Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Tổ chức và hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.04 KB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGÔ KIỀU DÂNG



Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG
CñA C¥ QUAN PHßNG, CHèNG THAM NHòNG
ë VIÖT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO




HÀ NỘI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, trung thực và chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Ngô Kiều Dâng









MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC,
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG 5
1.1. Một số khái niệm quan trọng 5
1.1.1. Tham nhũng 5
1.1.2. Phòng chống tham nhũng 7
1.1.3. Cơ quan phòng chống tham nhũng 8
1.2. Bản chất, nguyên nhân, hậu quả và những giải pháp cơ bản
về phòng chống tham nhũng 9
1.2.1. Bản chất của tham nhũng 9
1.2.2. Nguyên nhân của tham nhũng 10
1.2.3. Hậu quả của tham nhũng 16
1.2.4. Những giải pháp cơ bản để PCTN 21
1.3. Vị trí, vai trò và tổ chức, hoạt động của cơ quan PCTN ở một
số nƣớc trên thế giới 24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ
QUAN PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM 39
2.1. Tổng quan về công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay 39
2.2. Hệ thống các cơ quan PCTN ở Việt Nam hiện nay 45
2.2.1. Khái quát 45
2.2.2. Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng 46
2.2.3. Hệ thống các cơ quan của Đảng 51
2.2.4. Thanh tra Chính phủ 56
2.2.5. Hệ thống các cơ quan tư pháp 63
2.3. Hoạt động của các cơ quan phòng chống tham nhũng ở Việt

Nam hiện nay 67
2.4. Những bất cập, hạn chế trong tổ chức, hoạt động của các cơ
quan phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. 71
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 76
3.1. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong tổ chức, hoạt
động của các cơ quan phòng chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay. 76
3.2. Quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 78
3.3. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức và hoạt động của các
cơ quan phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 95
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANND: An ninh nhân dân
BCĐTWPCTN: Ban chỉ đạo Trung ương
về Phòng chống tham nhũng
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng Hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CSND: Cảnh sát nhân dân
CSVN: Cộng sản Việt Nam
ICAC: Ủy ban độc lập về phòng chống
tham nhũng (Hồng Kông)
MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

PCTN: Phòng chống tham nhũng
TANDTC: Tòa án Nhân dân Tối cao
TTCP: Thanh tra Chính phủ
UNDP: Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
VKSND: Viện kiểm sát Nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao
WB: Ngân hàng Thế giới








1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn về mọi mặt. Những kết quả từ việc đổi mới hệ thống chính
trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện
hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, cùng với
những thành tựu đã đạt được, công cuộc đổi mới đất nước đang phải đối mặt
với nhiều nguy cơ, trong đó có tệ nạn tham nhũng.
Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, từ trước đến nay Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thông qua nhiều văn kiện, trong đó xác định những
chủ trương, chính sách, giải pháp đấu tranh phòng, chống tệ nạn này. Quốc

Hội cũng đã thông qua Luật PCTN vào năm 2005 (sửa đổi, bổ sung vào các
năm 2007, 2012) tạo cơ sở pháp lý nền tảng cho công tác PCTN. Gần đây,
Chính phủ đã ban hành “Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020”, trong đó
xác định các mục tiêu căn bản, lâu dài, đề ra các giải pháp toàn diện, đồng bộ
với một kế hoạch thực hiện cụ thể, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị trong cuộc chiến chống tham nhũng.
Trên phương diện quốc tế, Nhà nước ta cũng tích cực tham gia các cơ chế,
sáng kiến quốc tế và khu vực, trong đó bao gồm Công ước của Liên hợp quốc
về chống tham nhũng. Những nỗ lực đó đã mang lại những kết quả bước đầu
quan trọng trong đấu tranh PCTN ở nước ta, được quần chúng nhân dân ủng
hộ, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Mặc dù vậy, theo nhận định chung, tình hình tham nhũng ở nước ta
hiện vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, gây hậu quả xấu về nhiều
mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản

2
lý Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng
thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành
công của công cuộc Đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó bao gồm hoạt
động của hệ thống các cơ quan PCTN ở nước ta kém hiệu quả. Thực tế đó đặt
ra yêu cầu phải nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ
quan này nhằm thúc đẩy sự nghiệp PCTN ở nước ta. Đây chính là lý do khiến
tác giả chọn vấn đề “Tổ chức và hoạt động của cơ quan PCTN ở Việt Nam”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề PCTN được thực
hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân ở Việt Nam, trong đó tiêu biểu như:
- Viện Khoa học Thanh tra, Báo cáo tổng quan đánh giá các yêu cầu

của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng đối với việc hoàn
thiện pháp luật về PCTN của Việt Nam, Số chuyên đề, tạp chí Thông tin Khoa
học Thanh tra, tháng 8/2006, tr.64-65.
- Đinh Văn Minh, Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội
dung cơ bản của Luật PCTN năm 2005, NXB CTQG, 2006.
- Phan Xuân Sơn và Phạm Thế Lực, Nhận diện tham nhũng và các giải
pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 2008.
- Báo cáo phát triển Việt Nam 2010: Các thể chế hiện đại, Báo cáo
chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, Hà
Nội, 3-4 tháng 12 năm 2009.
- Tổ chức Hướng tới Minh bạch, Báo cáo kết quả thu thập và phân tích
ý kiến đóng góp của các chuyên gia nhằm hỗ trợ Chính phủ trong việc tự
đánh giá thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
(UNCAC) ở Việt Nam năm 2011, Hà Nội, 8-2011.

