Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Sự độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 143 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ THỊ AN





SỰ ĐỘC LẬP TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
CỦA TOÀ ÁN TẠI VIỆT NAM


Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60.38.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG


Hà Nội - 2010



3
MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN LÀ MỘT NGUYÊN TẮC CỦA
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 6
1.1. Tại sao trong Nhà nước pháp quyền, toà án phải độc lập 6
1.2. Những yêu cầu của toà án độc lập 20
1.2.1. Toà án độc lập về mặt thể chế 24
1.2.2. Toà án phải có hành chính nội bộ riêng 34
1.2.3. Thẩm phán phải độc lập 37
1.3. Toà án độc lập ở một số quốc gia điển hình 41
1.3.1. Toà án độc lập ở Mỹ 41
1.3.2. Toà án độc lập ở Vương quốc Anh 47
1.3.3. Toà án độc lập ở Pháp 51
Chƣơng 2: NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN Ở VIỆT NAM 68
2.1. Khái quát về hệ thống toà án Việt Nam 68
2.2. Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam 75
2.2.1. Khái niệm về tính độc lập của toà án ở Việt Nam 75
2.2.2. Những khía cạnh chính của nguyên tắc độc lập toà án ở Việt Nam 87
Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT CỤ THỂ ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP XÉT XỬ TẠI VIỆT NAM
3.1. Sự độc lập của toà án không giản đơn chỉ có trong giai đoạn xét xử 118
3.2. Tăng cường trách nhiệm của thẩm phán 120
3.3. Nhiệm kỳ của thẩm phán phải vững chắc và lâu dài 123
3.4. Chế độ lương bổng cho thẩm phán phải được đảm bảo 127
3.5. Thẩm phán phải xét xử theo lương tâm 129

KẾT LUẬN 134
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 136



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ THỊ AN





SỰ ĐỘC LẬP TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
CỦA TOÀ ÁN TẠI VIỆT NAM


Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60.38.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG



Hà Nội - 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Vũ Thị An




3
MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN LÀ MỘT NGUYÊN TẮC CỦA
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 6
1.1. Tại sao trong Nhà nước pháp quyền, toà án phải độc lập 6
1.2. Những yêu cầu của toà án độc lập 20
1.2.1. Toà án độc lập về mặt thể chế 24
1.2.2. Toà án phải có hành chính nội bộ riêng 34
1.2.3. Thẩm phán phải độc lập 37
1.3. Toà án độc lập ở một số quốc gia điển hình 41
1.3.1. Toà án độc lập ở Mỹ 41
1.3.2. Toà án độc lập ở Vương quốc Anh 47
1.3.3. Toà án độc lập ở Pháp 51
Chƣơng 2: NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN Ở VIỆT NAM 68
2.1. Khái quát về hệ thống toà án Việt Nam 68
2.2. Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam 75
2.2.1. Khái niệm về tính độc lập của toà án ở Việt Nam 75
2.2.2. Những khía cạnh chính của nguyên tắc độc lập toà án ở Việt Nam 87
Chƣơng 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT CỤ THỂ ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC ĐỘC LẬP XÉT XỬ TẠI VIỆT NAM
3.1. Sự độc lập của toà án không giản đơn chỉ có trong giai đoạn xét xử 118
3.2. Tăng cường trách nhiệm của thẩm phán 120
3.3. Nhiệm kỳ của thẩm phán phải vững chắc và lâu dài 123
3.4. Chế độ lương bổng cho thẩm phán phải được đảm bảo 127
3.5. Thẩm phán phải xét xử theo lương tâm 129
KẾT LUẬN 134
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 136




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo công tác tư pháp nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Ngày 02-01-2002,
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” nhằm giải quyết một bước những hạn
chế, vướng mắc bức xúc nhất của công tác tư pháp đã tồn tại trong nhiều năm;
tiếp đó, đã ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm đổi mới đồng bộ, toàn diện nền tư pháp
nước nhà. Trong công cuộc cải cách tư pháp Đảng ta đã xác định trong hệ
thống các cơ quan tư pháp: Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm.
Do vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của toà án nói chung và nâng cao
chất lượng của hoạt động xét xử nói riêng là một trong những vấn đề quan
trọng nhất, có ảnh hưởng mang tính quyết định tới thành công của tiến trình
cải cách tư pháp.
Với nhận thức như vậy, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đưa
ra nhiều chủ trương, chính sách và chỉ đạo các cơ quan hữu quan có các biện
pháp nhằm định vị rõ hơn vị thế, vai trò của toà án trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; hoàn thiện
một bước cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của hệ thống toà án, tăng cường năng
lực cho thẩm phán trong việc ra các phán quyết tư pháp. Điều này thể hiện rõ
nét nhất qua việc triển khai chủ trương tăng thẩm quyền xét xử về hình sự,
dân sự cho toà án nhân dân cấp huyện và nâng cao chất lượng tranh tụng tại
các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

