Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Sự độc lập của hoạt động xét xử (Qua thực tiễn của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.62 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MẠNH HÀ

Sù §éC LậP CủA HOạT ĐộNG XéT Xử
(Qua thực tiễn của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng)

Chuyờn ngnh: Lý lun lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Manh Hà


̣


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA TÒA ÁN
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM ........................................................................... 9
1.1.

Vị trí, vai trị của tịa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam .................................................................................... 9

1.1.1. Tòa án Việt Nam trong hệ thống cơ quan Tư pháp.............................. 9
1.1.2. Cơ cấu tổ chức hiện nay của Tòa án .................................................. 17
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án các cấ p .......................................... 21
1.1.4.

Những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Tòa án ........... 24

1.2.

Đảm bảo nguyên tắc độc lập của tòa án trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...................................................... 29


1.2.1. Sự độc lập của Tòa án – Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ
máy nhà nước pháp quyền.................................................................. 29
1.2.2. Vị trí, vai trị sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam................................................................. 34
Kế t luâ ̣n chương 1 ........................................................................................... 46
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO SỰ ĐỘC LẬP TRONG XÉT
XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .......47
2.1.

Tổng quan về Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng ....................... 47


2.1.1. Tổ chức của Tòa án nhân dân các cấp ở thành phố Hải Phòng ......... 47
2.1.2.

Kế t quả xét xử của Tòa án nhân dân các cấp ở thành phố Hải Phòng52
........

2.2.

Đánh giá sự độc lập trong xét xử của Tòa án nhân dân các cấp tại
thành phố Hải Phòng .......................................................................... 59

2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân ........................................................ 59
2.2.2. Những ha ̣n chế và nguyên nhân ......................................................... 63
2.2.3. Những yếu tố tác động đến nguyên tắc độc lập trong xét xử của
Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hải Phòng ............................ 65
Kế t luâ ̣n chương 2 ........................................................................................... 70
Chƣơng 3: NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐẢM BẢO NGUYÊN

TẮC ĐỘC LẬP TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN .......................... 72
3.1.

Hồn thiện tổ chức, hoạt động của tịa án nhân dân .......................... 72

3.2.

Đổi mới cơ chế tuyển chọn , đào ta ̣o , có chế độ đãi ngộ hợp lý
đố i với Thẩ m phán; nâng cao năng lực Hô ̣i thẩ m .............................. 75

3.3.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của
Toà án địa phương .............................................................................. 78

3.4.

Xây dựng và hoàn thiện vấn đề “án lệ” trong hoạt động xét xử ........ 83

3.5.

Công khai, minh ba ̣ch, dân chủ hoạt động xét xử của Toà án ........... 89

Kế t luâ ̣n chương 3 ........................................................................................... 92
́
KÊT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97


DANH MỤC VIẾT TẮT

CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
TAND:

Tòa án nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Một trong những đặc trưng và là yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp
quyền là bảo đảm tính độc lập trong mối quan hệ phân công

, phối hợp, chế

ước với các quyền lập pháp , hành pháp, tư pháp . Hệ quả của đặc trưng, yêu
cầu này là về phương diện tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, phải thiết
kế, vận hành được một hệ thống tòa án độc lập . Sự độc lập của tịa án khơng
chỉ bảo đảm sự thượng tôn của Hiến pháp, của pháp luật, kiểm sốt các nhánh
quyền lực cịn lại, mà cịn có vai trị quan trọng trong bảo vệ lợi ích nhà nước,
xã hội, quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của tổ chức , cá nhân. Tịa án khơng chỉ
là cơ quan xét xử các tranh chấp trong xã hội mà phải còn là nơi bảo vệ Hiến
pháp, pháp luật, công lý.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí vai trị của tịa án
ngày càng được khẳng định. Tịa án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp
trong quyền lực nhà nước. Việc thực thi quyền này ảnh hưởng trực tiếp tới
mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam. Tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất nền công lý của chế độ, đồng thời

thể hiện chất lượng hoạt động, uy tín của cả hệ thống Tư pháp trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó cải cách tòa án về tổ chức và hoạt động
được coi là khâu đột phá của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Trên cơ sở đó, trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, Việt Nam đã, đang thực hiện cải cách tư pháp hướng tới xây
dựng một nền tư pháp ngang tầm với những đòi hỏi của nhà nước pháp
quyền, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước, xu thế hội
nhập, hợp tác quốc tế.

