Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 113 trang )


Đại học Quốc Gia Hà nội
Khoa luật




Nguyễn Thị Ngọc Bích





Xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng




Luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội – 2010









Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Nguyễn Thị Ngọc Bích




Xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


Luận văn thạc sĩ luật học



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tú




Hà nội - 2010




Mục lục



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


Danh mục các biểu đồ


Mở Đầu
1

Chương 1: Những Vấn Đề Lý Luận Và Pháp Luật Về xử phạt vi

phạm hành chính Lĩnh Vực quản lý và bảo vệ rừng
5
1.1.
Rừng và vai trò của rừng với môi sinh
5
1.2.
Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
7
1.2.1.
Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
7
1.2.2.
Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
8
1.2.2.1.
Mặt khách quan
8
1.2.2.2.
Mặt chủ quan
11
1.2.2.3.
Chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng
12
1.2.2.4.
Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng

13
1.2.2.5.
So sánh vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng
13
1.3.
Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
15
1.3.1.
Khái niệm xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng
15
1.3.2.
Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng
17
1.3.3.
Mục đích của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng
21
1.3.3.1.
Mục đích răn đe giáo dục
21
1.3.3.2.
Mục đích trừng trị
21
1.3.3.3.
Mục đích khôi phục lại trật tự
22

1.3.4.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng
22
1.3.4.1.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Kiểm lâm
23
1.3.4.2.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch ủy
ban nhân dân các cấp
24
1.3.4.3.
ủy quyền xử phạt vi phạm hành chính
24
1.3.4.4.
Xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
25
1.3.4.5.
Giải quyết những trường hợp vượt thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính
26
1.3.5.
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
và bảo vệ rừng
27
1.3.5.1.
Xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục đơn giản
28
1.3.5.2.
Xử phạt vi phạm hành chính theo thủ tục thông thường

28
1.4.
Các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật và thực hiện quản lý, bảo vệ rừng
40
1.4.1.
Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội
40
1.4.2.
Chính phủ
41
1.4.3.
ủy ban nhân dân các cấp
42
1.4.4.
Bộ, cơ quan ngang bộ
43
1.4.5.
Kiểm lâm
44
1.5.
Chính sách pháp luật quản lý bảo vệ rừng của một số quốc
gia trên thế giới
45

Chương 2: Thực Trạng Pháp Luật Về Xử Phạt VI Phạm Hành
Chính TRONG Lĩnh Vực Quản Lý Và Bảo Vệ Rừng
50
2.1.
Thực trạng quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
50
2.1.1.
Hình thức các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
50
2.1.2.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
khắc phục hậu quả trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
53
2.1.2.1.
Hình thức xử phạt chính
53
2.1.2.2.
Các hình thức phạt bổ sung
60
2.1.3.
Các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
61
2.1.4.
Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
61
2.1.4.1.
Khám người, tạm giữ người theo thủ tục hành chính
61
2.1.4.2.
Khám phương tiện vận tải, đồ vật

62
2.1.4.3.
Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính
62
2.1.4.4.
Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
63
2.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
64
2.2.1.
Thực trạng rừng Việt Nam và sự tàn phá rừng hiện nay
64
2.2.2.
Tình hình vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý
bảo vệ rừng
66
2.3.
Đánh giá thực trạng pháp luật và tình hình thực hiện pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
và bảo vệ rừng
71
2.3.1.
Những điểm đã đạt được
71
2.3.2.
Những điểm còn tồn tại
72


Chương 3: PHƯƠNG Hướng, Giải Pháp Hoàn Thiện Việc Xử Phạt
VI Phạm Hành Chính TRONG Lĩnh Vực quản lý và bảo
vệ rừng
80
3.1.
Phương hướng hoàn thiện công tác xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
80
3.2.
Giải pháp hoàn thiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
82
3.2.1.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
82
3.2.2.
Kiện toàn bộ máy và cán bộ công chức và người trực tiếp
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng
85
3.2.3.
Kết hợp giữa cơ quan xử lý vi phạm với các thiết chế tự
quản, giám sát ở địa phương
87
3.2.4.
Sử dụng luật tục và hương ước vào việc quản lý rừng
90
3.2.5.