2

Tuy nhiên, vị trí, tầm quan trọng của toà án trong tổng thể thực hiện
quyền lực nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ; hoạt động xét xử chưa được
xem xét dưới góc độ phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng
Nhà nước pháp quyền; tổ chức bộ máy và thẩm quyền của hệ thống toà án
chưa được đổi mới cơ bản; năng lực, trình độ của thẩm phán chưa đáp ứng
được yêu cầu của tình hình mới, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế; tỷ lệ bản án, quyết định của toà án bị huỷ, sửa chưa giảm mạnh
Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
quan trọng là nguyên tắc “độc lập xét xử” chưa được chính thức coi là tiêu
chí, mục đích của các nhiệm vụ cải cách tư pháp; các yếu tố bảo đảm thực thi
nguyên tắc hiến định “ Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật” [23, Điều 130, tr.21] chưa được xem xét, đổi mới
và áp dụng triệt để; quá trình ra quyết định, bản án của thẩm phán còn bị tác
động bởi nhiều mối quan hệ xã hội.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực
hiện các cam kết quốc tế trong bối cảnh nước ta trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức thương mại thế giới đã làm cho việc chú trọng bảo đảm trên
thực tế nguyên tắc độc lập xét xử vừa là yêu cầu, vừa là nhu cầu khách quan
và bức thiết.
Công tác nghiên cứu những vấn đề lý luận về mối quan hệ của nguyên
tắc độc lập xét xử với điều kiện đặc thù nhất nguyên chính trị và thực thi
thống nhất quyền lực nhà nước ở nước ta nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc
nhận thức đúng, chính xác về vai trò của toà án cũng như sự độc lập xét xử, từ
đó thể chế hoá đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải
cách tư pháp, phù hợp với pháp luật quốc tế vẫn chưa được làm sáng tỏ.

3
Với những lý do trên, việc nghiên cứu Sự độc lập trong hoạt động xét xử
của Tòa án tại Việt Nam, nhằm kiến nghị các giải pháp bảo đảm thực thi có

hiệu quả nguyên tắc hiến định về độc lập xét xử trên cơ sở phân tích, so sánh,
đánh giá có hệ thống và khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về độc
lập xét xử ở Việt Nam là hết sức cấp thiết.
2. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [3, tr.1], Chiến lược cải cách tư pháp
đã xác định tổ chức các cơ quan tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại, trong
đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Theo
định hướng của Chiến lược cải cách Tư pháp, sẽ tiến tới tổ chức hệ thống Toà
án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, sẽ có toà
sơ thẩm, toà phúc thẩm, toà thượng thẩm và Toà án nhân dân tối cao. Do vậy,
việc thực hiện đề tài nghiên cứu Sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa
án tại Việt Nam có cơ sở khoa học và thực tiễn chủ yếu sau đây:
1. Mặc dù nguyên tắc về sự độc lập của hoạt động xét đã được quy định
ngay từ Hiến pháp 1946 và khẳng định trong tất cả các Hiến pháp tiếp theo,
tuy nhiên, trên thực tế, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
thiết chế chính trị, đặc biệt là của Đảng vẫn còn có quá nhiều "áp lực" đối với
hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử. Vai trò và vị trí của Toà án trong cơ
chế quyền lực chưa thực sự xứng đáng với chức năng, nhiệm vụ của nó trong
cơ chế của nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cần có sự thay
đổi cơ bản về các phương thức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Toà án
cũng như toàn bộ hệ thống Tư pháp để đảm bảo sự độc lập của hoạt động xét xử.
2. Về các nghiên cứu khoa học trong nước, hiện nay mới có một số bài
nghiên cứu về một số khía cạnh của độc lập xét xử nhưng chưa chú trọng tới

4
việc phân tích có hệ thống và toàn diện về sự độc lập xét xử. Chưa có công
trình khoa học cấp nhà nước hoặc cấp bộ/ngành nào tập trung nghiên cứu về
độc lập xét xử nói chung. Một số nghiên cứu tổng quan về cải cách tư pháp

cũng chỉ đề cập sơ lược về độc lập xét xử.
Với việc nghiên cứu đề tài này, tác giả hi vọng sẽ có được những kết
luận và kiến nghị xác đáng về các giải pháp bảo đảm sự độc lập trong hoạt
động xét xử của toà án tại Việt Nam.
3. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về độc lập xét xử để từ đó
góp phần đưa nguyên tắc độc lập xét xử thực sự phát huy hiệu quả ở Việt Nam.
Cụ thể, luận văn cần đạt được các mục tiêu chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về độc lập xét xử ở Việt
Nam: phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của sự độc lập trong hoạt động
xét xử của tòa án.
- Thứ hai, làm rõ pháp luật đã ghi nhận, thể hiện như thế nào về sự độc
lập trong hoạt động xét xử của tòa án.
- Thứ ba, phân tích thực tiễn hoạt động xét xử ở Việt Nam xét từ góc độ
bảo đảm sự độc lập của tòa án (việc thực thi quy định pháp luật hiện hành liên
quan đến độc lập xét xử và đánh giá thực tiễn áp dụng các yếu tố bảo đảm
thực thi độc lập xét xử trong những năm qua ở Việt Nam; phân tích tính đặc
thù, vị trí, vai trò của thẩm phán và toà án trong mối quan hệ với vấn đề độc
lập xét xử ở nước ta; phân tích các mối quan hệ xã hội ảnh hưởng tới quá
trình ra quyết định của thẩm phán);
- Thứ tư, đề xuất, kiến nghị về các giải bảo đảm sự độc lập xét xử của tòa án
4. Nội dung của đề tài
Luận văn gồm mở đầu, ba chương và Kết luận. Cụ thể như sau:

5
Chương 1: Độc lập của toà án là một nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền. Chương này làm rõ các nội dung:
1. Tại sao trong Nhà nước pháp quyền, toà án phải độc lập
2. Những yêu cầu của toà án độc lập
3. Toà án độc lập ở một số quốc gia điển hình

Chương 2: Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án ở Việt
Nam. Chương này làm rõ hai nội dung lớn nhất:
1. Khái quát về hệ thống toà án Việt Nam qua các bản Hiến pháp
2. Thực trạng nguyên tắc độc lập xét xử của toà án tại Việt Nam.
Chương 3: Những đề xuất cụ thể để đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc
lập xét xử tại Việt Nam
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: giải thích, so sánh, phân tích,
tổng hợp … cũng sẽ được sử dụng để hoàn thành mục tiêu của đề tài.