1


Trong cải cách tư pháp, theo tinh thần nội dung Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, địi hỏi cần có nhận thức rõ hơn vị trí, vai
trị của Tòa án trong bộ máy nhà nước và những nguyên tắc hoạt động cơ
quan của tòa án trong đó có nguyên tắc độc lập xét xử.
Nguyên tắc độc lập xét xử là một giá trị phổ biến khi nói tới một nền tư
pháp công bằng, là một trong những đặc thù của việc thực hiện quyền tư pháp
và là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tổ chức và hoạt động của tòa án
trong nhà nước pháp quyền.
Ở nước ta, nguyên tắc tòa án xét xử độc lập là nguyên tắc được Hiến
pháp và các văn bản pháp luật khác quy định từ rất sớm và luôn được củng cố
bảo đảm theo sự phát triển, hoàn thiện của Hiến pháp và hệ thống pháp luật.
Trong thực tế, hệ thống tòa án ở nước ta những năm qua đã, đang vận
hành theo nguyên lý đó. Trên cơ sở bảo đảm tính độc lập của tịa án, hàng
năm ngành tịa án đã xét xử hàng trăm nghìn vụ việc, góp phần bảo vệ pháp
chế, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với pháp luật, nhà nước, "hạn chế
được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất

lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên" [13].
Tuy nhiên, có thể thấy tính độc lập của tịa án chưa được đảm bảo triệt để,
cịn nhiều bất cập, dẫn đến "Cơng tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một
số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa còn nhiều" [13].
Có nhiều nguyên nhân, yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến
tính độc lập trong xét xử của tịa án như: mơ hình tổ chức tòa án; chế độ tuyển
chọn, đào tạo, bổ nhiệm, đãi ngộ thẩm phán; trình độ, bản lĩnh của đội ngũ
thẩm phán; những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường; sự tác
động của lợi ích nhóm…. Những tác động này có ảnh hưởng mạnh hơn đến
hệ thống các tòa án ở địa phương (tòa án nhân huyện, tỉnh) so với Tòa án
nhân dân tối cao.

2


Là thành phố duyên hải, Hải Phòng nằm ở hạ lưu của hệ thống sơng
Thái Bình thuộc đồng bằng sơng Hồng có vị trí nằm trong khoảng từ 20035’
đến 21001’ vĩ độ Bắc, và từ 106029’ đến 107005’ kinh độ Đơng; phía Bắc và
Đơng Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây
Nam giáp tỉnh Thái Bình và phía Đơng là biển Đơng với đường bờ biển dài
125km, nơi có 5 cửa sông lớn là Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và
sông Thái Bình.
Hải Phịng có diện tích tự nhiên là 1.507,57km2, Tính đến tháng
12/2011, dân số Hải Phòng là 1.907.705 người, trong đó dân cư thành thị
chiếm 46,1% và dân cư nông thôn chiếm 53,9%, là thành phố đông dân thứ 3
ở Việt Nam, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Hải Phịng là đơ thị loại 1, gồm 7 quận (Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê
Chân, Dương Kinh, Đồ Sơn, Kiến An và Hải An), 6 huyện ngoại thành (Thuỷ
Nguyên, An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) và 2 huyện
đảo (Cát Hải, Bạch Long Vĩ).

Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội vùng châu thổ sông Hồng,
Hải Phòng được xác định là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế động lực
phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh); là Trung tâm kinh tế - khoa
học - kĩ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong những
trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước (Quyết
định 1448 /QĐ-TTg ngày 16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ).
Với lợi thế trên Hải Phòng là một trong những địa phương đang đẩy
mạnh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình này đã đang tác động
mạnh mẽ đến tổ chức, hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân ở Hải Phòng
nói chung, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phịng nói riêng . Bình qn 3 năm
trở lại đây (2011- 2013), mỗi năm, Tòa án nhân dân các cấ p thành phố Hải
Phòng xét xử 5.516 vụ án, vụ việc. Trong đó án bị tồn đọng là 12 vụ, cải sửa
là 25 vụ án, hủy là 06 vụ.

3


Những hạn chế nói trên có nhiều nguyên nhân, nhưng có thể thấy, trong
đó có một nguyên nhân là tính độc lập của tịa án trong q trình xét xử đã
khơng được tơn trọng, bảo đảm.
Vì vậy, tiếp tục nghiên cứu về tính độc lập của tịa án - trong bối cảnh
cụ thể của Tòa án các cấ p Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng , trên cơ sở
đó, tìm kiếm thêm những cơ sở lý luận, thực tế cho việc xây dựng, tổ chức
thực hiện những giải pháp để bảo đảm tính độc lập của tịa án, thông qua
đó, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử ở Tòa án nhân dân
thành phố Hải Phòng là một điều cần thiết, đáp ứng yêu cầu của q trình
xây dựng, phát triển Hải Phịng.
Đây là lý do thứ nhất để đề tài "Sự độc lập của hoạt động xét xử (Qua
thực tiễn của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng)" được lựa chọn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Đã có nhiều nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nói chung
cũng như về tính độc lập của tịa án trong xét xử nói riêng được công bố như:
- "Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền" của GS.TS. Nguyễn
Đăng Dung, NXB Tư pháp, 2004;
- "Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân

, do

dân, vì dân của nước ta " của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 3/2003;
- Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền" do GS.TSKH Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, 2004;
- Bài "Một số biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc khi xét xử thẩm
phản độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", của PGS.TS. Phạm Hồng Hải , Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2003;
- "Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp" của TS. Phạm Văn Hùng, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 3/2008;