Kiên quyết thực thi nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật
94

Kết luận
96

danh mục Tài Liệu THAM Khảo
100



Danh mục các bảng

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê số vụ vi phạm pháp luật từ 2004 - 2008
66
2.2
Tổng hợp tình hình phá rừng trái pháp luật (2004-2008)
67
2.3
Hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng tính từ đầu
năm 2009 đến tháng 6-2010
70
2.4
Đối tượng vi phạm lâm luật tính từ đầu năm 2009 đến
tháng 6-201

70



Danh mục các biểu đồ

Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Diễn biến tình hình phá rừng trái pháp luật
67
2.2
Diễn biến về diện tích rừng bị cháy
68
2.3
Nguyên nhân mất rừng
68



1
Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bên cạnh lợi ích về kinh tế, rừng có vai trò hết sức quan trọng trong
việc giữ đất, giữ nước, điều hòa không khí và bảo vệ môi trường sinh thái.
Hiện trạng mất rừng và suy thoái rừng đã và đang gây ra những hậu quả vô
cùng tai hại cho đời sống nhân dân cũng như sự ổn định nhiều mặt của đất

nước. Do vậy, bảo vệ rừng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội,
bảo vệ môi trường, đòi hỏi Nhà nước phải có chế độ quản lý bảo vệ thích hợp
nguồn tài nguyên này, đặc biệt là bảo vệ bằng pháp luật.
Để thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng, và pháp luật của Nhà
nước về Bảo vệ và phát triển rừng đạt kết quả tốt, cùng với việc nâng cao ý
thức bảo vệ tài nguyên rừng trong nhân dân, trong cán bộ nhà nước, tăng
cường hoạt động phối hợp của các cơ quan chức năng, tại kỳ họp thứ 9 Quốc
hội khóa VIII đã thông qua Luật bảo vệ và phát triển rừng. Sau hơn 12 năm
thi hành, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 đã bộc lộ những hạn chế
nhất định, một số qui định không còn phù hợp với điều kiện thực tế. Vì vậy,
tại kỳ họp thứ 6, ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội khóa XI đã xem xét
thông qua luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi). Để cụ thể hóa Luật bảo vệ
và phát triển rừng năm 2004, ngày 30 tháng 10 năm 2007, Chính phủ ban
hành Nghị định số 159/2007/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và bảo vệ lâm sản. Tiếp đó Nghị định số
99/2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2010 ra đời thay thế cho Nghị định 159/NĐ-CP, quy định một
số biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên rừng và xử lý các hành vi vi phạm
trong lĩnh vực này. Xuất phát từ nguy cơ khai thác rừng trái phép, phá hoại tài

2
nguyên rừng bừa bãi gây cạn kiệt tài nguyên, phá hoại môi trường nghiêm
trọng. Có thể khẳng định rằng, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong công tác bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời nâng cao ý thức của người
dân cũng như cán bộ nhà nước trong việc tăng cường phối hợp hoạt động bảo
vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực này còn chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh, hiệu quả quản lý chưa cao,
tính nhất quán chưa chặt chẽ gây ra sự khó khăn trong việc áp dụng cũng như
thực hiện. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là cần thiết đáp ứng yêu cầu nghiên cứu
lý luận và áp dụng thực tế trong việc phòng chống vi phạm pháp luật về quản
lý và bảo vệ rừng.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: "Xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng" để làm luận văn thạc sĩ luật
học, chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh
vực xử phạt vi phạm hành chính cũng như đề tài trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng như: "Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính lý luận và thực tiễn",
của Bùi Tiến Đạt, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2008; "Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường", của Trần Thị Lâm Thi, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2003; "Tình hình thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng", của Võ Mai Anh, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007; "Một số vấn đề cơ bản
về pháp luật bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay", của Nguyễn Thanh Huyền,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004 Tuy
nhiên, những công trình nêu trên chỉ mang tính chất khái quát về pháp luật