6
Chương 1
ĐỘC LẬP CỦA TOÀ ÁN LÀ MỘT NGUYÊN TẮC
CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

1.1. TẠI SAO TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN, TOÀ ÁN PHẢI
ĐỘC LẬP
Trong các xã hội tiền tư bản, quyền tư pháp chưa tách khỏi quyền lập
pháp và hành pháp. Tư pháp chưa tách thành một hệ thống độc lập.
Trong xã hội hiện đại, các nhà nước đều thừa nhận sự tách biệt của
quyền tư pháp khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp, đồng thời thiết lập
một hệ thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp, được gọi là toà án.
Thuật ngữ “Toà án” theo tiếng Latinh là Forum, nghĩa là nơi công đường, nơi
hoạt động của cộng đồng được tiến hành. Theo nghĩa đó, từ khi có Nhà nước,
có hoạt động xét xử thì đã có Toà án. Nhưng Toà án với cách hiểu như hiện
nay là một hệ thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp thì chỉ có trong

xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa.
Một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao tòa án phải độc lập? Câu trả lời được
tìm thấy trong khái niệm “Nhà nước pháp quyền”.
Ngày nay, khái niệm “Nhà nước pháp quyền” đã trở thành một trong
những giá trị cơ bản nhất của một xã hội dân chủ và đã được các học giả, luật
gia, chính quyền và các tổ chức quốc tế công nhận một cách rộng rãi. Có thể
nói, Nhà nước pháp quyền là một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước phúc
đáp một cách đầy đủ nhất các nhu cầu dân chủ và đang là một xu hướng tất
yếu của quá trình chính trị hiện đại. Mọi nhà nước muốn trở thành dân chủ,
muốn trở thành văn minh đều phải hướng tới không phân biệt chế độ chính
trị. Việc các Đại hội Đảng gần đây của nước ta đều quan tâm mong muốn xây

7
dựng một Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quan điểm
hoàn toàn đúng đắn.
Mặc dù cho đến cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về
“Nhà nước pháp quyền”, song về cơ bản, Nhà nước pháp quyền có những đặc
trưng - giá trị cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đó là tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật là cơ
sở của mọi hình thức tổ chức quyền lực công khai. Mọi đường lối, chính sách
và quyết định của nhà nước đều phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các
mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và cá nhân cũng phải dựa trên cơ sở của
pháp luật. Khác với nhà nước pháp trị, pháp luật của nhà nước pháp quyền
phải vươn tới sự đầy đủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và với mục tiêu: vì
con người, vì quyền con người. Khi một quốc gia không tôn trọng nguyên tắc
pháp trị, thì người bị trị không thể nào được che chở hữu hiệu trước những
hành động bột phát của những người cầm quyền. Nhưng sẽ không có một hệ
thống pháp luật nào có thể hoạt động một cách tự động, vô nhân tính và chính
xác như một cái máy. Luật pháp không tự nó mà có, không tự nó thi hành mà
đều phải thông qua con người. Chính con người làm ra pháp luật, con người

thực thi pháp luật và cũng chính con người giải thích pháp luật. Trong mọi
trường hợp, con người cần phải kìm hãm và chế ngự bằng pháp luật.
Thứ hai, quyền tối thượng của Hiến pháp. Tất cả các thành viên của
chính phủ cho đến các nghị sỹ của Quốc hội, các nhân viên của nhà nước từ
trung ương tới địa phương dù bầu hay chỉ định đều phải tuyên thệ ủng hộ
Hiến pháp và đều có thể bị truy tố khi vi phạm Hiến pháp. Trong Nhà nước
pháp quyền, lập pháp cũng bị hạn chế, cũng trở thành đối tượng cần phải xét
xử của tư pháp khi lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền có mục tiêu bảo đảm quyền tự do của con
người, đối lập với nhà nước bạo lực. Tính tối cao của pháp luật chưa chắc đã

8
là đặc điểm riêng có của Nhà nước pháp quyền. Bởi cũng tính tối cao có thể
có và cũng rất cần có trong nhà nước cực quyền, bao gồm những đạo luật
phản nhân quyền, tước bỏ mọi quyền của công dân. Điều đó có nghĩa là nhà
nước thừa nhận và có nghĩa vụ bảo đảm, không được can thiệp vô hạn vào đời
sống cá nhân của con người. Pháp luật phải thể hiện là pháp luật của công lý,
của lý trí và phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người. Nhà nước được xây
dựng trên nền tảng của xã hội công dân - một xã hội mà ở đó công dân là chủ
thể, nhà nước có trách nhiệm phải phục tùng lợi ích của công dân, mà không
có điều ngược lại. Pháp luật phải đứng trên nhà nước và nhà nước phải có
nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Để đảm bảo cho tính chất này, nhà nước phải nêu
cao vai trò của toà án. Tính độc lập của toà án được tuân thủ một cách nghiêm
ngặt. Chỉ có toà án mới có chức năng phán xét các tranh chấp, mâu thuẫn
trong xã hội.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được thành lập từ đa số,
nhưng lại phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của những người yếu, của
thiểu số, cá nhân. Khi cá nhân tham gia cùng đa số để thành lập ra nhà nước
với mục đích, hay là chí ít cũng tin rằng nhà nước sẽ là người bảo vệ mình
hữu hiệu nhất, so với bất kể một chủ thể nào trong xã hội, trong những trường

hợp đặc biệt bị rơi vào hoàn cảnh thiểu số, nhất là trong trường hợp bị nghi
can là tội phạm. Trong trường hợp họ rơi vào tình trạng thiểu số của sự thành
lập ra bộ máy nhà nước là họ có một mong muốn một nhà nước với thành
phần cơ cấu khác hơn, với chính sách khác hơn chứ không phải họ không cần
đến nhà nước. Nhưng theo luật quy định, thì lá phiếu của họ không rơi vào
phía đa số nên không có giá trị cho việc thành lập một nhà nước theo cơ cấu
cũng như thành phần và chính sách của họ. Điều đó không có nghĩa nhà nước
được thành lập theo đa số kia không có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của
thiểu số không bỏ phiếu, mà điều ngược lại, nhà nước không những chỉ có

