đó có liên quan đến pháp luật. Những ý kiến đó không mang
tính chất bắt buộc (tính cưỡng chế) người được tư vấn phải thực hiện, nhưng
nên thực hiện bởi những lời tư vấn đó đều là những quy định của pháp luật.
Trong hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật là một hình thức
trợ giúp pháp lý. Điều 28 Luật trợ giúp pháp lý quy định:

26
Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên, Luật sư, Tư vấn viên
pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp
lý bằng việc hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin
pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc trợ giúp
pháp lý [42].
Như vậy, hoạt động tư vấn pháp luật do người thực hiện trợ giúp pháp
lý thực hiện bao gồm: Giải đáp pháp luật, hướng dẫn soạn thảo, góp ý kiến
cho đơn từ, văn bản có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, hướng
dẫn những thủ tục cần thiết, cung cấp địa chỉ cơ quan có thẩm quyền giải quyết
vụ việc, cung cấp những thông tin pháp lý, đưa ra những lời khuyên về những
vấn đề có liên quan đến pháp luật và hướng dẫn đối tượng ứng xử phù hợp
với pháp luật nhằm giúp cho người yêu cầu tư vấn nâng cao trình độ hiểu biết
và ý thức pháp luật để họ thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tư vấn pháp luật không phải là truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp
luật một cách chung chung hoặc chuyển tải thông tin pháp lý về các văn bản
pháp luật mới, bởi đối tượng của hoạt động tư vấn pháp luật là một tổ chức
hoặc cá nhân cụ thể; nội dung tư vấn có liên quan đến một vụ việc cụ thể theo
yêu cầu của đối tượng. Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, người tư vấn
truyền thông, phổ biến pháp luật có liên quan trực tiếp đến vụ việc cụ thể đó
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Hoạt động tư vấn pháp luật
cũng giúp cho người được tư vấn hiểu được đúng bản chất về quyền và nghĩa
vụ của mình để thực hiện và ứng xử phù hợp với pháp luật, ngăn ngừa vi phạm
pháp luật.
Tư vấn pháp luật trong hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện tại
trụ sở và ngoài trụ sở. Tại trụ sở, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý tiếp nhận
yêu cầu tư vấn trực tiếp hoặc thông qua thư tín, điện thoại, fax hoặc thông qua
phương tiện thông tin đại chúng khác. Ở ngoài trụ sở, tư vấn được thực hiện
thông qua các chuyến trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp

×