3
- Thanh tra Chính phủ, Danh mục tự đánh giá việc thực thi Công ước
Liên hợp quốc về chống tham nhũng ở Việt Nam, Hà Nội, 9-2011.
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Nhung (Cao học khóa 16 –
khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội): “PCTN từ phương diện giáo dục pháp
luật đối với cán bộ, công chức bộ máy hành chính nhà nước”.
Những công trình trên đã cung cấp một lượng thông tin và tri thức lớn
về tham nhũng, tình hình và giải pháp PCTN ở trên thế giới và ở Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào tập trung phân tích một cách toàn
diện, chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của các cơ quan PCTN ở nước ta.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích làm rõ những đặc điểm
về tổ chức, hoạt động của hệ thống các cơ quan PCTN của Việt Nam, xác
định những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, đồng thời đề xuất những giải
pháp nhằm hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ

quan này trong những năm tới.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan PCTN hiện nay của Việt Nam, trong đó tập trung vào một
số cơ quan chủ chốt như Ban Chỉ đạo trung ương PCTN, TTCP và một số cơ
quan khác như Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Công an…
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ
quan PCTN, không đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác về tham nhũng và
PCTN. Mặc dù vậy, trong quá trình phân tích, luận văn sẽ đề cập khái quát
đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến PCTN và mô hình hoạt
động của cơ quan PCTN ở một số nước trên thế giới.

4
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê-nin và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra.
7. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Khác với một số bài viết, nghiên cứu hiện có mà thường chỉ tập trung
vào một vấn đề và một cơ quan PCTN cụ thể, luận văn đưa ra một cái nhìn toàn
diện về tổng thể về hệ thống các cơ quan chính có chức năng PCTN hiện nay ở
nước ta; cụ thể là về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, những ưu điểm, hạn
chế, những thuận lợi, khó khăn và mối quan hệ giữa các cơ quan này.
Cách tiếp cận kể trên cho phép tác giả của luận văn đưa ra những nhận
định và khuyến nghị sát thực và có ý nghĩa thực tiễn hơn trong việc hoàn thiện tổ
chức và nâng cao hoạt động của các cơ quan PCTN ở nước ta trong thời gian tới.
Bởi vậy, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà
nước hữu quan, đồng thời làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo luật khác của Việt Nam.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức, hoạt động của các
cơ quan PCTN.
Chương 2: Thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan PCTN ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của các cơ quan PCTN ở Việt Nam hiện nay.

5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

1.1. Một số khái niệm quan trọng
1.1.1. Tham nhũng
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để
nhũng nhiễu nhân dân lấy của” [54, tr.910]. Theo nghĩa rộng, tham nhũng
được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được
giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ
được giao để vụ lợi.
Luật PCTN đã được sửa đổi, bổ sung một số điều và được Quốc hội
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 23 tháng 11 năm 2012 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 02 năm
2013) định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” [37, Điều 1, khoản 2]. Người có
chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức,

đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Giáo trình Lý luận và pháp luật về PCTN thì cho rằng:
Về khái niệm, cho đến thời điểm hiện nay chưa có một định
nghĩa chung về tham nhũng được thừa nhận và áp dụng một cách
chính thức và rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Công ước của Liên
hợp quốc (United Nations Convention against Corruption –
UNCAC) – văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản nhất về vấn đề này hiện
nay không đưa ra một định nghĩa về tham nhũng. Thay vào đó,

6
UNCAC chỉ xác định một tập hợp những hành vi cần được coi là
tham nhũng. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do những
nỗ lực xây dựng một định nghĩa chung về tham nhũng luôn gặp
phải những khó khăn xuất phát từ sự khác biệt về nhận thức, quan
điểm giữa các quốc gia liên quan không chỉ đến các khía cạnh về
pháp lý, văn hóa, mà đôi khi là cả về chính trị, của tham nhũng.
Mặc dù vậy, từ trước đến nay đã có một vài định nghĩa về tham
nhũng được nêu trong các từ điển có uy tín hoặc do một số tổ chức
quốc tế công bố dưới đây.
Ở góc độ chung nhất, thuật ngữ “tham nhũng” (corruption) có
gốc là một động từ tiếng La-tinh "corruptus” - nghĩa là lạm
dụng (abuse), phá hoại (destroy) hay vi phạm (break) [57]. Như
vậy, từ gốc rễ của nó, thuật ngữ “tham nhũng” hàm ý những
hành vi trái phép hoặc bất hợp pháp [24, tr.22,23].
Quan điểm như trên về tham nhũng cũng có thể tìm thấy trong
một số từ điển tiếng Anh hiện đại. Ví dụ, Từ điển Oxford đầy đủ
(The Oxford Unabridged Dictionary) định nghĩa corruption là: “sự
bóp méo hay phá hoại tính liêm chính trong thực thi công vụ bằng
cách hối lội hoặc đối xử thiên vị. Tuy nhiên, có một định nghĩa giản
dị về tham nhũng của Ngân hàng thế giới (World Bank - WB)