4


- Bài "Độc lập xét xử ở những nước quá độ", của Ths.Lưu Tiến Dũng,
Tạp chí Tịa án nhân dân dân, các số 20, 21/2006;
- Bài "Những bảo đảm cho nguyên tắc tòa án độc lập xét xử có hiệu lực
thực tế" Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19/2007;
Các cơng trình nghiên cứu khoa học trên gián tiếp hoặc trực tiếp, ít
nhiều đã luận bàn đến cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như đánh giá thực tế tính
độc lập của tòa án trong xét xử ở nước ta. Đó là những thành quả nghiên cứu
lý luận chung đóng góp ở mức độ khác nhau vào tiến trình cải cách tư pháp

nói chung, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của tịa án nói riêng.
Những cơng trình nghiên cứu, tài liệu nêu trên là nguồn tư liệu tham khảo có
giá trị, mang tính lý luận và thực tiễn cao.
Tuy nhiên cho đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp về
tính độc lập của Toà án hai cấ p Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng trong
hoạt động xét xử, giải quyết các vụ án, dưới góc độ của Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật. Trong đó, có nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu
như: tính phổ biến và đặc thù trong độc lập xét xử của Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng, những yếu tố chủ yếu tác động đến tính độc lập xét xử của
Tồ án hai cấp Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng , những giải pháp cụ thể
bảo đảm tính độc lập xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng;
những kinh nghiệm trong việc bảo đảm tính độc lập xét xử của tòa án từ thực
tế hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng…
Đây là lý do thứ hai để đề tài "Sự độc lập của hoạt động xét xử (Qua
thực tiễn của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng)" được lựa chọn.
3. Mục tiêu và nhiêm vu ̣ nghiên cƣu của đề tài
̣
́
Mục tiêu tổng quát của luận văn là nghiên cứu những vấn đề mang tính
lý luận cơ bản về nguyên tắc độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử, nhằm
làm rõ các khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc.

5


Mục tiêu cụ thể của luận văn là trên cơ sở các luận cứ, quan điểm lý
luận, áp dụng vào thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án nói chung, hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng nói riêng, chỉ ra những
thuận lợi khó khăn tác động đến sự vận hành đúng đắn của nguyên tắc độc lập
trong hoạt động xét xử của Tòa án, qua đó đưa ra một số đề xuất nhằm góp

phần vào quá trình lý luận cũng như áp dụng thực tiến.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ thêm cơ sở khoa học, pháp lý về tính độc lập của tịa án trong
xét xử;
- Phân tích thực trạng và đánh giá thực trạng , xác định ưu, nhược điểm
và những vấn đề đặt ra trong q trình bảo đảm tính độc lập của tòa án từ thực
tiễn xét xử của Tòa án hai cấ p Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng;
- Đưa ra những giải pháp để bảo đảm, nâng cao tính độc lập của tịa án
trong xét xử của của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng nói riêng cũng
như những kinh nghiệm có thể nhân rộng trong phạm vi cả nước nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn cơ sở lý luận, thực tiễn của tính
độc lập của tòa án trong xét xử cũng như những giải pháp để nâng cao tính
độc lập của tịa án trong xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
nói riêng cũng như những kinh nghiệm có thể nhân rộng trong phạm vi cả
nước nói chung.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về không gian được giới hạn là hoạt
động xét xử hai cấ p của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

(cấp quận,

huyện và cấp thành phố); giới hạn thời gian là từ 2009 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cƣu
́
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật

6


biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và

pháp luật nói chung, về tòa án nói riêng, cùng với các quan điểm, chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài kết hợp sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu như: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp khảo
sát thực tế; Phương pháp thống kê và phân tích tổng hợp; Phương pháp phân
tích, đối chiếu; Phương pháp so sánh….
6. Nhƣ̃ng đóng góp của luâ ̣n văn
Trong chương 1, luận văn hệ thống hóa, làm sâu sắc thêm cơ sở lý
luận, thực tiễn của tính độc lập của tịa án trong xét xử: i) Nội dung tính độc
lập của tịa án trong xét xử; ii) Làm rõ tiêu chí đánh giá tính độc lập của tòa
án trong xét xử; ii) Các yếu tố tác động đến tính độc lập của tịa án trong xét
xử; iv) Ý nghĩa của việc bảo đảm tính độc lập của tòa án trong xét xử.
Chương 2, trên cơ sở đánh giá tính độc lập của tịa án trong xét xử qua
thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, luận văn chỉ ra: i)
những nguyên nhân, yếu tố chủ yếu tác động tích cực (hoặc tiêu cực) đến tính
độc lập của tịa án trong xét xử; ii) Những kinh nghiệm từ thực tế bảo đảm
tính độc lập xét xử của Tịa án hai cấ p Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Tại chương 3, luận văn tập trung đưa ra hệ thống giải pháp để bảo đảm
tính độc lập của tịa án trong xét xử gồm: i) Giải pháp về tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về tổ chức, hoạt động của tòa án; ii) Giải pháp về đổi mới cơ chế
tuyển chọn; về nâng cao năng lực và đãi ngộ thẩm phán, hội thẩm; iii) Giải
pháp về án lệ và hoàn thiện án lệ ; iv) Giải pháp về công khai , minh ba ̣ch và
dân chủ hóa hoạt động xét xử; v) Giải pháp về đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động xét xử.

