Hồ Chí Minh (lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất
Thành) sinh ngày 19/5/1890 trong một nhà nho yêu nước gần gũi với nhân
dân,mất ngày 2/9/1969 . Hồ Chủ tịch là người sáng lập ,lãnh đạo và rèn luyện
Đảng ta, là người xây dựng nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam và Mặt trận dân tộc
thống nhất, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam. Trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 năm ngày sinh của Bác có viết : “Người
là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa
xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự lực, tự chủ, tự cường, đổi mới
và sáng tạo.” Thật vậy, ta có thể thấy rõ điều đó trong các hoạt động cách mạng
và những quan điểm tư tưởng của Người.
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam.Cuối thế kỉ XIX
Pháp áp đặt chế độ cai trị trực tiếp đồng thời vẫn duy trì chế độ phong kiến làm
chỗ dựa cho sự thống nhất của chúng.Các phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp xâm lược liên tục nổ ra trên địa bàn cả nước.Sự thất bại của phong trào
Cần Vương đã chấm dứt thời kì đấu tranh chống xâm lược theo hệ tư tưởng
phong kiến. Đầu thế kỉ XX, phong trào nông dân của cụ Hoàng Hoa Thám và
các phong trào yêu nước theo tư tưởng dân chủ tư sản của các cụ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh diễn ra sôi nổi. Tuy vậy các phong trào cứu nước từ lập
trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử
đều lần lượt thất bại vì thiếu đường lối thích hợp, thiếu tổ chức lãnh đạo có khả
năng tập hợp sức mạnh toàn dân tộc.
Trong lúc các phong trào cứu nước bế tắc, tháng 6/1911 người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành(tức lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh) rời tổ
quốc ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc.Sau khi đã nghiên cứu tìm
hiểu cuộc đấu tranh của nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới, tìm hiều Xã hội Tư
bản, năm 1917 , Người trở lại Pháp.Tại đây Người từng bước học tập lý luận,
tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra hội Những người Việt Nam yêu nước.Tháng
7/1920 , Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “ Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và đã tìm thấy trong tư tưởng
1
của Lênin con đường giải phóng đúng đắn và triệt để cho dân tộc Việt Nam
“Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta”.Tháng 12/1920 ,Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp,
tán thành đường lối Quốc tế cộng sản. Từ một người yêu nước trở thành người
cộng sản, Nguyễn Ái Quốc kết hợp tinh thần yêu nước với lập trường của giai
cấp vô sản, lý tưởng của Chủ nghĩa cộng sản.Con đường yêu nước mà Người
khẳng định là gắn giải phóng dân tộc với giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp
và con người : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng dân tộc ,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của Chủ nghĩa cộng sản và
cách mạng thế giới”.
Quan điểm về Độc lập dân tộc
Từ đây Người đã đúc kết và hoàn thiện những quan điểm , tư tưởng về
con đường giải phóng dân tộc.Trong đó, Người đưa ra quan điểm về độc lập dân
tộc , chỉ ra mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội để từ đó
khẳng định độc lập dân tộc phải gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.Theo Người:
Độc lập của Tổ quốc , tự do của nhân dân là thiêng liêng nhất.Người
khẳng định: “Cái mà tôi cần nhất trên đời này là đồng bào tôi được tự do, Tổ
quốc tôi được độc lập.” Khi thành lập Đảng 1930, Người xác định cách mạng
Việt Nam nhằm : “Đánh đổ Đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến để làm
cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”.Năm 1941 Người về nước trực tiếp lãnh
đạo cách mạng, kính báo đồng bào và chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy”.Bởi vậy năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín
muồi Người khẳng định quyết tâm: “Dù có phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập tự do.”
Độc lập-thống nhất-chủ quyền-toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng, bất
khả xâm phạm của một dân tộc.
Khi giành độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.Toàn thể
2
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”(Tuyên ngôn độc lập-1945).
Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự ,phải đi tới dân tộc tự quyết
trên tất cả các mặt chính trị ,kinh tế ,văn hoá , đối nội, đối ngoại. Độc lập thật sự
đòi hỏi phải xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch dân tộc trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, tinh thần.
Độc lập dân tộc phải gắn với hoà bình-một nền hoà bình thực sự, hòa bình
trong độc lập tự do, không phải thứ hoà bình giả hiệu.
Độc lập dân tộc phải đi tới tự do hạnh phúc cuả nhân dân.Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chúng ta giành độc lập tự do rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì
tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ bieté rõ giá trị của tự do độc lập khi
người dân được ăn no mặc đủ”.Bởi vậy “Nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” Dân tộc độc lập phải đi
đến dân có ăn,dân có mặc, dân có chỗ ở, dân có học hành. Đi đến những mục
tiêu đó “để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được tự do độc
lập.”
Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội:
Người xác định : “Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp , trước hết của
công cuộc giải phóng dân tộc khỏi áp bức bóc lột, đô hộ và xâm lược từ bên
ngoài để khẳng định quyền làm chủ đất nước và quyền phát triển dân tộc; là sự
độc lập là tự chủ trong mối quan hệ với các quốc gia,dân tộc khác trong công
đồng thế giới.”
Quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng là quá trình tạo ra tiền đề
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội để dân tộc đi tiếp vào
giai đoạn sau của cuộc cách mạng là tiến hành cách mạng Chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ ra: đi lên Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của
độc lập dân tộc, chỉ xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội thì cách mạng Vệt
3
Nam mới thắng lợi hoàn toàn.Chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội , giai cấp và con người.
Chủ nghĩa xã hội tạo ra cơ sở bảo đảm vững chắc và bền vững nhất cho
độc lập thật sự của dân tộc, vì Chủ nghĩa xãhội sẽ xoá bỏ nguyên nhân kinh tế
sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sih ra.Chủ nghĩa xã hội đưa dân tộc tới sự phát
triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển cao nhất của một xã hội là dân chủ, dân
làm chủ sự phát triển phong phú đa dạng về văn hoá, tinh thần; sự thực hiện đầy
đủ nhất quyền lực của nhân dân, tạo ra cho dân tộc khả năng giữ vững độc lập
và biết tự bảo vệ.Khả năng đó của Chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ tính ưu việt
nôi tại của nó - Chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân là chủ và biết làm
chủ; có nền kinh tế phát triển dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội trên cơ sở khoa học kĩ thuật tiên tiến, có nền văn hoá phát triển cao và
một xã hội công bằng hợp lý.
Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội:
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã sớm thấy
được mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản,nên Người đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”
Năm 1930, khi thành lập Đảng , Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng
Việt Nam làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh(cách mạng dân
tộc dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản(cách mạng xã hội chủ nghĩa). Về sau
Người tổng kết: “Chỉ có Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản mới gải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”
Độc lập dân tộc phải đi tới Chủ nghĩa xã hội mới xoá bỏ tận gốc cở sở áp
bức dân tộc và áp bức giai cấp.Như vậy ở Hồ Chí Minh, yêu nước truyền thống
đã phát triển thành yêu nước trên lập trường của yêu cầu vô sản độc lập dân tộc
gắn với Chủ nghĩa xã hội.
4
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn chỉ ra: đấu tranh cho dân tộc mình, đồng thời
độc lập cho các dân tộc.
Nói đến quyền dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tư do.” Ở Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa yêu
nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.Vì vậy
năm 1914, khi ở Anh , Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng
lương ít ỏi để ủng hộ Quỹ kháng chiến của người Anh và nói với bạn mình:
“chúng ta phải tranh đấu cho độc lập,tự do của các dân tộc khác như là đấu
tranh cho dân tộc ta vậy.”