thường được viện dẫn trên thực tế thì tham nhũng là “hành vi lạm
dụng quyền lực công để thu lợi ích riêng” (the abuse of public office
for private gain). Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transparency
International - TI) – một tổ chức phi chính phủ quốc tế hàng đầu hoạt
động trong lĩnh vực chống tham nhũng cũng đưa ra một định nghĩa
tương tự, theo đó, tham nhũng được xem là “hành động lạm dụng
quyền lực được giao để làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho

7
bản thân hoặc cho những người thân cận của một bộ phận nhân viên
công quyền, có thể là các nhà chính trị hoặc viên chức [56, tr.1].
Trong số 6 điều ước quốc tế chủ chốt về chống tham nhũng tính đến
thời điểm hiện nay, duy nhất chỉ có Công ước Luật dân sự về chống tham
nhũng của Hội đồng châu Âu (Council of Europe Civil Law Conventions on
Corruption) (thông qua tại các cuộc họp thượng đỉnh lần thứ hai ở Strasbourg
tháng 10/1997) có đưa ra định nghĩa tham nhũng, theo đó, tham nhũng được
xác định là:
…việc đòi hỏi, gợi ý, đưa ra hoặc nhận trực tiếp hay gián
tiếp của hối lộ hoặc lợi thế bất chính khác, hay triển vọng về của
hối lộ hay lợi thế bất chính đó, làm ảnh hưởng đến sự thực hiện
đúng đắn nhiệm vụ hoặc công việc của người nhận hối lộ hoặc
nhận lợi thế bất chính hoặc triển vọng của người đưa hối lộ hay
lợi thế bất chính đó [24, tr.23].
Như vậy, có thể thấy theo quan điểm được thừa nhận rộng rãi, tham
nhũng là hành động của những người có chức, có quyền cố tình làm sai lệch
các quy tắc chuẩn mực công vụ để trục lợi bất hợp pháp.
1.1.2. Phòng chống tham nhũng
Tính đến sự đa dạng về chế độ chính trị, hệ thống pháp lý của các quốc
gia trên thế giới nên Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng không
đưa ra khái niệm chung về tham nhũng, cũng như khái niệm về PCTN. Tuy

nhiên, Công ước quy định về các biện pháp phòng ngừa cũng như các yêu cầu
về hình sự hóa đối với các hành vi tham nhũng được thực hiện bởi người có
chức vụ, quyền hạn trong cả khu vực công và tư.
Ở Việt Nam, Luật PCTN và các văn bản pháp luật khác về vấn đề này
cũng không đưa ra một khái niệm về PCTN. Tuy nhiên, từ những nội dung
quy định trong Luật này, có thể hiểu PCTN là tổng thể những biện pháp mà

8
một nhà nước áp dụng để ngăn chặn (phòng) và xử lý (chống) những hành vi
tham nhũng. Những biện pháp đó có thể là lập pháp (ban hành các văn bản
pháp luật để điều chỉnh những hành vi tham nhũng), hành pháp (thực hiện
những quy định pháp luật về PCTN), tư pháp (xử lý những hành vi tham
nhũng theo như luật định), hoặc những biện pháp giáo dục, tuyên truyền để
nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của những chủ thể có liên quan về
vấn đề này.
1.1.3. Cơ quan phòng chống tham nhũng
Theo cách hiểu thông thường, cơ quan PCTN là những thiết chế do nhà
nước thành lập để thực thi pháp luật về PCTN ở một quốc gia.
Ở Việt Nam, Điều 73 khoản 1 Luật PCTN (được sửa đổi, bổ sung năm
2007) quy định: Ban chỉ đạo trung ương về PCTN do Thủ tướng Chính phủ
đứng đầu có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động
PCTN trong phạm vi cả nước. Giúp việc cho Ban Chỉ đạo trung ương về
PCTN có bộ phận thường trực hoạt động chuyên trách. Như vậy, theo quy
định này, cơ quan nòng cốt về PCTN của nước ta là Ban chỉ đạo trung ương
về PCTN.Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện Luật PCTN, mô hình Ban Chỉ
đạo trung ương về PCTN do Thủ tướng đứng đầu đã bộc lộ nhiều hạn chế, vì
vậy, trong Luật PCTN sửa đổi năm 2012 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 02 năm 2013) thì mô hình này đã bị bãi bỏ. Theo đó, Ban Chỉ đạo trung
ương về PCTN được chuyển sang trực thuộc Bộ Chính trị, và người đứng đầu
Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN là Tổng Bí thư. Cùng với sự chuyển đổi

đó, Ban Nội chính Trung ương được tái lập, đóng vai trò là cơ quan thường
trực giúp Ban Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của mình.
Điều 75 Luật PCTN (được sửa đổi, bổ sung ngày 23 tháng 11 năm
2012) quy định: "Trong TTCP, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có đơn vị chuyên trách về PCTN."