7


7. Kế t cấ u luâ ̣n văn
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo. Trong đó, nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về sự độc lập của tòa án trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng đảm bảo nguyên tắc độc lập trong xét xử của
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Những giải pháp, kiế n nghi ̣cụ thể bảo đảm nguyên tắc độc
lập trong xét xử của tòa án.

8


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA TÒA ÁN TRONG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Vị trí, vai trị của tịa án trong nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
1.1.1. Tòa án Việt Nam trong hệ thống cơ quan Tư pháp
Đối với nhiều nước trên thế giới, nói đến hoạt động tư pháp là nói đến
hoạt động xét xử của tòa án cũng như nói đến cơ quan tư pháp là nói đến tòa
án. Còn trong khoa học pháp lý, thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy
các cơ quan nhà nước Việt Nam, khái niệm tư pháp được giải thích theo nhiều
nghĩa khác nhau và việc xác định cơ quan nào là cơ quan tư pháp luôn có sự
thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử gắn với quá trình hình thành và phát triển
của nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc phân kỳ phát triển
của hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam trong đó có tòa án được dựa trên
cơ sở quy định tại các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 2013.
1.1.1.1. Tòa án trong hệ thống cơ quan tư pháp thời kỳ trước Hiến pháp 1946
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, các cơ quan tư pháp
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được thành lập, bao gồm:
toà án quân sự, toà án đặc biệt, toà án binh và toà án thường (toà án tư pháp).

Toà án quân sự được thành lập theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1995, tại
các tỉnh và thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình,
Vinh, Quảng Ngãi, Sài Gịn, Mỹ Tho.
Sau đó, theo Sắc lệnh số 77C ngày 18/12/1945, thành lập thêm hai Toà
án quân sự tại Nha Trang và Phan Thiết. Toà án qn sự được tổ chức theo
mơ hình một cấp. Các tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời
chung thẩm tất cả những tội phạm xâm hại đến nền độc lập của nước Việt

9


Nam dân chủ cộng hòa. Việc xét xử các vụ án hình sự thường như xâm phạm
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của công dân và trật tự an toàn xã hội...
và các vụ án dân sự được tạm thời giao cho ban tư pháp thuộc Uỷ ban hành
chính cấp huyện và cấp tỉnh đảm nhiệm.
Theo Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946, Toà án binh lâm thời đã
được thành lập tại Hà Nội, có thẩm quyền xét xử các quân nhân hoặc những
người làm việc tại cơ quan chuyên môn của quân đội phạm pháp hoặc phạm
pháp có ảnh hưởng đến quân đội. Đồng thời, các toà án binh tại mặt trận cũng
được thành lập để kịp thời xét xử các vụ việc xảy ra ở các điểm đang có chiến
sự nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng, củng cố sức mạnh
của quân đội.
Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 quy đinh, tại Hà Nội Toà án đặc
̣
biệt đã được thành lập để xét xử những người là nhân viên của uỷ ban hành
chính các cấp và của các cơ quan Chính phủ phạm tội, do ban thanh tra đặc
biệt truy tố.
Hệ thống toà án tư pháp được thành lập ở các cấp theo Sắc lệnh số
13/SL ngày 24/1/1946 gồ m: Ở mỗi quận (phủ, huyện, châu) có một toà án sơ
cấp; ở mỗi tỉnh và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có

một toà án đệ nhị cấp; ở mỗi kì có một tồ thượng thẩm: Tịa thượng thẩm
Bắc kỳ đặt tại Hà Nội, Tòa thượng thẩm Trung kỳ đặt tại Huế (Thuận Hố) và
Tịa thượng thẩm Nam kỳ đặt tại Sài Gịn. Tồ án sơ cấp có thẩm quyền xét
xử sơ thẩm, sơ chung thẩm các vụ án hình sự, dân sự và thương sự. Toà án đệ
nhị cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, sơ chung thẩm các vụ án hình sự, dân
sự và thương sự; khi xét xử các vụ án dân sự và thương sự, chánh án xét xử
một mình nhưng khi xét xử các việc tiểu hình phải có thêm hai phụ thẩm nhân
dân và khi xét xử các việc đại hình tồ đệ nhị cấp có 5 người cùng ngồi xét xử
và đều có quyền quyết nghị. Toà thượng thẩm có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm các bản án của toà án sơ cấp và toà án đệ nhị cấp bị kháng cáo.