9
trách nhiệm phải bảo vệ quyền lợi của đa số - của những người đã bỏ phiếu
cho đa số mà còn phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của thiểu số - của cả
những người không bỏ phiếu. Bởi một lẽ đơn giản rằng, một khi nhà nước
được thành lập thì nhà nước phải là người đại diện chung cho toàn xã hội chứ
không phải chỉ là của đa số nói trên. Nhưng dẫu sao đi nữa, dân chủ thường
được hiểu ở nghĩa đơn giản, thuần tuý là sự cai trị của đa số, là biện pháp loại
bỏ quyền của những người thiểu số; quyền của cá nhân thường sẽ không được
tôn trọng. Dân chủ theo nghĩa thuần tuý là một phương pháp mà nhờ đó ý chí
của nhà nước được xây dựng bởi đa số. Trong khi đó, nhân dân trong cộng
đồng hình thành nên quốc gia thường là rất đa dạng với nhiều giác độ khác
nhau và có những quyền lợi khác nhau như: chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp, lứa tuổi, lãnh thổ, giai cấp, trình độ…. Có người thì ở đa số này,
nhưng có người lại ở số ít, thiểu số kia. Nhưng cả hai đều phải có nghĩa vụ
đóng góp cho nhà nước. Trong khi đó dân chủ đang tồn tại như là một nguyên
tắc tối quan trọng trong việc tổ chức và hoạt động của nhà nước thời hiện đại,
nên việc quyết định theo đa số đang là một tiêu chí cho nhiều các quyết định
khác của cơ quan nhà nước. Khía cạnh thứ hai của vấn đề còn ở chỗ không
phải lúc nào đa số cũng đúng, hay nói cách khác, sự đúng và đa số không phải
lúc nào cũng là một. Vì vậy trong nhiều trường hợp không nên lấy quyết định

của đa số áp đặt cho thiểu số, bất chấp mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Dân chủ
và sự đúng không nên được hiểu ở nghĩa đơn giản và thuần tuý. Cái khó của
một nhà nước dân chủ không thuần tuý là biết bảo vệ quyền lợi của thiểu số
và của cá nhân. Trong một xã hội văn minh, của một nền dân chủ không thuần
tuý, nguyên tắc đa số chỉ thành công khi bảo đảm được quyền của thiểu số và
của cá nhân. Quyền của họ phải được bảo vệ bằng hiến pháp và luật pháp chứ
không thể bằng lòng tốt của đa số. Quyền được công bằng trước pháp luật hay

10
nói cách khác là được bảo vệ ngang nhau là một trong những yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền.
Trong bộ máy nhà nước, nhiều cơ quan được thành lập bằng phương
pháp bầu cử lấy đa số làm chuẩn mực phân biệt sự thành công hay thất bại.
Lập pháp và hành pháp, tức là Quốc hội và Tổng thống đều được thành lập từ
phương pháp bầu cử nên hoạt động của hai cơ quan cơ bản này đều buộc phải
thể hiện ý chí của đa số. Khi đó họ không có động tác tính đến quyền lợi của
thiểu số. Chỉ còn lại một cơ quan tư pháp - toà án không được thành lập bằng
cơ sở này mà do sự bổ nhiệm của cấp trên sẽ rất có khả năng bảo vệ quyền lợi
của thiểu số và quyền lợi của cá nhân. Một nhà nước dân chủ, muốn thực hiện
tốt chức năng bảo vệ thiểu số và quyền lợi của cá nhân phải tăng cường hoạt
động của tư pháp.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền là một nhà nước bị hạn chế quyền lực
mà không phải là một nhà nước cực quyền chuyên chế, với mục đích bảo vệ
quyền con người. Muốn thế, nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc
phân quyền. Mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật. Mọi sự tập quyền hay những mưu mô của
tập quyền đều tạo điều kiện cho sự lạm dụng quyền lực. Nhà nước pháp
quyền được tổ chức để không ai có thể lạm dụng quyền lực, chống người
khác, mưu lợi cho bản thân. Muốn không có sự lạm dụng quyền lực thì phải
sắp xếp quyền lực sao cho quyền lực ngăn chặn quyền lực. Quyền lực của nhà

nước phải được kiểm soát từ nhiều giác độ khác nhau. Bên cạnh việc phân
chia quyền lực là việc các cành quyền lực phải tạo ra những kinh nghiệm hoạt
động và những tâm lý nghề nghiệp riêng. Và bản thân từng cành quyền lực
cũng phải có những đòi hỏi riêng khác với chính các cành quyền lực nhà nước
đó trong trạng thái của một nhà nước không tuân thủ tiêu chí của Nhà nước
pháp quyền. Cành quyền lực lập pháp không những bị kiểm soát, bị hạn chế