3
quản lý và bảo vệ rừng, dựa trên cơ sở lý luận mà chưa đề cập sâu đến vấn đề
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Đề tài có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng; đánh giá thực trạng các
quy định của pháp luật trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, trên cơ sở đó
tìm ra những bất cập, vướng mắc ngay trong các quy định và thực tiễn áp
dụng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
* Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng;
- Nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng;
- Đề ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chính như: Phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp
thống kê xã hội học, các phương pháp xã hội học pháp luật.
5. Những đóng góp chủ yếu về mặt khoa học của đề tài
Đề tài là chương trình chuyên khảo về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, đề tài đã đặt vấn đề tương đối hệ thống

4
về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng; Phân tích tương đối cụ thể thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng; Nghiên cứu tìm hiểu một số kinh nghiệm bảo vệ và phát triển rừng của
một số quốc gia trong khu vực; Đề ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng

và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.



5
Chương 1
Những Vấn Đề Lý Luận
Và Pháp Luật Về xử phạt vi phạm hành chính
Lĩnh Vực quản lý và bảo vệ rừng

1.1. Rừng và vai trò của rừng với môi sinh
Rừng là một thành phần của sinh quyển. Nhờ bức xạ từ vũ trụ, trong
đó năng lượng mặt trời là nguồn cơ bản, rừng đã tích lũy và phân bố lại năng
lượng tự do nhận được. Chính nhờ đó mà cuộc sống của các sinh vật được
bảo đảm. Trên quan điểm năng lượng, rừng là một bộ máy tích lũy và điều
chỉnh năng lượng to lớn nhất sinh quyển.
Rừng bảo vệ đất khỏi xói mòn. Rừng bảo đảm chế độ thủy văn cho hệ
thống sông, hồ. Rừng góp phần tích cực vào quá trình điều hòa khí hậu. Rừng
cố định co
2
và cung cấp o
2
tự do cho không khí. Nhờ vào đó, rừng tạo ra môi
trường sống tốt cho sinh vật.
Rừng thực hiện vai trò vũ trụ trong sinh quyển thông qua hai chức
năng: sản xuất ra hữu cơ sơ cấp từ các chất vô cơ và chất khoáng, thải oxy
vào không khí để điều chỉnh chất khí của khí quyển. Hàng năm, rừng cung
cấp cho khí quyển tổng lượng o

2
mà khí quyển nhận được. Chính vì vậy, rừng
có vai trò sinh thái hết sức to lớn.
ảnh hưởng của rừng với môi trường mang tính tổng hợp như đất,
nước, không khí, và rừng là yếu tố cơ bản để duy trì cân bằng sinh thái của
môi trường. Rừng không còn thì sự sống của loài người sẽ bị đe dọa. Số phận
của rừng là số phận của chúng ta. Nếu như giá trị kinh tế của rừng có thể xác
định được thì các chức năng bảo vệ cải tạo môi trường sống của rừng trở lên
vô giá đối với sự sống của loài người.

6
Rừng là một hệ thống phức tạp bao gồm các yếu tố lý học, hóa học và
sinh học tác động qua lại với nhau, là một tổng thể của khí hậu, đất đai, động
vật, thực vật và vi sinh vật; đó là một siêu cơ thể tiến hóa tương đối chậm
chạp, tham gia vào các chu trình C, O
2
, N
2
, H
2
O và của nhiều loại chất
khoáng khác. Ngoài ra, rừng còn có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí
hậu, giữ nước chống xói mòn đất, chống lũ lụt, chống sa mạc hóa, chắn gió và
bảo vệ mùa màng, đem lại các lợi ích vô cùng lớn lao như: cung cấp nguồn
gen, cung cấp gỗ và các sản phẩm gỗ, cung cấp và điều hòa nguồn nước, cung
cấp nguồn thuốc quý. Ngoài vai trò cung cấp o
2
cho khí quyển, rừng còn là
màng lọc không khí trong lành như cản khói bụi, hạn chế nhiều loại vi khuẩn
và siêu vi khuẩn gây hại cho con người và các động vật. Hơn nữa rừng còn có