Một phẩm chất đặc biệt, biểu hiện cụ thể nhất của trí tuệ, nhân cách
tư tưởng của Bác là tinh thần độc lập, tự chủ,tự lực, tự cường. Độc lập, tự
chủ,tự lực, tự cường gắn với đoàn kết và mở rộng hợp tác quôc tế là nội dung
cốt lõi theo tư tưởng Hồ Chí Minh.Người nêu rõ muốn người ta giúp cho, thì
trước hết phải giúp lấy mình đã; tự lực cánh sinh là một truyền thống quý báu
của cách mạng nước ta . Để đảm bảo sự nghiệp giải phóng dân tộc thắng lợi triệt
để thì cuộc cách mạng dân chủ phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Với tư duy độc lập, mang tính sáng tạo cao vượt qua mọi lối mòn của thế
hệ đi trước, tháng 10 năm 1944, trong thư kêu gọi toàn quốc kháng chiến Bác
Hồ đã dự báo: phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt các đồng minh sắp giành
thắng lợi cuối cùng.Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ,
đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.Với Hồ Chí Minh, phát
huy cao độ sức mạnh của dân tộc ,coi nguồn nội sinh giữ vai trò quyết định, còn
ngoại sinh chỉ phát huy tác dụng thông qua nguồn nội sinh trong quá trình thực
hiện kết sức mạnh của hai nguồn lực đó.Người nêu cao tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình là chính, muốn người ta giúp cho thì trước hết phải tự giúp lấy mình đã
“một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập.” Người nói với các dân tộc thuộc địa rằng:
5
“công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em.” Với nhân dân ta, người nêu cao tinh thần: “đem sức ta mà tự
giải phóng ta” và khi đó sẽ góp phần “giúp đỡ những anh em mình ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.Muốn vậy trước hết phải có đường
lối độc lập, tự chủ đúng đắn.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Theo Hồ Chí Minh
“cách mạng không những không phụ thuộc cách mạng vô sản ở chính quyền mà
có thể giành thắng lợi trước” và cách mạng thuộc địa “trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện của Chủ nghĩa tư bản là Chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em của mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn.”
Chỉ có bằng chủ động nỗ lực vượt bậc của các dân tộc thuộc địa thì cách
mạng giải phóng dân tộc mới giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính
quốc được.Vì vậy năm 1945, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân Việt Nam cần phải
đem sức ta tự giải phóng ta.Người khẳng định “ chúng ta thà hi sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu là nô lệ”
Đổi mới sáng tạo
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng
thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện bằng con đường cách mạng
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang nhân
dân, được quyết định bởi các yếu tố: Sự thống trị của thực dân đế quốc ở thuộc
6
địa vô cùng hà khắc không hề có một chút tự do dân chủ nào, không có cơ sở
nào thực hành đấu tranh không bạo lực. Cách mạng dân tộc là lật đổ chế độ thực
dân phong kiến, giành chính quyền về tay cách mạng, nó phải thực hiện bằng
một cuộc khởi nghĩavũ trang. Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định, đó là khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Nhưng sáng tạo và phát triển nguyên lý Mác-Lênin về con đường bạo lực
ở Hồ Chí Minh là ở chỗ:
Khởi nghĩa vũ trang đương nhiên phải dùng vũ khí chiến đấu bằng lực
lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ là một cuộc đấu tranh quân sự, mà là nhân
dân vùng dậy, dùng vũ khí đuổi quân cướp nước. Đó là một cuộc đấu tranh to tát
về chính trị và quân sự là việc quan trọng,làm đúng thì thành công làm sai thì
thất bại.Bởi vậy, con đường cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh là phải xây
dựng hai lực lượng chính trị và vũ trang,trước hết là lực lượng chính trị.
Thực hành con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là tiến hành đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang, khi điều kiện cho phép thì thành đấu tranh ngoại
giao đồng thời phải biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và đấu tranh ngoại giao để giành và giữ
chính quyền.