9
Như vậy, hiện nay ở Việt Nam có một hệ thống cơ quan PCTN nằm
trong cả hai hệ thống của Đảng và Nhà nước. Các cơ quan này có chung một
chức năng là ngăn ngừa và xử lý các hành vi tham nhũng, song có những
nhiệm vụ khác nhau, ở những cấp độ và phạm vi hoạt động khác nhau. Trong
hệ thống này, Ban Chỉ đạo trung ương về PCTN trực thuộc Bộ Chính trị có vị
trí cao nhất, nhưng giữ vai trò là cơ quan chỉ đạo ở tầm vĩ mô, xác lập ra
những đường lối, chính sách về PCTN. Trong khi đó TTCP và các cơ quan
chuyên trách của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ vai trò là
những đơn vị hành động, có nhiệm vụ trực tiếp thực thi pháp luật (giám sát,
điều tra, truy tố) những hành vi tham nhũng.
1.2. Bản chất, nguyên nhân, hậu quả và những giải pháp cơ bản về
phòng chống tham nhũng
1.2.1. Bản chất của tham nhũng
Từ những khái niệm nêu trên, đầu tiên có thể thấy rằng tham
nhũng mang bản chất là những hành vi phi nghĩa, phi pháp. Tuy
nhiên, cần thấy rằng hành vi tham nhũng có những điểm khác nhất
định so với những hành vi vi phạm pháp luật thông thường, thể hiện
qua hai khía cạnh chủ yếu sau đây [24, tr.24]
Thứ nhất, về mục đích, trong mọi trường hợp, một hành vi
chỉ bị coi là tham nhũng khi nhằm mục đích thu lợi riêng (cho cá
nhân hay người thân của kẻ thực hiện).
Thứ hai, trong đa số (nhưng không phải mọi trường hợp, ví
dụ với hành vi đưa hay môi giới hối lộ…) chủ thể của hành vi

tham nhũng là người được giao một thẩm quyền nhất định. Nói
cách khác, chủ thể của hành vi tham nhũng thông thường là
những chủ thể đặc biệt, có chức quyền hay vị thế trong xã hội.
Ở góc độ khác, có thể thấy bản chất của tham nhũng gắn liền

10
với sự lạm dụng quyền lực, là sự tha hóa của quyền lực – một hiện
tượng có tính chất quy luật xét trên phương diện tâm lý học hành vi
của loài người. Về khía cạnh này, một nhà tư tưởng sống vào thế kỷ
trước là Lord Acton (1834-1902) đã có một nhận định nổi tiếng:
“Quyền lực có xu hướng dẫn tới sự đồi bại, quyền lực độc đoán sẽ
dẫn tới sự đồi bại tuyệt đối” (Power tends to corrupt, and absolute
power corrupts absolutely).
Tiếp đó, khái niệm quyền lực trong tham nhũng về cơ bản
là quyền lực nhà nước (hay quyền lực công, mặc dù trên thực tế nó
không chỉ giới hạn trong dạng quyền lực này). Hành vi tham nhũng về
cơ bản là sự lạm dụng quyền lực nhà nước, bởi chính các cơ quan,
công chức nhà nước. Theo cách tiếp cận này, như đã nêu ở các phần
trên, tham nhũng có tính chất là một “căn bệnh” chung, mang tính cố
hữu của mọi nhà nước, bất kể thuộc thể chế chính trị nào. Cùng với
quan liêu, căn bệnh tham nhũng xuất hiện ngay từ khi nhà nước ra đời
và sẽ tồn tại cùng với nhà nước cho tới khi nó tiêu vong [24, tr.24].
Những phân tích trên đây cho thấy một thực tế khách quan đó là, những
nỗ lực PCTN của một quốc gia, cho dù quyết liệt và bền bỉ tới đâu cũng chỉ
có thể kiềm chế, giảm thiểu chứ không thể xóa bỏ triệt để tình trạng tham
nhũng trong bộ máy nhà nước.
1.2.2. Nguyên nhân của tham nhũng
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi tham nhũng, tuy nhiên, ở góc
độ toàn cầu, có những nguyên nhân chung, cơ bản như sau:
 Quản lý nhà nước yếu kém;

 Khung pháp luật về PCTN thiếu đầy đủ hoặc không được
thi hành hiệu quả;
 Cơ chế và hệ thống cơ quan PCTN quốc gia chưa được
xây dựng hoặc hoạt động hình thức;