10


Sắc lệnh 13/SL ngày 24/1/1946 quy đinh có 2 ngạch thẩm phán là thẩm
̣
phán sơ cấp và thẩm phán đệ nhị cấp. Ngạch thẩm phán sơ cấp có 5 hạng và
ngạch đệ nhị cấp có 7 hạng, được chia thành hai chức vị: thẩm phán xét xử
(do chánh nhất tòa án thượng thẩm đứng đầu) thẩm phán buộc tội (do chưởng
lí đứng đầu). Các thẩm phán đệ nhị cấp có thể làm việc ở Tòa thượng thẩm.
Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm thẩm phán Tòa sơ cấp và Chủ tịch nước bổ
nhiệm thẩm phán Tòa đệ nhị cấp.
Như vậy trong giai đoạn này, các Tòa án đã được thành lập trên cơ sở
yêu cầu của khu vực, vụ án cụ thể và chủ yếu là nhằm mục đích xét xử các tội
phản bội Tổ quốc, chống phá cách mạng, chưa thực sự chú trong giải quyết
các vụ án dân sự, thương sự. Lúc này chưa thành lập Tòa án Tối cao, mà chỉ
tổ chức theo mơ hình các cấp xét xử, hoạt động song song với các cấp chính
quyền với nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ thành quả cách mạng, độc lập dân tộc,
trật tự xã hội và của cá nhân. Tịa án khi đó ln đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ
tư pháp và các cơ quan hành chính địa phương.

Do yêu cầu củng cố sức mạnh của quân đội trong hoàn cảnh cuộc
kháng chiến toàn quốc, Toà án quân sự và toà án binh được củng cố và mở
rộng để kịp thời xét xử các tội phạm trong quân đội và trừng trị những người
xâm hại đến sức chiến đấu của quân đội. Hệ thống toà án binh trong thời kì
này bao gồm: Tồ án binh mặt trận, toà án binh khu, Toà án binh tối cao và
Toà án khu trung ương. Toà án binh mặt trận được thành lập từ cấp trung
đoàn trở lên, có thẩm quyền xét xử sơ, chung thẩm những người phạm tội
phản quốc, gián điệp hoặc cướp của, nhũng nhiễu nhân dân ở các điểm đang
tác chiến; toà án binh khu có thẩm quyền xét xử những quân nhân phạm vào
một hay nhiều tội định ở hình luật chung, một hay nhiều tội có tính cách nhà
binh (Điều 67 Sắc lệnh 163/SL); Toà án binh tối cao có thẩm quyền xét xử
những quân nhân từ cấp trung đoàn trở lên và các quân nhân thuộc cơ quan

11


trung ương phạm vào các tội đã được quy định ở hình luật chung và những tội
có tính cách nhà binh (Điều 67 Sắc lệnh số 163/SL) và Toà án khu trung ương
tại Bộ quốc phòng, có thẩm quyền xét xử các nhân viên thuộc các cơ quan của
Bộ quốc phịng và Bộ tổng chỉ huy, kể cả trung đồn trưởng trở lên phạm tội
trong địa bàn khu trung ương. Một đặc điểm đáng lưu ý trong thời kì này là
toà án binh có nhiều chức năng khác nhau như xét xử, điều tra, công tố, tuyên
truyền giáo dục pháp luật và quản lí phạm nhân.
1.1.1.2. Tịa án trong hệ thống cơ quan tư pháp thời kỳ 1946-1959
Hiến pháp 1946 ra đời là cơ sở thay đổi cơ bản tổ chức hệ thống Tòa án
Việt Nam. Theo quy định tại Điều 63 Hiến Pháp 1946, Cơ quan tư pháp của
nước Việt Nam dân chủ cộng hồ gồm có:
Tịa án Tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Hệ thống Tòa án được tổ chức theo các nguyên tắc:
Tòa án độc lập đối với cơ quan hành chính; các viên thẩm

phán do Chính phủ bổ nhiệm; trong khi xử việc hình thì phải có phụ
thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc
cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình; Trong khi xét
xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác
khơng được can thiệp; các phiên tịa được tổ chức công khai, trừ
những trường hợp đặc biệt; các bị cáo có quyền tự mình bào chữa
hoặc mượn luật sư; quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của
mình trước Toà án [19].
Theo quy định tại sắc lệnh 185/SL ngày 26/5/1948, thì hệ thống tịa án
trong giai đoạn này cũng đã có sự phân định rạch ròi về thẩm quyền xét xử.
Cụ thể: về hình sự, Tịa án sơ cấp chỉ xét xử những vụ vi cảnh hoặc đòi bồi
thường; tòa án đệ nhị cấp xét xử những vụ tiểu hình và đại hình. Đối với các
vụ án dân sự, thương sự, Tòa án sơ cấp xét xử những việc liên quan đến hộ