Mạch tư duy kế thừa đổi mới sáng tạo của Hồ Chí Minh xuất phát từ tấm
lòng yêu nước của một người cộng sản ở nước thuộc địa phương Đông. Điểm
xuất phát có tính chất nền tảng đó không giống các điều kiện của Mac-Ănghen-
Lênin. Tuy nhiên , vẫn trên cơ sở lấy lý luận của Chủ nghĩa Mac-Lênin soi
đường, Hồ Chí Minh đã có những tư duy mới mẻ, táo bạo và rất độc đáo. Người
viết : “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây.Xem xét
lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm.”
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động
lực lớn của đất nước.Nguyễn Ái Quốc đã có sáng tạo lớn là Người xuất phát từ
7
đặc điểm kinh tế của các nước thuộc địa ở Đông Dương còn lạc hậu,nên phân
hoá giai cấp chưa triệt để, đấu tranh gia cấp ở đây diễn ra không giống như ở
phương Tây.Trái lại các giai cấp ở Đông Dương vẫn còn tương đồng lớn : Dù là
địa chủ hay người dân, họ đều là người nô lệ mất nước.Vì vậy theo Nguyễn Ái
Quốc trong cách mạng giải phóng dân tộc, người ta sẽ không thể làm gì cho
người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống
xã hội của họ là tình yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính.Nguyễn Ái Quốc
chủ trương: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc Tế Cộng
Sản.Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy biến
thành Chủ Nghĩa Quốc Tế.
Những quan điểm có tính chất kế thừa, đổi mới đó đưa Hồ Chí Minh đến
thành công trong việc đánh giá Chủ nghĩa thực dân là con đỉa hai vòi. Nếu người
ta muốn giết con vật ấy, người ta đồng thời phải cắt cả hai vòi. Người phân biệt
rõ: Việt Nam đuổi Pháp là “dân tộc cách mệnh”, cách mạng Nga đuổi tư bản là
“giai cấp cách mệnh”. Hai thứ cách mạng này có quan hệ với nhau nhưng không
phải là một.
Không chỉ đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực chính trị,Hồ Chí Minh đã có
quan điểm kế thừa, đổi mới, sáng tạo hết sức toàn diện trên cả lĩnh vực kinh tế
và văn hoá , đạo đức, lối sống và các lĩnh vực khác.Trong lĩnh vực kinh tế,
Người chủ trương con đường công nghiệp hoá nước nhà, nền kinh tế nhiều
thành phần. Muốn vậy phải tiết kiệm và tích luỹ vốn.Người nhận thức và phân
tích sáng rõ “tiết kiệm” và “bủn xỉn”: “Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu
cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm,việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ
quốc thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cải cũng vui lòng”. Trong lĩnh
vực văn hoá, đạo đức, lối sống, tư duy của Người là luôn “mở rộng kiến thức
của mình về văn hoá thế giới” ; “Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ
đi hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ Cái gì cũ mà
không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phát
triển thêm. Thí dụ : Ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với
8
dân hơn trước. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm.” Trong chính sách đối ngoại
cũng có đổi mới, sáng tạo. Chẳng hạn như chính sách đối ngoại từ năm 1947,
Người khẳng định : “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán
với một ai”.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh, chúng ta cần phải học tập và vận dụng quan điểm
kế thừa, đổi mới sáng tạo, cách mạng mới thành công.Trong lãnh đạo cách mạng
nước ta, Đảng coi việc quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung,
tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và đã đạt được
những thắng lợi to lớn.Thực tế đã cho thấy tư tưởng độc lập gắn với Chủ nghĩa
xã hội là hoàn toàn đúng đắn
Đại hội X (năm 2006) xác định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ
vững môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới và hoà bình, độc lập dân tộc , dân chủ và tiến bộ xã
hội”. Đây là việc tiếp tục thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của Đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, được khẳng định ở Đại hội VIII là: “Độc lập ,tự
chủ, mở rộng quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.”