vai trò quan trọng trong sự điều hòa khí hậu của trái đất. Vì vậy, rừng được
xem như lá phổi xanh của trái đất. Ngày nay vấn đề bảo vệ, gây trồng không
chỉ mang ý nghĩa của việc bảo vệ phát triển nguồn tài nguyên mà còn để bảo
vệ và cải tạo môi trường sống của loài người. Rừng có ảnh hưởng nhiều mặt
đến môi trường tự nhiên, làm thay đổi điều kiện khí hậu, đất đai, sinh vật từ
đó ảnh hưởng đến môi trường sinh thái của con người.
Nghiên cứu vai trò của rừng đối với môi trường không chỉ có ý nghĩa
lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc bảo vệ, sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên, gây trồng các loại rừng phòng hộ, hạn chế ảnh hưởng của
thiên nhiên, làm tăng thêm ý nghĩa cảnh quan, văn hóa xã hội của rừng.
Hiện nay, rừng bao phủ 4 tỷ ha đất. Các hệ sinh thái rừng sản xuất ra
50% chất hữu cơ sinh quyển. Rừng cũng là nơi cung cấp ổn định gỗ và các
sản phẩm khác cho con người. Cần nhận thấy rằng sự phá hủy rừng cũng
đồng thời phá hủy cả chế độ nước, gây xói mòn, làm tăng tiêu hao độ ẩm
trong đất, phá hủy cơ sở hình thành và nuôi dưỡng nước ngọt, làm khí hậu
thay đổi theo hướng không có lợi cho sự sống của loài người [2].

7
1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
Cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính là có vi phạm hành chính,
vi phạm hành chính được pháp luật quy định. Việc nghiên cứu khái niệm vi
phạm hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn bởi
vì định nghĩa đúng về vi phạm hành chính là cơ sở xác định các vi phạm hành
chính cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định được hành vi vi
phạm hành chính tính chính xác của việc xử phạt vi phạm hành chính càng
cao, đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của nhà nước, tổ chức và cá nhân, phát
huy hiệu quả và mục đích của việc xử phạt hành chính là lập lại trật tự nhà

nước bị xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm và cảnh báo, phòng ngừa
vi phạm trong tương lai và tránh được sự tùy tiện trong xử phạt hành chính.
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính do Hội
đồng Nhà nước ban hành ngày 30/11/1989 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1990
thì: "Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính" [25].

Theo Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2009 thì:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
là hành vi vô ý hoặc cố ý của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước
vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản chưa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại đến
rừng, lâm sản, môi trường rừng nhưng chưa đến mức phải truy cứu
trách nhiệm hình sự [22].

Định nghĩa nêu trên đã nêu lên các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi
phạm hành chính là hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, có lỗi và bị xử

8
phạt, đồng thời cũng có đề cập đến chủ thể của cấu thành pháp lý vi phạm
hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng là
một dạng của vi phạm hành chính, cũng có những điểm chung giống như các
vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác, cũng có dấu hiệu cấu thành vi
phạm hành chính. Các dấu hiệu đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể,
mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính trong quản lý và bảo vệ rừng.
Tuy nhiên, khác với những vi phạm trong lĩnh vực khác, vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng có một số đặc điểm riêng:
- Đối tượng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại là rừng, lâm sản