11
 Khủng hoảng chính trị, xã hội, kinh tế ảnh hưởng tới đạo
đức của đội ngũ công chức;
 Lương của đội ngũ công chức quá thấp, không đủ nuôi bản
thân họ và gia đình;
 Thể chế chính trị và truyền thống văn hóa hàm chứa những
yếu tố ủng hộ hay khoan dung với hành vi tham nhũng… [24, tr.28]
Tùy mục tiêu và góc độ phân tích, có những nghiên cứu nhấn
mạnh những nguyên nhân về pháp luật và quản lý, trong khi những
nghiên cứu khác nhấn mạnh tính hiệu quả của các cơ quan chống
tham nhũng. Từ những góc độ khác, một số nghiên cứu tập trung
vào những nguyên nhân liên quan đến đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ công chức, trong khi có nghiên cứu nhấn mạnh những nguyên
nhân liên quan đến nền tảng đạo đức và giá trị xã hội… [24, tr.29].
Tuy nhiên, nhìn chung, những luận giải về nguyên nhân của
tham nhũng có thể quy vào một trong ba lý thuyết đó là: thuyết duy
tâm tác nhân (agency-idealist); thuyết duy vật cấu trúc (structural-
materialist); và thuyết duy tâm cấu trúc (structural-idealist) về tham
nhũng [24, tr.29]. Theo thuyết duy tâm tác nhân, chỉ có người xấu
thì mới ăn cắp tài sản công, hay đưa hoặc nhận hối lộ, còn người tốt
thì không có những hành động như vậy. Do đó, tham nhũng gắn
liền với và phổ biến ở những nơi mà đạo đức của cá nhân xuống
cấp. Theo thuyết duy vật cấu trúc, tham nhũng phụ thuộc vào các
nhân tố thể chế - những điều bên trong tạo ra hoặc hạn chế các hành
vi sai trái của cơ quan, công chức nhà nước; vì vậy, mức độ tham

nhũng tỷ lệ thuận với sự độc quyền, tùy tiện, thiếu hoặc yếu về cơ
chế kiểm soát, đối trọng trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước. Theo thuyết duy tâm cấu trúc, bối cảnh xã hội và văn hóa có

12
tác động rất lớn đến tình trạng tham nhũng. Nếu như xã hội hàm
chứa những tập tục, giá trị ủng hộ hay khoan dung với tham nhũng,
ví dụ như tập tục tặng quà hay văn hóa giữ bí mật… thì vấn nạn này
sẽ hoành hành và khó xóa bỏ [24, tr.29].
Trong số ba lý thuyết về nguyên nhân tham nhũng được nêu
ở trên, thuyết duy vật cấu trúc tỏ ra chiếm ưu thế hơn cả, mặc dù
không được coi là duy nhất. Cụ thể, theo UNDP, nguyên nhân cơ
bản của tham nhũng nằm ở vấn đề quản lý nhà nước (hay còn gọi
là quản trị - governance) [60, tr.2]. Chỉ khi có một nền „quản trị
tốt” (good governance) mới có thể kiềm chế được tham nhũng. Một
nền quản trị tốt, ở góc độ khái quát, có thể hiểu là tiến trình xây
dựng và thực thi một cách hiệu quả các chính sách quản lí nhà nước
mà trong đó các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền như dân chủ,
công bằng, công khai, minh bạch…được tôn trọng và bảo đảm một
cách thực sự [24, tr.29].
Như vậy, tuy không hoàn toàn đồng nhất, song quản trị tốt và PCTN là
hai phạm trù có nội hàm gần gũi, gắn bó mật thiết. Quản trị tốt là cơ sở, điều
kiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lí nhà nước và PCTN. Ngược lại,
PCTN chính là góp phần thực hiện quản trị tốt trong quản lí nhà nước. Vì thế,
cả quản trị tốt và PCTN đều có tác động mang tính quyết định đến sự phát
triển của các quốc gia.
Từ cách tiếp cận về quản trị tốt, UNDP mô tả nguyên nhân của tham
nhũng bằng công thức:
C = (M + D) – (A + I + T)
Trong đó:

C = Corruption (Tham nhũng)
M = Monopoly (Sự chuyên quyền, độc đoán)

13
D = Discretion (Sự tự do hành động)
A = Accountability (Trách nhiệm giải trình).
I = Integrity (Sự liêm chính)
T = Transparency (Tính minh bạch)
Công thức trên có thể diễn giải như sau: “Tham nhũng là hậu quả của
sự thiếu hụt ba yếu tố gồm Trách nhiệm giải trình, Sự liêm chính và Tính
minh bạch trong bối cảnh tồn tại sự chuyên quyền, độc đoán và tùy ý hành
động của các cơ quan và công chức nhà nước” [24, tr.30].
Còn một số cách nhận biết khác về nguyên nhân của tham nhũng,
nhưng cơ bản vẫn có những điểm chung và có thể diễn giải dễ hiểu hơn theo
công thức sau: [24, tr.30].
C = M + D – A
Ở Việt Nam nguyên nhân của tham nhũng có thể thấy ở tất cả những
yếu tố phổ biến trên thế giới đã nêu ở trên. Tuy nhiên, trong bối cảnh đặc
thù của Việt Nam, những nguyên nhân dưới đây được coi là cơ bản nhất
của tham nhũng.
Những nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nước ta là một nước đang phát triển, mức sống của
người dân nói chung và của đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng
còn thấp trong khi trình độ quản lý nhà nước còn hạn chế, hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật PCTN nói riêng còn chưa hoàn
thiện. Thêm vào đó, nước ta đang trải qua quá trình chuyển đổi cơ
chế quản lý kinh tế, tồn tại đan xen giữa cơ chế cũ và mới. Tất cả
những yếu tố này thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho các hành
vi tham nhũng phát triển.
Thứ hai, việc nước ta chuyển sang quản lý nền kinh tế theo

cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tích cực cũng gây ra một số