11
như những cành quyền lực khác trong cơ cấu nhà nước, mà còn đòi hỏi tính
cẩn trọng trong việc thi hành các chức năng lập pháp của mình. Đối với cành
quyền lực hành pháp bên cạnh việc bị hạn chế theo tiêu chuẩn phải tuân theo
pháp luật là đòi hỏi tính trách nhiệm của Chính phủ cho việc phát triển và tồn
vong của đất nước. Nhà nước pháp quyền phải nhận thấy tầm quan trọng của
Chính phủ - hành pháp trong vai trò là trọng tâm của toàn bộ bộ máy nhà
nước. Đối với cành quyền lực tư pháp, bên cạnh việc cũng bị hạn chế trong
việc phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nhưng lại khác với cành lập
pháp và hành pháp là việc tư pháp ngày càng can thiệp sâu vào các hoạt động
của xã hội và phải có trách nhiệm loại trừ mức thấp nhất những oan sai trong
hoạt động xét xử của mình. Một trong những đòi hỏi của tư pháp trong nhà
nước pháp quyền là phải độc lập trước các cành quyền lực khác của nhà nước.
Khi vai trò của các nhà lập pháp và quan toà được trao cho hai cơ quan khác
nhau, sự quản lý tuỳ tiện sẽ không còn hoặc ít nhất là có cơ sở cho việc bị hạn
chế. Khi quyền làm luật được tách khỏi quyền hiểu, tức là quyền giải thích và
áp dụng luật thì chính nền tảng của pháp quyền sẽ được tăng cường. Tính độc
lập của tư pháp cho phép toà án đưa ra những phán quyết đúng đắn, không
những số đông của đa số nhân dân phản đối vì không kịp nhận ra, mà còn có
thể chống lại quyền lợi của các cành quyền lực nhà nước khác. Tổng thống,
các bộ trưởng và các nhà lập pháp đôi khi phải vội vã tìm giải pháp tiện lợi
mang tính tình thế cho một vấn đề nóng bỏng cần phải giải quyết ngay. Một
bộ máy độc lập bình tĩnh phải có trách nhiệm tìm ra tác hại của những giải

pháp tình thế đối với các quyền lợi và tự do của công dân. Nhưng để các toà
án có hiệu quả, các nhà cai trị cũng cần phải tuân thủ pháp luật. Hệ thống tư
pháp cần phải đưa ra những đối trọng đối với những hành động tuỳ tiện của
nhà nước. Việc buộc các nhà cai trị phải tuân theo luật pháp đã tồn tại từ rất
lâu như một mong muốn của dân chủ. Khi các nhà cai trị chấp nhận vấn đề

12
này thì vấn đề cần phải đặt ra ngay là phải có những thể chế cụ thể quyết định
trong trường hợp nào các cơ quan nhà nước vi phạm pháp luật và các biện
pháp trừng phạt hợp lý kèm theo.
Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền là nhà nước của pháp luật chứ không
phải là nhà nước của cá nhân. Tư tưởng này có từ thời Aristotle. Trong bản
hiến pháp lần đầu tiên ở Mỹ cũng diễn đạt tư tưởng này.
Trong khoa học luật Hiến pháp cũng như Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, chúng ta có thể gặp những hình thức nhà nước rất khác nhau. Dưới
góc độ cơ cấu lãnh thổ hình thành, dù là nhà nước liên bang hay nhà nước đơn
nhất đều cần phải là Nhà nước pháp quyền nếu nhà nước ấy muốn trở thành
nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hay nói cách khác, nhà nước pháp quyền không phụ thuộc vào hình thức liên
bang hay đơn nhất. Nhưng ở phương diện khác, Nhà nước pháp quyền không
thể có trong nhà nước quân chủ - nơi không có sự tham gia của nhân dân vào
tổ chức và hoạt động của nhà nước - mà chỉ có ở chính thể cộng hoà, tức là
chính thể dân chủ. Song, cả hai cách phân tích hình thức nhà nước như trên
đều không thấy được vị trí vai trò của các cơ quan tư pháp. Chỉ khi phân tích
hình thức Nhà nước pháp quyền hay không là Nhà nước pháp quyền, nhà
nước nhân trị, nhà nước cực quyền, nhà nước pháp trị…, nhà nước mới được
xem xét toàn diện hơn, cho phép thấy được vị trí vai trò của toà án và giá trị
của con người nằm trong các bảo đảm an bình của một xã hội công dân. Nhà
nước pháp quyền là một hình thức nhà nước được phân tích trong mối tương
quan giữa nhà nước và pháp luật. Nhà nước pháp quyền thể hiện tính dân chủ,

tính quy luật cần phải tiến tới của nhân loại.
Đến nay, nhiều tài liệu khoa học lý giải và phát triển các lý thuyết và mô
hình lý tưởng về Nhà nước pháp quyền từ các cách nhìn khác nhau: các học

13
thuyết theo trường phái hình thức, các học thuyết theo trường phái nội dung
và mô hình kết hợp hai trường phái này.
Cho dù tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền theo trường phái nào đi
nữa thì nội dung trọng tâm của nguyên tắc Nhà nước pháp quyền vẫn là việc
kiềm chế quyền lực nhà nước bằng pháp luật hay nói cách khác, chính quyền
hay nhà nước phải chịu sự kiềm chế của pháp luật, và mỗi hành vi của chính
quyền đều phải có cơ sở pháp lý. Nhìn từ góc độ khác của nội dung trung tâm
này thì thấy rằng không chỉ các cơ quan nhà nước mà ngay cả bất cứ cá nhân
nào cũng đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải có vai trò tối thượng
trong việc điều chỉnh các hoạt động xã hội. Thế nhưng một điều hiển nhiên là,
cho dù pháp luật có được định nghĩa như thế nào đi nữa thì đã có pháp luật tất
yếu sẽ có vi phạm pháp luật. Khi xuất hiện vi phạm pháp luật thì bắt buộc
phải có chế tài vì nếu không thì pháp luật sẽ không thực hiện được chức năng
mà nó phải thực hiện, và như thế, dần dần nó sẽ mất đi vai trò của mình trong
việc điều tiết, quản lý xã hội. Thế nhưng, pháp luật thì cũng chỉ là một “thực
thể vô tri” do con người tạo ra, nó không có khả năng tự bảo vệ mình. Cần
phải có ai đó hoặc cơ quan nào đó được giao thẩm quyền để bảo đảm sự thực
thi của pháp luật. Về lý thuyết, người đó hoặc cơ quan đó có thể đến từ một
trong ba nhánh quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, hoặc tư pháp. Tuy
nhiên trên thực tế thì nhánh lập pháp không đủ tiêu chuẩn để làm việc này,
bởi vì nó được giao quyền lập pháp. Nếu như nó vừa ban hành luật lại vừa
bảo đảm thực thi luật đó thì sẽ không công bằng. Hơn nữa, một lý do không
kém quan trọng là nhánh lập pháp bao gồm các đại biểu đại diện và không có
kỹ năng trong việc thi hành pháp luật sẽ khó đảm đương cùng lúc cả công
việc bảo đảm thực thi pháp luật trong các hoạt động hàng ngày. Nhánh hành

pháp cũng không đủ tiêu chuẩn, bởi vì nó được trao quyền hành pháp. Trong
quá trình thi hành pháp luật thì nó thường có quyền ban hành các quy định mà