và môi trường rừng, loại tài nguyên đặc biệt, loại tài sản mang tính pháp lý
đặc biệt thuộc sở hữu của toàn dân và ảnh hưởng đến toàn bộ môi trường sinh
thái trên phạm vi rộng lớn và lâu dài.
- Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
trong nhiều trường hợp rất khó phát hiện, việc phát hiện thường là khi đã
hoàn thành hoặc có hậu quả của vi phạm.
- Các vi phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng không chỉ liên
quan đến pháp luật quản lý và bảo vệ rừng mà còn liên quan đến nhiều ngành
luật khác, do mối quan hệ trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng mang tính
tổng hợp, diện rộng với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan nhà nước, làm
phức tạp việc phân định trách nhiệm của đối tượng vi phạm pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng là
một dạng của vi phạm hành chính nên cũng phải có đủ 4 yếu tố cấu thành của
vi phạm hành chính là: mặt khách quan, khách thể, chủ thể và mặt chủ quan
của hành vi vi phạm hành chính. Nhưng khác với hành vi vi phạm hành chính

9
trong lĩnh vực khác, các yếu tố cấu thành của hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng còn có những đặc điểm riêng như:
1.2.2.1. Mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành
vi vi phạm hành chính, nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện
là hành vi xâm phạm các qui tắc quản lý nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng
và đã bị pháp luật ngăn cấm, theo đó pháp luật quy định rằng những hành vi
này sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp hành chính.
Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng gồm các dấu hiệu: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả

thiệt hại mà hành vi gây ra cho xã hội, quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm,
phương tiện vi phạm.
Hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là hành vi có
tính chất trái pháp luật, vi phạm các qui định của nhà nước trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng dưới hình thức không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng những qui định của pháp luật quản lý và bảo vệ rừng, xâm phạm đến
những khách thể được pháp luật bảo vệ. Để nhận biết một hành vi là trái pháp
luật cần căn cứ vào những phong tục tập quán của từng địa phương để xem
xét hành vi nhất định.
Hành vi không thực hiện những qui định về quản lý và bảo vệ rừng
như: không bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy rừng khi được phép
sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, các thiết bị, dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt và
bảo quản, sử dụng chất cháy trong rừng và ven rừng, không có phương án
phòng cháy, chữa cháy và công trình phòng cháy, chữa cháy rừng, không tổ
chức tuần tra, canh gác rừng để ngăn chặn cháy rừng tự nhiên do mình quản
lý, không thực hiện thủ tục giao, nhận hồ sơ, hiện trường khai thác theo quy
định hiện hành của Nhà nước, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

10
thiết kế về phát luồng dây leo trước khi khai thác, vệ sinh rừng sau khi khai
thác và các biện pháp kỹ thuật khác bảo đảm tái sinh rừng, không chặt những
cây cong queo, sâu bệnh đã có dấu bài chặt; không tận thu hết gỗ cành ngọn,
cây đổ gãy trong quá trình khai thác rừng tự nhiên theo thiết kế được duyệt.
Đối với một số loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không
đơn thuần chỉ là nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có sự phối hợp
giữa các yếu tố khác. Thông thường, những yếu tố đó có thể là:
+ Thời gian thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: Săn bắt động vật trong
mùa sinh sản, đốt lửa, sử dụng lửa ở các khu rừng dễ cháy, thảm thực vật khô
nỏ vào mùa hanh khô, tháo nước dự trữ phòng cháy trong mùa khô hanh.

+ Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm. Ví dụ: chăn thả gia súc trong
phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu rừng đặc dụng, chăn thả gia súc trong
rừng trồng dặm cây con, rừng trồng mới dưới ba năm, rừng khoanh nuôi tái
sinh đã có quy định cấm chăn thả gia súc.
+ Công cụ phương tiện vi phạm. Ví dụ: Phương tiện vi phạm hành
chính gồm đồ vật, công cụ, phương tiện vận chuyển được sử dụng để thực
hiện hành vi vi phạm hành chính, các loại xe cơ giới đường bộ, xe mô tô, xe
đạp, xe thô sơ, súc vật, tàu thủy, ca-nô, thuyền, các phương tiện khác được sử
dụng để vận chuyển lâm sản trái pháp luật, sử dụng phương pháp, công cụ săn
bắt bị cấm, đưa súc vật kéo, mang dụng cụ thủ công vào rừng để khai thác,
chế biến lâm sản, khoáng sản trái phép, đưa trái phép vào rừng các phương
tiện, công cụ cơ giới [22]

+ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Nhìn chung, hậu quả của vi
phạm hành chính không nhất thiết là thiệt hại cụ thể: với cá nhân, tổ chức
trong nước và nước ngoài (sau đây còn gọi là người vi phạm) có hành vi vô ý
hoặc cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý rừng, bảo vệ rừng

11
và quản lý lâm sản chưa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại đến rừng, lâm sản,
môi trường rừng nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp, hành vi của tổ chức, cá nhân bị coi là vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng khi và chỉ khi hành vi đó
gây ra những thiệt hại cụ thể trên thực tế. Trong trường hợp này, việc xác
định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại cụ thể là cần
thiết để đảm bảo nguyên tắc cá nhân, tổ chức chỉ phải chịu trách nhiệm về
những thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra.
1.2.2.2. Mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi

phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng phải là hành vi có lỗi
thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Nói cách khác, người thực hiện hành
vi phải có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng
đã vô tình thiếu thận trọng không nhận thức được hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội hoặc có nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Khi có đủ căn cứ cho rằng chủ thể thực hiện hành vi không có khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã
không có vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng xảy ra.
Trong một số trường hợp cụ thể pháp luật còn đòi hỏi xác định dấu hiệu mục
đích là dấu hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng.
Vấn đề lỗi của tổ chức, có ý kiến cho rằng lỗi chỉ là trạng thái tâm lý
của cá nhân trong khi thực hiện hành vi nên không đặt ra vấn đề lỗi của tổ
chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Khi xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, chỉ cần xác định tổ
chức đó có vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng và hành
vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng biện pháp xử phạt vi phạm

12
hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là đủ. Quan điểm khác lại
cho rằng cần xác định lỗi của tổ chức thì mới có đầy đủ cơ sở để xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Trong trường hợp
này, lỗi của tổ chức được xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ
chức đó khi thực hiện công việc được giao. Pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng hiện hành quy định tổ chức
phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi do chính mình gây ra và có nghĩa vụ
chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng. Đồng thời, phải có trách nhiệm xác định lỗi của người thuộc tổ
chức mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao để truy cứu trách

nhiệm kỷ luật và bồi thường thiệt hại theo qui định của pháp luật.
1.2.2.3. Chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng
Chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng là
các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định
của luật hành chính.
Theo quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về lĩnh vực quản
lý và bảo vệ rừng hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng phải là người không mắc bệnh tâm thần hoặc
mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật, cụ thể là:
+ Người đủ 14 đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính
trong trường hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy, khi xác định người
ở độ tuổi này có vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
hay không cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. Thông thường
người thực hiện hành vi với lỗi cố ý là người nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm nhưng vẫn thực hiện.

13
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng trong mọi trường hợp.
+ Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan hành
chính nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo qui
định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng theo qui định của pháp luật Việt Nam, trừ
trường hợp Điều ước quốc tế mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định khác thì áp dụng các quy định của Điều ước quốc tế
đó.

1.2.2.4. Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
và bảo vệ rừng
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng cũng như
mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý và bảo vệ rừng là hành vi vi phạm này đã xâm phạm đến trật tự
quản lý trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng được pháp luật quản lý và bảo
vệ rừng quy định và bảo vệ.
1.2.2.5. So sánh vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng
Nhìn chung, vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực quản lý
và bảo vệ rừng đều là hành vi vi phạm, xâm hại trật tự xã hội do nhà nước đặt
ra. Vi phạm hành chính hay phạm tội là những hành vi vi phạm pháp luật nói
chung và phải bị xử lý theo chế tài tương ứng. Vi phạm hành chính bị xử lý
bằng chế tài hành chính, còn tội phạm bị xử lý bằng chế tài hình sự.
Vi phạm hành chính và tội phạm đều là hành vi vi phạm, xâm hại đến