14
hậu quả tiêu cực. Mặt trái của kinh tế thị trường mà đặc trưng của
nó là tính cạnh tranh khốc liệt, phân hóa gay gắt, lối sống hưởng
thụ, đề cao đồng tiền khiến không chỉ những người sản xuất kinh
doanh, mà còn không ít quần chúng nhân dân và cán bộ, công chức
có tâm lý kiếm tiền, làm giàu bằng mọi cách, kể cả bằng tham ô,
nhũng nhiễu, hối lộ, làm những điều phi pháp, trái đạo lý… Những
yếu tố này làm trầm trọng thêm tình trạng tham nhũng trong xã hội.
Thứ ba, giống như ở nhiều quốc gia khác, văn hóa truyền thống
của nước ta chứa đựng khá nhiều phong tục, tập quán dễ bị lợi dụng
để biện minh, ủng hộ cho hành vi tham nhũng, ví dụ như như tập quán
“hoa thơm mọi người cùng hưởng” “đóng cửa bảo nhau”, đạo lý “đền
ơn đáp nghĩa, ăn quả nhớ người trồng cây” Những phong tục, tập
quán kể trên mặc dù có bản chất tốt đẹp và vẫn cần được duy trì, bảo
vệ, song chúng đã và đang bị lợi dụng, sử dụng như chất xúc tác cho
những hành vi tham nhũng và trở thành vật cản đối với những nỗ lực
phòng, chống vấn nạn này [24, tr.31].
Những nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, tình trạng tham
nhũng ở nước ta còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan như sau:
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói
chung, của bộ máy nhà nước nói riêng còn nhiều khuyết điểm, chất
lượng và hiệu quả chưa cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
một số cơ quan, tổ chức chưa được xác định rõ ràng, cụ thể, còn
trùng lặp hoặc bị phân tán. Cụ thể, sự lẫn lộn giữa chức năng lãnh
đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý xã hội của nhà nước
hiện vẫn chưa được khắc phục. Các tổ chức chính trị-xã hội và các
đoàn thể quần chúng vẫn lúng túng và hình thức trong hoạt động.


15
Xét tổng quan, hệ thống chính trị của nước ta hiện vẫn chưa thoát
khỏi tình trạng “hành chính hóa” hoạt động lãnh đạo của Đảng,
“chính trị hóa” hoạt động quản lý của nhà nước và “nhà nước hóa”
hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp của các tổ chức, đoàn thể xã
hội. Tình trạng này không chỉ làm suy yếu sức mạnh của cả hệ
thống, mà còn tạo ra nhiều kẽ hở cho những hành vi tham nhũng.
Thứ hai, cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý nhà nước
nói chung, về PCTN nói riêng chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, còn
nhiều sơ hở, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, nhất là các lĩnh
vực nhậy cảm dễ xảy ra tham nhũng như quản lý và sử dụng đất
đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài nguyên, khoáng sản, cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước… Cải cách hành chính vẫn chậm
và lúng túng, dẫn tới tình trạng thủ tục hành chính vẫn còn phiền
hà, phức tạp, bất hợp lý; cơ chế xin-cho vẫn tồn tại khá phổ biến.
Những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho sự sách nhiễu, vòi
vĩnh, đưa và nhận hối lộ trong các cơ quan công quyền.
Thứ ba, nhiều tổ chức Đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính nghiêm
trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng nên lãnh đạo không chặt chẽ,
thiếu kiểm tra, đôn đốc, thậm chí còn nể nang, né tránh, dung túng,
bao che cho tham nhũng. Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý,
giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Việc xử
lý cán bộ tham nhũng trong nhiều trường hợp còn chậm trễ, nương
nhẹ, một số vụ việc tham nhũng lớn chưa được xét xử kịp thời, công
minh, gây bức xúc trong dư luận xã hội, làm xói mòn niềm tin của
quần chúng với quyết tâm PCTN của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, hệ thống cơ quan chuyên trách về PCTN mặc dù đã


16
được xây dựng, song chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan còn
chưa rõ ràng và có sự chồng chéo. Đặc biệt, các cơ quan này còn thiếu
tính độc lập và chưa có một cơ chế phối hợp hữu hiệu [24, tr.32].
Thứ năm, khung pháp luật về PCTN của Việt Nam đã tương
đối toàn diện nhưng chưa đủ mạnh, còn thiếu các công cụ pháp lý cho
phép điều tra và xử lý các hành vi tham nhũng một cách hữu hiệu.
Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về PCTN
còn hình thức, cách thức và nội dung tuyên truyền, giáo dục nhìn
chung còn thiếu phù hợp, hiệu quả nâng cao nhận thức của các đối
tượng trong xã hội còn thấp. Trên thực tế, hoạt động này chưa tạo ra
được sự chuyển biến tích cực, sâu rộng về nhận thức và ý thức trách
nhiệm với việc PCTN trong quần chúng nhân dân và đội ngũ cán bộ,
công chức, trong khi đây là một trong những yêu cầu cốt yếu bảo đảm
thành công trong cuộc chiến chống tham nhũng [24, tr.32-33].
1.2.3. Hậu quả của tham nhũng
Có thể khẳng định rằng, tham nhũng đã gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm
trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, là trở ngại lớn đối với quá
trình đổi mới đất nước. Tham nhũng đã và đang làm xói mòn lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực phòng chống tham nhũng, tình trạng
tham nhũng ở Việt Nam được xác định là nghiêm trọng. Nghị quyết Ðại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) của Ðảng cũng đã nhận định: “ tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp” [27, tr.173].
Theo UNDP, hậu quả của tham nhũng thể hiện ở những khía cạnh cụ
thể như sau:
 Kéo lùi sự tăng trưởng kinh tế, làm nản lòng các nhà đầu
tư trong nước và nước ngoài;