14
rất có thể sẽ vi phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn. Hơn nữa, trong quá
trình thực hiện chức năng hành pháp của mình thì bản thân cơ quan hành pháp
cũng có thể vi phạm pháp luật. Vì thế mà cũng sẽ không bảo đảm được công
bằng và công lý nếu trách nhiệm bảo đảm thực thi pháp luật lại được trao cho
cơ quan hành pháp. Lúc này thì rõ ràng là chỉ có cơ quan tư pháp, không có
quyền lập pháp cũng như ban hành các quy tắc xử sự chung, và cũng không
có quyền hành pháp, là cơ quan đủ tư cách để đảm bảo sự thực thi pháp luật.
Nói cách khác, hệ thống tòa án phải là người trọng tài cao nhất bảo đảm cho
hiệu lực thực thi của pháp luật trong thực tiễn.
Song, khi chức năng này được trao cho cơ quan tư pháp thì hiệu quả của
việc thực hiện nó cũng phải đối diện với một số thách thức thực sự. Do bản
chất của nó nên hệ thống tòa án là nhánh quyền lực “yếu” nhất. Về vấn đề
này, Alexander Hamilton, một trong những Cha đẻ của Hiến pháp Mỹ đã có
một nhận xét phù hợp với mọi hệ thống tòa án. Ông cho rằng: Nhánh hành
pháp không chỉ có chức năng nguyên thủ mà còn có cả lưỡi kiếm (tức là lực
lượng vũ trang) của quốc gia. Nhánh lập pháp không chỉ có uy quyền đối với
ví tiền quốc gia (tức là ngân sách), mà còn có quyền ban hành các quy định để
điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ của mọi công dân. Ngược lại, nhánh tư
pháp chẳng có ảnh hưởng gì đối với vấn đề kiếm hay ví của quốc gia cả,
không có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đối với vấn đề sức mạnh hay thịnh
vượng của xã hội, và cũng không có quyền tự thực thi các quyết định của
mình. Có thể nói một cách chính xác rằng nó không có quyền liên quan tới
sức mạnh cưỡng chế cũng như là thể chế hóa ý chí mà nó chỉ có một thứ là
các phán quyết, thậm chí nó cũng phải lệ thuộc vào sự trợ giúp của nhánh
hành pháp để các phán quyết của nó được thực hiện một cách có hiệu quả. Rõ
ràng là nhánh tư pháp yếu nhất trong số ba nhánh quyền lực nhà nước, nó

không bao giờ có khả năng gây ảnh hưởng tới một trong hai nhánh quyền lực

15
kia, và cần có sự quan tâm tối đa để làm cho nhánh tư pháp có khả năng tự
bảo vệ mình trước các mối đe dọa [37, tr.489]
Một kết luận hiển nhiên từ những lập luận của Hamilton về cái sự “yếu”
của hệ thống tòa án trên đây là nhân tố cơ bản và không thể thiếu để làm cho
nhánh tư pháp có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình với tư cách là người
bảo đảm cuối cùng cho nguyên tắc Nhà nước pháp quyền chính là sự độc lập
của nó đối với những ảnh hưởng có hại từ nhánh hành pháp và lập pháp nói
riêng và từ tất cả các nguồn bên ngoài khác nói chung. Nếu như không độc
lập thì tòa án không thể thực thi được pháp luật, hoặc nếu có thực thi được đi
nữa thì thì nhiều khả năng nguyên tắc Nhà nước pháp quyền sẽ bị xâm hại bởi
vì khi đó tòa án khó có thể làm điều đó một cách công bằng và khách quan.
Vì thế, tính độc lập của tòa án chính là một điều kiện không thể thiếu để bảo
đảm cho sự duy trì nguyên tắc Nhà nước pháp quyền trong một hệ thống pháp
lý. Như vị giáo sư người Áo Hans - Georg Heinrich nhận xét tại Hội thảo
“Judical Independence and Incompatibilities of the Office of Judge with Other
Activities” do Hội đồng châu Âu phối hợp với Tòa án Tối cao Kyrgyzstan vào
ngày 20 - 21/4/1998 rằng: “tính độc lập của tòa án có địa vị như là một điều
kiện của Nhà nước pháp quyền: không có cái thứ nhất thì cái thứ hai sẽ không
thể tồn tại được” [11, tr.37 - 38].
Trên khía cạnh lý thuyết, quả thật tính độc lập của tòa án là một vấn đề
quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào. Chúng ta biết rằng, các nguyên tắc
pháp quyền và tôn trọng quyền con người là những giá trị quan trọng và
không thể thiếu đối với các nền dân chủ hiện nay. Cả hai nguyên tắc này đều
yêu cầu phải có sự hiện diện của một hệ thống tòa án độc lập như là một điều
kiện cơ bản để có thể được duy trì một cách bền vững. Một quốc gia nếu
muốn xây dựng và duy trì được Nhà nước pháp quyền và cơ chế bảo vệ quyền