12


tịch, những vụ kiện liên quan đến động sản có giá ngạch thấp; tòa đệ nhị cấp
cao xét xử những vụ việc liên quan đến động sản có giá ngạch cao hoặc bất
động sản… Ngồi ra tịa đệ nhị cấp còn có quyền phúc thẩm những phán
quyết sơ thẩm của tòa án cấp sơ cấp bị kháng cáo. Tòa án thượng thẩm xét xử
phúc thẩm những phán quyết sơ thẩm của tòa án đệ nhị cấp bị kháng cáo
Ngày 22/5/1950, Sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp và luật
tố tụng đã được ban hành. Từ đây, toà án sơ cấp được đổi thành toà án nhân
dân huyện; toà án đệ nhị cấp được đổi thành toà án nhân dân tỉnh; hội đồng
phúc án được đổi thành toà án phúc thẩm và phụ thẩm nhân dân được gọi là
hội thẩm nhân dân; hội thẩm nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra
với nhiệm kì là một năm, có quyền biểu quyết và quyền tài phán như thẩm
phán. Sắc lệnh số 85/SL còn quy định về việc thành lập hội đồng hoà giải ở
cấp huyện và mở rộng thẩm quyền cho ban tư pháp xã đối với việc phạt vi

cảnh và giải quyết một số việc ít quan trọng về mặt trị an. Những cải cách này
có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng dân chủ, làm cho cơ quan tư pháp
gần dân, hơn và trở thành công cụ quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ
cách mạng, phục vụ lợi ích của Nhà nước và nhân dân.
1.1.1.3. Tòa án trong hệ thống cơ quan tư pháp thời kỳ 1960-1980
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, tổ chức bộ máy nhà nước ta
đã có những thay đổi căn bản, trong đó tổ chức bộ máy của các cơ quan tư
pháp được quy định tại Chương VIII của Hiến pháp. Các cơ quan tòa án nhân
dân và viện kiểm sát nhân dân đã hình thành một hệ thống thống nhất từ trung
ương xuống địa phương và khơng trực thuộc Hội đồng Chính phủ nữa mà trực
thuộc Quốc hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Hệ thống toà án nhân dân theo Hiến pháp 1959 bao gồm:
Toà án nhân dân tối cao; các toà án nhân dân địa phương (cấp
tỉnh thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện, thành phố trực

13


thuộc tỉnh hoặc đơn vị hành chính tương đương và toà án khu tự trị)
và các toà án quân sự (toà án quân sự trung ương và các toà án quân
sự quân khu, quân binh chủng, sư đoàn trực thuộc Bộ quốc phịng và
tương đương). Ngồi ra, theo Điều 97 Hiến pháp năm 1959, trong
trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết
định thành lập toà án đặc biệt. Hệ thống toà án nhân dân được tổ
chức theo nguyên tắc hai cấp xét xử; các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của toà án nhân dân thời kì 1946-1960 đã được kế thừa và phát
triển ở mức cao hơn, cụ thể là: Khi xét xử, toà án nhân dân có quyền
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 100 Hiến pháp năm 1959);
việc xét xử của toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia…
Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán (Điều 99

Hiến pháp năm 1959); tồ án nhân dân xét xử cơng khai; bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo (Điều 101 Hiến pháp năm 1959); tồ án
xét xử theo ngun tắc mọi cơng dân đều bỉnh đẳng trước pháp luật
(Điều 3 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960)… [20].
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức Toà án
nhân dân được đã được ban hành ngày 14/7/1960 và ngày 23/3/1961, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của toà
án nhân dân các cấp. Theo đó, Toà án nhân dân tối cao có cơ cấu tổ chức
gồm: Uỷ ban thẩm phán; các tồ chun trách (tồ hình sự, tồ dân sự, toà
phúc thẩm); hội đồng toàn thể thẩm phán và bộ máy giúp việc (Điều 1 Pháp
lệnh). Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn với
nhiệm kì 5 năm; các phó chánh án, thẩm phán, thẩm phán dự khuyết và uỷ
viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội bổ nhiệm và bãi nhiệm. Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, có thẩm quyền: Xét xử sơ thẩm

14


các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao và những vụ án của
tòa án nhân dân cấp dưới mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để xử; phúc
thẩm những bản án, quyết định của tòa án nhân dân cấp dưới bị kháng án
hoặc bị kháng nghị; giám đốc thẩm việc xét xử của các tịa án nhân dân địa
phương, tồ án qn sự và toà án đặc biệt; Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao có nhiệm vụ duyệt lại các bản án tử hình của tịa án nhân
dân các cấp trước khi các bản đó được đem thi hành. Cùng với chức năng xét
xử, Toà án nhân dân tối cao còn có các chức năng khác: Có quyền trình các
dự án luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi cơng tác chun mơn
của mình; quản lí các tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức; hướng dẫn
các tòa án nhân dân cấp dưới áp dụng pháp luật; huấn luyện cán bộ toà án;