17
 Làm giảm và thất thoát thu nhập quốc gia;
 Làm cho
việc phân phối các nguồn lực của nhà nước trở nên bất hợp lý;
 Làm giảm hiệu lực của pháp luật;
 Nuôi dưỡng sự đặc quyền và làm xói mòn sự liêm chính
trong xã hội và dẫn đến những vi phạm nhân quyền [24, tr.33].
Dưới đây phân tích hậu quả của tham nhũng trên một số khía cạnh
cơ bản:
Hậu quả về kinh tế
Tham nhũng gây ra những hậu quả về kinh tế không chỉ cho nhà nước
mà còn cho hầu hết chủ thể trong xã hội, tuy với mức độ khác nhau.
Đối với nhà nước, như đã nêu ở trên, tham nhũng gây thất thoát, từ đó làm
giảm nguồn thu vào ngân sách của các nhà nước. Đây có lẽ là thiệt hại kinh tế từ
tham nhũng rõ ràng và dễ đo lường nhất. Về khía cạnh này, một nghiên cứu cho
thấy ở một nước châu Phi, cứ một đồng tiền thuế mà nhà nước thu được thì có
2,5 đồng khác bị thất thoát. Qua khảo sát, tỷ lệ thất thoát tiền thuế do tham
nhũng ở một nước châu Á cũng cao không kém, dao động trong khoảng 30-45%,
còn ở một nước A-rập là 20-70% tùy từng lĩnh vực kinh tế [50, tr.4].
Đối với các doanh nghiệp, thiệt hại kinh tế trực tiếp từ tham nhũng thể
hiện ở chỗ họ phải trả những “chi phí bôi trơn”, còn thiệt hại gián tiếp xảy ra
khi họ phải đối mặt với sự nhũng nhiễu, gây khó khăn của các cơ quan, nhân
viên công quyền. Ngoài ra, trong một số trường hợp, thiệt hại kinh tế gián tiếp
còn xảy ra khi việc sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự thiếu
nhất quán về chính sách kinh tế của nhà nước mà có nguyên nhân từ tham
nhũng. Ở đây, thiệt hại kinh tế của các doanh nghiệp cũng chính là thiệt hại
kinh tế của các nhà nước, bởi khi các doanh nghiệp cảm thấy „nản lòng‟ và rút
vốn đầu tư vì tham nhũng thì ngân sách nhà nước sẽ thất thu [24, tr.33].

18

Đối với các cá nhân công dân, tham nhũng được ví như một dạng “thuế
không chính thức” (unofficial tax) đánh vào họ, vì mọi chi phí sản xuất, kể cả
chi phí phải trả do tham nhũng, sẽ được các doanh nghiệp tính vào giá thành
sản phẩm để bán cho người tiêu dùng. Trong việc này, những chủ thể bị ảnh
hưởng nặng nề nhất lại chính là những người nghèo - nhóm vốn đã chịu nhiều
thiệt thòi trong xã hội.
Trên đây là thiệt hại kinh tế gián tiếp của tham nhũng với cá nhân công
dân. Bên cạnh thiệt hại gián tiếp đó, cá nhân công dân còn phải chịu những
thiệt hại kinh tế trực tiếp khác khi phải trả „tiền bôi trơn‟, „tiền cám ơn‟ cho
các cơ quan, nhân viên công quyền khi tiếp cận với các dịch vụ xã hội như
giáo dục, y tế, hưởng thụ văn hóa…hay khi phải giải quyết các thủ tục hành
chính, thủ tục tư pháp…Cả hai loại thiệt hại trực tiếp và gián tiếp đều không
thể phủ nhận, song đều rất khó lượng định một cách cụ thể, bởi những hành vi
hối lộ và nhận hối lộ thường không được công khai [24, tr.33-34].
Hậu quả về chính trị, văn hoá, xã hội
Tham nhũng là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến
bất bình đẳng, chia rẽ và xung đột xã hội. Cụ thể, tham nhũng góp phần phân
chia dân chúng trong xã hội nói chung, các nhóm sắc tộc trong xã hội nói
riêng thành hai nhóm giàu, nghèo, trong đó một nhóm chủ yếu chỉ hưởng thụ
mà không phải lao động còn nhóm kia phải vật lộn làm việc để kiếm sống.
Trong những xã hội có sự hoành hành của tham nhũng, khoảng cách giữa các
nhóm giàu, nghèo thường tăng lên rất nhanh, từ đó thổi bùng lên lòng đố kỵ, sự
nghi ngại, tính ghen ghét và tư tưởng thù địch giữa các nhóm. Hậu quả là phá
vỡ tình đoàn kết trong cộng đồng và khiến cho an ninh, trật tự xã hội bị đảo
lộn. Ở một số quốc gia nơi mà tham nhũng diễn ra một cách phổ biến đã dẫn
đến những cuộc khủng hoảng chính trị, thậm chí bạo động xã hội khiến cho hệ
thống chính quyền sụp đổ hoặc bị tổn hại một cách nghiêm trọng [24, tr.34].