16
con người bắt buộc trước tiên phải bảo đảm được một tư cách độc lập nhất
định cho các tòa án và thẩm phán của nó.
Sự hiện diện của tư pháp độc lập như là một bằng chứng của một nền dân
chủ. Chúng ta biết rằng, sự phát triển của nhà nước có khoảng hơn 5000 năm
nhưng lịch sử của bộ máy nhà nước được phân quyền mới chỉ có khoảng gần
300 năm, kể từ khi có cách mạng tư sản. Phải khẳng định rằng, trong những
đóng góp cho sự phát triển của nhân loại của nền dân chủ tư sản, việc hình
thành ra một cơ quan xét xử đứng độc lập riêng khỏi các cơ quan nhà nước
khác chiếm một vị trí rất quan trọng. Tư pháp được hiểu ở phương Tây là xét
xử - đồng nghĩa với hoạt động của tòa án để tìm ra công lý, công bằng cho tất
cả mọi người, tư pháp được xem xét như là một cành quyền lực, nghiêng
ngửa với lập pháp và hành pháp. Ý nghĩa của tư pháp độc lập nằm ở mục đích
để cho tòa án có khả năng xét xử công bằng và tôn trọng quyền của các bên.
Một nền dân chủ không thể có cơ sở tồn tại nếu hệ thống tư pháp đối xử
không công bằng và không bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân. Trong
Nhà nước pháp quyền với cơ chế phân quyền: Quốc hội có quyền lập pháp -
làm luật, Chính phủ có quyền thi hành pháp luật - hành pháp. Quốc hội cũng
như Chính phủ phải hoạt động trong phạm vi khuôn khổ của Hiến pháp. Vấn
đề đặt ra là cần có sự kiểm tra, giám sát việc tuân thủ hiến pháp của các cơ
quan này. Trong việc kiểm soát tính hợp hiến của hành pháp, ban đầu người
ta giao cho lập pháp, song chẳng bao lâu sau đó người ta đã phát hiện ra rằng
ngành tư pháp có thể thực hiện nhiệm vụ này tốt hơn nhiều Ngày nay, Nhà
nước pháp quyền không còn được đặc trưng bởi chức năng lập pháp như
trước, mà bởi sự phát triển các thủ tục pháp lý nhằm bảo vệ pháp luật, trước
sự tùy tiện của lập pháp và hành pháp.
Độc lập với các ngành còn lại của chính phủ là điều quan trọng nhất của
một nhà nước dân chủ. Cho dù những mối quan hệ của ngành tư pháp như thế

17

nào với lập pháp và hành pháp, thì tất cả các nước công nghiệp và các nước
đang phát triển khác đều dựa vào tư pháp để buộc hai ngành kia phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật cũng như để giải thích và buộc chúng phải thi
hành các điều khoản của hiến pháp. Trong một Nhà nước pháp quyền cần
phải có sự phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng tư pháp
vẫn là cành quyền lực đáng phải phân quyền hơn cả. Đều cùng với các cành
quyền lực khác tổ chức và hoạt động theo cơ chế phân quyền, nhưng trên thực
tế, xem ra hành pháp và lập pháp có phần mật thiết với nhau, tư pháp có phần
độc lập hơn cả. Lịch sử tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ cận hiện đại và hiện
đại của các nhà nước phát triển đã nói lên điều nhận định trên. Cho dù nhà
nước được tổ chức theo mô hình đại nghị hay mô hình của chế độ tổng thống
thì lập pháp và hành pháp vẫn không có sự phân chia tuyệt đối với nhau, hành
pháp vẫn có sự can thiệp sang lập pháp, thậm chí các hoạt động lập pháp còn
là nhu cầu của hành pháp. Vì thế, dù nhà nước được tổ chức theo kiểu này hay
kiểu kia thì chỉ phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp mà
không phụ thuộc vào tư pháp.
Từ những phân tích trên cho thấy, về mặt lý thuyết, mối quan hệ giữa
tính độc lập của toà án và nguyên tắc Nhà nước pháp quyền là mối quan hệ
điều kiện. Cho dù nguyên tắc Nhà nước pháp quyền tồn tại dưới hình thức
nào đi nữa thì một toà án độc lập luôn là yếu tố không thể thiếu để nguyên tắc
đó có tính khả thi. Nói đến Nhà nước pháp quyền là phải nói đến sự đề cao
vai trò của tư pháp. Hiệu quả, hiệu lực của thể chế tư pháp là một tiêu chí để
đánh giá mức độ thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bất cứ
Nhà nước nào muốn tổ chức theo nhà nước pháp quyền cũng phải quan tâm
hàng đầu đến thể chế tư pháp. Có thể nói rằng, dù người ta có chỉ ra sáu, hay
bảy đặc trưng của Nhà nước pháp quyền thì thể chế tư pháp cũng có vai trò
đảm bảo thực hiện tất cả các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ở mức độ