Thực tiễn những năm đầu thế kỉ XXI xác nhận rằng, nhận thức về quy
luật phát triển xã hội loài người của Đại hội IX là đúng đắn: “Toàn cầu hoá kinh
tế và xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt
tích cực và mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…Thế giới đứng trước
nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết
nếu không có sự hợp tác đa phương…”. Như vậy, đường lối đối ngoại của Đảng
9
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vừa hội nhập vào quốc tế và khu vực, vừa giữ
vững độc lập, tự chủ, bản sắc dân tộc, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt đường lối của Đảng về quan hệ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác đối ngoại. Đến
nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước trên thế giới, trong đó
có tất cả các nước lớn,kể cả 5 quốc gia là Uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo
an Liên Hợp Quốc, nhiều tổ chức quốc tế, khu vực và trung tam chính trị kinh tế
quan trọng. Chúng ta có quan hệ buôn bán với nhiều nước và lãnh thổ, quan hệ
đầu ư phát triển với trên 40 nước. Thị trường ngày càng mở rộng, đối tác ngày
càng nhiều, quan hệ tài chính tiền tệ với các tổ chức quốc tế và các nước được
khai thông, tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể. Đồng thời chúng ta còn phải
tuân thủ giải quyết nhiều vấn đề tồn tại phức tạp như vấn đề lãnh thổ, nhân
quyền, tôn giáo. Công tác hôi nhập kinh tế quốc tế và khu vực được đẩy mạnh,
góp phần tranh thủ sự hợp tác, nhất là hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư và du
lịch. Vị thế của đất nước đang được nâng cao.
Việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEM(năm 2005) và hội nghị
APEC14 (năm 2006) tại Hà Nội không những gây ấn tượng tốt đối với cộng
đồng quốc tế và có những đóng góp thiết thực vào quá trình phát triển của
ASEM mà còn mở ra nhiều cơ hội hợp tác song phương với nhiều đối tác
ASEM ở nhiều lĩnh vực với 45 hiệp định và thoả thuận được kí kết…Sự tham
gia tích cực và những đóng góp thiết thực của Việt Nam được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao.
Năm 2009, Ban Chỉ đạo T.Ư đã vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh". Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh" có ý nghĩa cực kỳ quan trọng góp phần xây dựng đạo
đức - nền tảng tinh thần của xã hội. Do vậy, Cuộc vận động cần phải được tiến
hành bền bỉ, thường xuyên, liên tục để học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Người trở thành nền nếp và hành động tự giác của cán bộ, đảng viên và các
10
tầng lớp nhân dân. Trên tinh thần ấy, từ đầu năm đến nay, toàn Ðảng, toàn quân
và toàn dân ta đã triển khai thực hiện Cuộc vận động lớn ngày càng sâu rộng,
thật sự đi vào cuộc sống. Chất lượng hiệu quả thực hiện Cuộc vận động ngày
càng được nâng lên theo thời gian. Ðã xuất hiện ngày càng nhiều tập thể, cá
nhân tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ bằng
những việc làm cụ thể, thiết thực. Ở tất cả các cấp, các ngành, địa phương và
đơn vị đã xuất hiện ngày càng nhiều cách làm cụ thể, sáng tạo trong việc tổ chức
thực hiện Cuộc vận động và trong việc tổ chức, động viên cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân làm theo tấm gương của Người về đức tính cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư : “ Trời có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, đất có bốn
phương: đông, tây, nam, bắc, người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính.”
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các quan điểm cơ bản về giải phóng dân
tộc, giai cấp và con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân và khối
đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự
của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân; tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau; tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch,
vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người công bộc thật
trung thành của nhân dân.Người ra đi để lại cho dân tộc ta nhiều bài học quý giá,
Người là tấm gương sáng của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới
sáng tạo cho tất cả chúng ta noi theo và học tập. Cho đến nay tư tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội của Người được Đảng vận dụng và thực
hiện rất thành công đưa nước ta đi lên sánh vai với các cường quốc năm châu.
11