19
Tham nhũng cũng khiến cho đạo đức xã hội bị suy thoái. Không

chỉ các công chức, viên chức nhà nước, lối sống của người dân nói chung
cũng trở lên ích kỷ, thực dụng hơn, trong khi các giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp như sự trung thực, tính đoàn kết ngày càng giảm sút trong bối
cảnh tham nhũng. Nói cách khác, về phương diện xã hội học, tham nhũng
góp phần nuôi dưỡng và thúc đẩy những niềm tin, thái độ và hành vi tiêu
cực của công chúng trong các quan hệ xã hội. Thái độ tiêu cực đó bao gồm
sự thiếu tôn trọng pháp chế; mất lòng tin, thậm chí chống đối các cơ quan
và công chức nhà nước; sự thờ ơ với các vấn đề chung của đất nước; sự gia
tăng thái độ và hành động ích kỷ, cá nhân…
Ở một góc độ khác, tham nhũng tàn phá hệ thống cơ sở hạ tầng về văn
hoá, xã hội của các quốc gia. Trong bối cảnh tham nhũng, các cơ sở giáo dục
và chăm sóc y tế thường rơi vào khủng hoảng về tổ chức, hoạt động và về
chất lượng dịch vụ, bởi chúng rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương trước vấn nạn
này. Do ở nhiều quốc gia, nhà nước vẫn tài trợ, ở những mức độ khác nhau,
cho các hoạt động văn hoá, nghệ thuật nên lĩnh vực này cũng không đứng
ngoài tác động tiêu cực của tham nhũng, tuy mức độ ảnh hưởng có phần ít
hơn so với một số lĩnh vực khác [24, tr.34].
Hậu quả về quản lý nhà nước
Như đã đề cập, tham nhũng tàn phá nền pháp chế; khiến người dân mất
lòng tin, chỉ trích và thậm chí chống đối các cơ quan và công chức nhà nước.
Trong bối cảnh đó, việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp
luật của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực đều gặp khó khăn vì không được
người dân, các doanh nghiệp và các chủ thể khác trong xã hội ủng hộ. Ngoài
ra, tham nhũng làm xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước
với sự quản lý xã hội và điều hành nền kinh tế của chính quyền. Điều này cản
trở chính phủ xây dựng và thực thi các chương trình kinh tế lớn mà có tác
động đến sự phát triển về mọi mặt của đất nước.

20
Với những phân tích sơ bộ trên đây về tác động tiêu cực của tham

nhũng ở một số khía cạnh, song trên thực tế, tham nhũng còn gây ra những
hậu quả nặng nề và lâu dài trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc
xác định và đánh giá mức độ tác động tiêu cực của vấn nạn này trên từng lĩnh
vực là rất khó khăn do tính chất phức tạp của nó. Mặc dù vậy, ở mức độ khái
quát nhất, có thể coi tham nhũng như một „kẻ phá hoại‟ hay „kẻ huỷ diệt‟ tất
cả các thiết chế, cấu trúc, giá trị, đặc biệt là thuộc về kiến trúc thượng tầng,
mà nhân loại lập ra để bảo đảm cho đời sống của mọi cá nhân và sự phát triển
của các xã hội [24, tr.35].
Ở Việt Nam, do có nhận thức rõ ràng về tác hại của tham nhũng nên từ
lâu công tác PCTN đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nhiều
Nghị quyết của Đảng đã được thông qua trong những năm gần đây, trong đó
đưa ra những chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể nhằm đấu tranh PCTN.
Quan trọng nhất trong số đó là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác PCTN, lãng phí” (Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21 tháng 8 năm
2006). Luật PCTN cũng đã được ban hành vào năm 2005 và được sửa đổi, bổ
sung một số điều vào năm 2007.
Đến cuối năm 2012, Luật PCTN tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và đến
tháng 2 năm 2013 Luật đã có hiệu lực thi hành. Những việc làm đó đóng vai
trò là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác PCTN. Việt Nam cũng tích cực
tham gia các sáng kiến quốc tế và khu vực để góp phần vào nỗ lực chung của
cộng đồng quốc tế trong việc đấu tranh chống tệ nạn này. Việc thực hiện những
chủ trương, chính sách, giải pháp nêu trên đã mang lại những kết quả bước
đầu quan trọng, được dư luận quần chúng đồng tình, bạn bè quốc tế ủng hộ.
Mặc dù vậy, theo nhận định của Chính phủ:
Tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh
vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ

×