14
lợi ích của nhà nước, tập thể, công dân, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã
hội, là biểu hiện tiêu cực cần phải loại trừ. Ngoài ra, ranh giới giữa vi phạm
hành chính và tội phạm rất gần nhau. Trong nhiều trường hợp giữa vi phạm
hành chính và tội phạm chỉ là ranh giới mong manh mà vượt qua nó thì vi
phạm hành chính sẽ trở thành tội phạm trong điều kiện nhất định. Cùng một
hành vi vi phạm nhưng nếu vi phạm với số lượng không lớn hoặc không gây
hậu quả nghiêm trọng, không có khả năng gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng thì không phải là tội phạm [34].
Vi phạm hành chính và tội phạm có những điểm khác biệt như sau:
- Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội
phạm và các hình thức xử phạt hành chính cũng ít nghiêm khắc hơn so với
hình phạt áp dụng với tội phạm. Giữa tội phạm và vi phạm hành chính có sự

khác biệt đó là mức độ nguy hiểm cho xã hội. Đây cũng chính là đặc điểm cơ
bản để phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm. Mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi vi phạm được thông qua những dấu hiệu nhất định như: mức
độ hậu quả, tái phạm nhiều lần, có tính chất chuyên nghiệp, vi phạm số lượng
lớn Có một số hành vi luôn luôn gây nguy hiểm cho xã hội, nhưng có những
hành vi khi có những dấu hiệu về mức độ hậu quả nghiêm trọng, tái phạm,
chuyên nghiệp thì sẽ bị chuyển hóa thành tội phạm.
- Tội phạm chỉ được qui định tại Bộ luật Hình sự - do Quốc hội ban
hành, còn đối với hành vi vi phạm hành chính thì được qui định tại rất nhiều
loại văn bản quy phạm pháp luật khác nhau do tính chất đa dạng, đa lĩnh vực.
- Việc xử lý người phạm tội được giao cho cơ quan duy nhất là Tòa
án, còn việc xử lý đối tượng vi phạm hành chính được giao cho nhiều cơ quan
và người có thẩm quyền, trong đó chủ yếu là cơ quan nhà nước.
- Thủ tục xử lý vi phạm hành chính và tội phạm là hoàn toàn khác
nhau. Tòa án xét xử vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng hình sự, có sự tham gia
của người bào chữa. Còn thủ tục xử phạt vi phạm hành chính phần nhiều

15
mang tính quyền lực đơn phương từ phía cơ quan nhà nước, dù pháp luật có
quy định quyền khiếu nại, tố cáo của đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính.
Mức độ của chế tài vi phạm hành chính và chế tài hình sự là khác nhau; chế
tài hành chính chủ yếu tác động vào yếu tố vật chất, tinh thần của người vi
phạm, chế tài hình sự có mức độ nặng hơn chủ yếu là tước đoạt quyền tự do
của người phạm tội.
1.3. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng
1.3.1. Khái niệm xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng
Xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế nhà nước,
mang tính quyền lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm hành chính, biểu hiện

ở việc áp dụng các chế tài hành chính mang tính chất trừng phạt do các chủ
thể có thẩm quyền nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật.
Một hành vi bị coi là vi phạm hành chính khi nó được quy định trong pháp
luật về xử phạt hành chính.
Xử phạt hành chính thực chất là một loại hoạt động quản lý nhà nước
do vậy phải có chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Những chủ thể này nhân
danh nhà nước, đại diện cho ý chí của nhà nước trong việc xác định một cá
nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính hay không và hậu quả pháp
lý của những hành vi vi phạm đó là như thế nào. Tất cả những hành vi của các
chủ thể đó đều phải dựa trên những quy định cụ thể của pháp luật. Hoạt động
xử phạt hành chính phải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn nhưng kết quả của
hoạt động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành chính. Quyết
định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý đặc
biệt, làm phát sinh trách nhiệm hành chính cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính, tức là họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước
về tinh thần hoặc tài sản. Những quyết định đó có tính chất bắt buộc phải thực