18
này hay mức độ khác. Nếu xem vai trò của thể chế tư pháp như một trong

những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền thì đó chính là đặc trưng có ý
nghĩa đảm bảo thực hiện các đặc trưng khác của Nhà nước pháp quyền. Điều
này xuất phát từ bản chất của Nhà nước pháp quyền và bản chất của thể chế
tư pháp. Nhà nước pháp quyền đề cao vai trò của pháp luật trong tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước cũng như trong đời sống của công dân. Trong
khi đó, tư pháp là hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp
của hành vi của các chủ thể pháp luật. Do đó tư pháp có chức năng đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện. Cho nên tư pháp có vai trò đảm bảo thực hiện
các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
Trước hết, tư pháp đảm bảo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền về tính
tối cao của luật trong các lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Một nguyên tắc được thừa
nhận chung và thường được ấn định trong Hiến pháp các nước là khi xét xử,
Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo luật. Luật chi phối hoạt động xét xử của
toà án chính là luật tố tụng. Về nguyên tắc, nguồn của luật tố tụng chỉ có thể
là luật, tức là các bộ luật, các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành. Chính vì
việc các thẩm phán chỉ tuân theo luật nên các thẩm phán sẽ từ chối việc tuân
theo các văn bản dưới luật, các văn bản ngành mâu thuẫn với luật, đảm bảo
cho nguyên tắc về tính tối cao của luật trong Nhà nước pháp quyền được
thực hiện.
Thông qua hoạt động xét xử, toà án với tư cách là một thể chế tư pháp có
vai trò bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ, các quyền con người. Các giá trị
chung của quyền con người: sự sống, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, các
quyền về kinh tế, chính trị, xã hội…được toà án bảo đảm thông qua việc thực
hiện các nguyên tắc trong hoạt động xét xử như: quyền yêu cầu toà án bảo vệ;
nguyên tắc suy đoán vô tội; quyền bào chữa của bị can, bị cáo; quyền bất khả
xâm phạm cá nhân; quyền bất khả xâm phạn đời tư… Tư pháp, như vậy phúc

19
đáp được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền về dân chủ, nhân quyền. Có thể
nói rằng mức độ dân chủ của một xã hội được đo bằng hiệu quả xét xử của toà

án. Thông qua việc phán xét về tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi của
các chủ thể pháp luật, toà án duy trì công lý trong xã hội, kiểm soát xã hội
trong vòng trật tự, bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân. Đó là một môi
trường phù hợp cho sự tồn tại của Nhà nước pháp quyền.
Tư pháp cũng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo sự tuân
thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, đảm bảo sự thực hiện quyền lực nhà
nước trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo sự phân công quyền lực của Hiến
pháp. Tư pháp thực sự có vai trò này khi cùng với sự phát triển của dân chủ,
cánh tay của nhánh quyền lực tư pháp vươn tới tài phán về hành vi của lập
pháp và hành pháp. Như đã nói, cùng với sự phát triển của dân chủ, toà án còn
xét xử cả các quan chức hành pháp, thậm chí cả Tổng thống trong chính thể
Cộng hoà Tổng thống. Việc xét xử của tư pháp đối với hành pháp để đảm bảo
cho hành pháp thực thi quyền lực của mình trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Có nhiều cách khác nhau để kiểm soát tính hợp pháp của các hành
vi hành chính, nhưng sự kiểm soát bằng toà án là hiệu quả nhất. Sự kiểm soát
có hiệu lực nhất đối với hành vi hành chính là tài phán hành chính; là công cụ
có hiệu lực nhất thực hiện nguyên tắc của Nhà nước dân chủ và pháp quyền,
bảo vệ quyền con người và quyền công dân, phòng chống bệnh quan liêu, lạm
quyền hành chính.
Toà án cũng xét xử cả hành vi của Quốc hội - cơ quan lập pháp, đảm bảo
tính hợp hiến của các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành. Sự tài phán
của thể chế tư pháp đối với hành vi của lập pháp và hành pháp có ý nghĩa
kiểm soát tính hợp pháp, hợp hiến hành vi của chính quyền - một yêu cầu chủ
yếu của Nhà nước pháp quyền.


20
1.2. NHỮNG YÊU CẦU CỦA TOÀ ÁN ĐỘC LẬP
Để hiểu rõ về những yêu cầu của toà án độc lập, trước hết, cần có nhận
thức chung về sự độc lập của hoạt động xét xử. Về lý luận cũng như thực tiễn,

sự độc lập của hoạt động xét xử gắn liền với chủ nghĩa lập hiến chủ quyền
nhân dân và nguyên tắc phân quyền trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước, mặc dù mức độ phân quyền ở mỗi quốc gia là khác nhau, tuỳ thuộc
vào quá trình phát triển của dân chủ, của nhà nước và pháp luật đặc biệt là các
điều kiện và mức độ phát triển của các yếu tố thuộc hạ tầng cơ sở xã hội và
kinh tế. Điều này thể hiện rõ ở các nước phát triển hiện đại, nơi mà quyền tư
pháp về hình thức cũng như về thực tế đã có những thay đổi căn bản, nhiều
nơi đã trở thành nhánh quyền lực nhà nước cao nhất. Cùng với quá trình dân
chủ hoá quyền tư pháp, mặc dù là nhánh quyền lực ít nổi bật hơn so với quyền
lập pháp và quyền hành pháp, với những mức độ khác nhau, đã bắt đầu kiểm
soát quyền lập pháp và quyền hành pháp. Vị trí đó được thể hiện bởi hệ thống
tổ chức và thẩm quyền của toà án; bởi vai trò của các Toà án trong cơ chế
quyền lực nhà nước. Ở nhiều quốc gia dân chủ (trong đó có Việt Nam), Toà
án có thẩm quyền kiểm soát các nhánh quyền lực khác và ra các phán quyết
cuối cùng đối với các khiếu kiện về các hoạt động của các cơ quan nhà nước
(mặc dù ở Việt Nam toà hành chính mới ra đời và thẩm quyền còn hết sức
khiêm tốn). Sự độc lập của hoạt động xét xử là yếu tố có tính nguyên tắc của
Nhà nước pháp quyền, là điều kiện để đảm bảo và củng cố trật tự pháp luật,
bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người.
Trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước thì Toà án là cơ
quan được tổ chức và thành lập để thực hiện chức năng xét xử, thực hiện
quyền tư pháp, bảo vệ công lý. Vì thế, trong tư liệu pháp lý, thông thường
người ta còn nói đến sự độc lập của Toà án, sự độc lập của quyền Tư pháp.
Nói như thế cũng hoàn toàn đúng, bởi vì chỉ có Toà án mới có quyền xét xử

×