nghiên cứu khoa học và tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.
Toà án nhân dân cấp tỉnh có cơ cấu tổ chức gồm:
Chánh án, các Phó chánh án các Thẩm phán (do hội đồng
nhân cùng cấp bầu ra và bãi miễn với nhiệm kì 4 năm) và bộ máy
giúp việc. Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ có hội đồng thẩm phán,
khơng có các tồ chun trách. Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự thuộc thẩm
quyền và những vụ án thuộc thẩm quyền của cấp dưới mà tòa án
nhân dân cấp tỉnh lấy lên để xét xử; phúc thẩm những bản án và
quyết định của cấp dưới bị kháng án hoặc bị kháng nghị. tòa án nhân
dân cấp tỉnh còn được giao nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp địa
phương, huấn luyện thư kí tồ án địa phương, cán bộ tư pháp thị trấn,
xã và tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân (Điều 9
Pháp lệnh). Toà án nhân dân cấp huyện có cơ cấu tổ chức gồm:
Chánh án, các Thẩm phán và bộ máy giúp việc; trong trường hợp cần
thiết có thể có Phó chánh án. Thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp

15


huyện là xét xử các vụ án dân sự và những vụ án hình sự có hình
phạt tù từ 2 năm tù trở xuống; hoà giải các việc tranh chấp về dân sự
và phân xử những việc hình nhỏ mà theo luật định khơng phải mở
phiên tồ. Tồ án nhân dân cấp huyện còn có nhiệm vụ xây dựng tổ
chức tư pháp và hướng dẫn cơng tác hồ giải ở xã, phường, thị trấn,
khu phố và tuyên truyền, giáo dục pháp luật [21].
Ngồi ra, trong thời kì này tại hai khu tự trị Tây Bắc và Việt Bắc còn
thành lập hai toà án cấp khu là Toà án khu tự trị Tây Bắc và Toà án khu tự
trị Việt Bắc.
1.1.1.4. Tòa án trong hệ thống cơ quan tư pháp thời kì 1980-1992

Hiến pháp năm 1980 là sự kế thừa các nguyên tắc tổ chức,
hoạt động của ngành tòa án đã được quy định tại Hiến pháp 1959,
nhưng quy định cụ thể hơn, rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của các cơ quan tư pháp và bổ sung thêm một số nguyên tắc,
quy định quan trọng mới [22].
Đối với hệ thống tòa án nhân dân, về cơ bản hệ thống tịa án nhân dân
thời kì này vẫn kế thừa và phát triển mơ hình tổ chức của tịa án nhân dân giai
đoạn trước. Tuy nhiên, đi sâu phân tích thì thấy có nhiều điểm mới, trong đó
có những điểm cơ bản như sau:
Về tổ chức, Toà án quân sự cấp cao trở thành bộ phận của Toà án nhân
dân tối cao; tòa án nhân dân cấp tỉnh thành lập các tồ chun trách (tồ hình
sự, tồ dân sự); tịa án nhân dân cấp huyện được quy định thêm về thư kí tồ
án và chun viên pháp lí giúp việc; Cơ cấu tổ chức Toà án quân sự gồm: Toà
án quân sự cấp cao, các Toà án quân sự quân khu và tương đương và các Toà
án quân sự khu vực; các Toà án quân sự quân đoàn, quân chủng bị giải thể.
Về thẩm quyền xét xử, tòa án nhân dân cấp huyện đã được mở rộng
hơn thẩm quyền:

16


Xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà theo quy định của Bộ
luật hình sự, người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù từ 7 năm tù trở
xuống, trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm nghiêm
trọng, gây hậu quả lớn, các vụ án mà bị cáo phạm tội ở nước ngoài
hoặc do tòa án nhân dân cấp trên lấy lên để xử; xét xử sơ thẩm các
vụ án dân sự, lao động, hơn nhân và gia đình và những vụ án khác
theo luật định, trừ những việc mà đương sự là người nước ngoài.
Toà án quân sự đã chuyển từ hệ thống một cấp xét xử (sơ thẩm
đồng thời chung thẩm - trước năm 1985) sang mơ hình thẩm quyền

xét xử đủ các trình tự như các tịa án nhân dân khác [23].
Nhiệm kì của chánh án, phó chánh án, thẩm phán tòa án nhân dân các
cấp được xác định theo nhiệm kì của cơ quan bầu ra các chức vụ đó.
Quản lí về mặt tổ chức đối với các tịa án nhân dân địa phương và các
Toà án quân sự quân khu và khu vực, thẩm quyền này được giao cho Bộ
trưởng Bộ tư pháp phối hợp với Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ
trưởng Bộ quốc phòng thực hiện.
Viê ̣c tổ chức thực hiê ̣n thi hành án dân sự đươ ̣c chuyể n từ toà án sang
cơ quan thi hành án dân sự thuô ̣c Bô ̣ Tư pháp từ