16
hiện đối với những đối tượng bị xử phạt. Chỉ có các cơ quan hoặc cán bộ nhà
nước nào được nhà nước trao thẩm quyền xử phạt hành chính và được quy
định cụ thể trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và
được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính thì mới có thẩm quyền ra quyết định xử phạt và việc xử phạt chỉ được
thực hiện khi có vi phạm hành chính.
Hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành trong khuôn khổ và
phải tuân theo pháp luật về trình tự và thủ tục về hành chính.
Trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, những hành vi vi phạm hành
chính về quản lý và bảo vệ rừng cũng là một loại vi phạm hành chính nói
chung do vậy việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng vẫn phải tuân theo các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành

chính nói chung về trình tự, thủ tục.
Có thể định nghĩa xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
và bảo vệ rừng như sau: xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy
định pháp luật hiện hành, quyết định các biện pháp xử phạt hành chính và
các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết, theo
quy định của pháp luật) với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng có những đặc điểm sau đây:
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
chỉ được áp dụng với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của
Nhà nước về quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản chưa gây thiệt hại
hoặc đã gây thiệt hại đến rừng, lâm sản, môi trường rừng. Vi phạm hành
chính là cơ sở để tiến hành các hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ngày 03
tháng 12 năm 2004, và các nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ quy

17
định các hành vi vi phạm hành chính về quản lý và bảo vệ rừng, hình thức,
biện pháp xử phạt vi phạm hành chính nhà nước cụ thể là những cơ sở pháp lý
quan trọng để tiến hành các hoạt động xử phạt vi phạm hành chính;
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ngày
03 tháng 12 năm 2004, và các nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ
quy định các hành vi vi phạm hành chính về quản lý và bảo vệ rừng quy định
cụ thể các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức
độ xử phạt hành chính mà họ được phép áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính;
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng

được tiến hành theo những nguyên tắc, thủ tục, trình tự được quy định trong
các văn bản của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và pháp
luật hành chính về quản lý và bảo vệ rừng nói riêng về xử phạt hành chính do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm hành chính ghi
nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính. Việc quyết định áp dụng biện pháp xử phạt đó thể hiện sự
trừng phạt nghiêm khắc của nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm
hành chính. Việc xử phạt vi phạm hành chính còn hướng tới mục đích giáo
dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức tôn trọng các quy tắc của
đời sống cộng đồng, phòng ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra.
1.3.2. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý và bảo vệ rừng
- Mọi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ

18
rừng và quản lý lâm sản phải được phát hiện kịp thời và đình chỉ ngay. Việc
xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh,
đúng pháp luật; người vi phạm hoặc người giám hộ của người vi phạm phải
chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra theo quy định
của pháp luật.
Người có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính quy định
tại Nghị định này. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
- Khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử
phạt phải xem xét nhân thân người vi phạm; căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ theo quy định tại Điều 8, 9 của Pháp
lệnh Xử phạt vi phạm hành chính số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng
7 năm 2002 (sau đây gọi là Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính) để áp

dụng các hình thức phạt chính, hình thức phạt bổ sung và các biện pháp khắc
phục hậu quả.
- Người vi phạm hành chính không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì
mức phạt tiền là mức trung bình của khung tiền phạt quy định đối với từng
hành vi quy định tại nghị định này. Trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì mức
phạt tiền có thể giảm nhưng không thấp hơn mức thấp nhất của khung tiền
phạt quy định áp dụng đối với hành vi vi phạm đó; nếu có tình tiết tăng nặng
thì mức phạt tiền có thể cao hơn nhưng không vượt quá mức cao nhất của
khung tiền phạt quy định áp dụng đối với hành vi vi phạm đó.
- Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt
về từng hành vi vi phạm, nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì tổng hợp
thành mức phạt chung.
Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính
nối tiếp nhau đối với cùng một đối tượng bị xâm hại mà việc thực hiện hành

×