01/7/1983, nhằ m ta ̣o điề u

kiê ̣n cho toà án tâ ̣p trung vào nhiê ̣m vu ̣ tro ̣ng tâm là hoa ̣t đô ̣ng xét xử.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức hiện nay của Tòa án
Hệ thống cơ quan tư pháp nước ta nói chung, tổ chức Tịa án nói riêng
thời kì 1992 đến nay tiếp tục được củng cố và hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và
phát triển những giá trị và yếu tố hợp lí của hệ thống cơ quan tư pháp các thời
kì trước đồng thời có những cải biến quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới, đặc biệt, sau khi có Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)
và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 02/4/2002.
Theo Điều 2 Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 2002: Ở nước Cộng
hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây:

17


1. Tòa án nhân dân Tối cao;
2. Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
3. Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
4. Các Tòa án quân sự;

5. Các Tòa án khác do luật định.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án
đặc biệt.
* Tòa án nhân dân Tối cao
Tòa án nhân dân Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hồ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân Tối cao là cơ quan xét xử cao
nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của các Tòa án cấp dưới khi có căn cứ kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm và là cơ quan hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong
toàn hê ̣ thớ ng . Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân Tối cao bao gồm:
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, các Phó chánh án và một số Thẩm phán
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án
TANDTC, tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán không quá 17 người
(Điều 21 Luật TCTAND 2002);
* Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (gọi tắt là cấp tỉnh) gồm có:
Uỷ ban Thẩm phán; Tồ Hình sự, Toà Dân sự, Toà Kinh tế, Toà Lao
động, Toà Hành chính; trong trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.
Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc

18


Trung ương bao gồm: Chánh án, các Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
một số Thẩm phán do Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tổng số thành viên Uỷ ban Thẩm phán Tịa án

nhân dân cấp tỉnh khơng quá 9 người. Tuỳ thuộc vào biên chế Thẩm phán của
mỗi địa phương mà số lượng thành viên Uỷ ban Thẩm phán có thể khác nhau,
tối thiểu là 5 và tối đa là 9 người;
* Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Điều 32, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Tòa án nhân
dân cấp huyện ) gồm có : Chánh án , mô ̣t hoặc hai phó chánh án ; các Thẩm
phán và Thư ký Tòa án.
Ở Tịa án nhân dân cấp huyện khơng có bộ máy giúp việc nhưng có một
số cán bộ công chức làm cơng tác văn phịng như: văn thư, lưu trữ, kế toán, thủ
quỹ, bảo vệ … do Chánh án hoặc một Phó chánh án phân cơng phụ trách.
* Các Tồ án quân sự
Các Tòa án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thuộc hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức trong
Quân đội.
Theo quy định tại điều 2 Pháp lệnh tổ chức Tịa án qn sự thì Tịa án
qn sự gồm có:
- Tòa án quân sự trung ương;
- Các Tòa án quân sự quân khu và tương đương;
- Các Tòa án quân sự khu vực.
Căn cứ vào nhiệm vụ và tổ chức của Quân đội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quyết định thành lập, giải thể Tòa án quân sự quân khu và tương đương,
Tòa án quân sự khu vực theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao
sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

19


Thay đổi cơ chế bầu cử thẩ m phán bằng cơ chế bổ nhiệm thẩm phán


.

Nếu như từ năm 1960 Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu thì nay
Hiến pháp 1992 quy định việc bổ nhiệm thẩm phán. Từ năm 1992 đến năm
2002, Thẩm phán các cấp đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm với nhiệm kì 05
năm. Từ năm 2002, theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án, việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương tòa án quân
sự quân khu, Tòa án quân sự khu vực được phân cấp cho Chánh án Tòa án
nhân dân Tối cao theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án có sự thay đổi theo hướng tăng cường
thẩm quyền xét xử các loại án cho Tòa án nhân dân cấp quận huyện và tương
đương. (Tòa án cấp huyện được xét xử những vụ án hình sự đối với tội phạm
có khung hình phạt cao nhất 15 năm tù, được xét xử tất cả các vụ án kinh
doanh thương mại không phụ thuộc vào giá trị tranh chấp, được xét xử một số
vụ án có yếu tố nước ngồi…)
Nhìn lại q trình hình thành và phát triển của hệ thống cơ quan tư
pháp nói chung và Tòa án nói riêng ở nước ta trong hơn nửa thế kỉ qua có thể
thấy rằng hệ thống cơ quan tòa án là bộ phận trọng yếu của bộ máy nhà nước.
Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống các cơ quan Tòa án nước ta
gắn với từng thời kì của cách mạng Việt Nam, tổ chức và hoạt động của Tịa
án ln mang đậm dấu tích lịch sử của mỗi thời kì cụ thể đó. Hiện nay, khi sự
nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đang đặt ra nhiều vấn đề mới, trong
đó có vấn đề cải cách tư pháp, đòi hỏi phải tiếp tục có sự nghiên cứu toàn
diện, cơ bản để xây dựng luận cứ khoa học cho công cuộc cải cách đó. Có
nhiều hướng tiếp cận khác nhau để thực hiện nhiệm vụ này và việc nghiên
cứu, đánh giá từ góc độ lịch sử chắc chắn sẽ là một trong những hướng cần
được tiếp tục thực hiện.


20


×