Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.42 KB, 88 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VƯƠNG THANH HUYỀN





TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2009






MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, xã hội Việt
Nam đang có những bước chuyển lớn. Sự giao thoa của nhiều nền văn hoá
trong thời kỳ hội nhập đã làm cho nền tảng đạo đức truyền thống bị lung lay
và có nguy có bị lãng quên trước “cơn lốc” thị trường. Bên cạnh đó, nhu cầu
làm giàu đã khiến không ít người vượt qua ranh giới của pháp luật nhằm thu
lợi bất chính. Tình hình phạm tội luôn là điểm nóng trong những năm vừa qua
đặc biệt là bộ phận thanh thiếu niên - thế hệ tương lai của đất nước và trong
đội ngũ công chức - những người nắm trong tay quyền lực nhà nước. Thực tế
đó đã gióng lên hồi chuông báo động về sự xuống cấp về mặt đạo đức và ý
thức pháp luật trong đại bộ phận dân chúng Việt Nam. Bác Hồ đã từng nói:
con người là tài nguyên của đất nước. Để xây dựng một nước Việt Nam : “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh thì phải có những con người
mang trong mình ý thức pháp luật của thời đại và nền tảng đạo đức cách mạng
truyền thống của dân tộc”. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức
được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý
thức xã hội tham gia vào việc điều chỉnh hành vi con người và được nhà nước
sử dụng trong hoạt động quản lý xã hội. Trước Hồ Chí Minh đã có rất nhiều
những nhà tư tưởng đề cập đến vấn đề đạo đức và pháp luật trong quản lý xã
hội. Tuy nhiên, những quan điểm này thường tuyệt đối hóa một bên đạo đức
hoặc một bên pháp luật mà chưa nhận thấy được vai trò của sự kết hợp giữa
pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Trên cơ sở phân tích
những ưu điểm và hạn chế của pháp luật và đạo đức, Hồ Chí Minh đưa ra
quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và đạo đức từ đó Người



2
chủ trương phải kết hợp pháp luật và đạo đức trong việc điều chỉnh hành vi
con người và quản lý xã hội.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã và đang có nhiều chủ trương nhằm
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Trong điều kiện đó,
tác giả mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức” nhằm góp phần bổ sung vào hệ thống lý
luận về pháp luật và đạo đức.

2. Tình hình nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm về nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội được xây dựng trên cơ sở sự tiếp thu chủ nghĩa Mác
– Lê Nin và thành tự khoa học xã hội trên thế giới. Vấn đề pháp luật và đạo
đức chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật. Từ trước đến nay đã có rất nhiều những đề tài nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và pháp luật trong nhà nước pháp
quyền. Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hiện nay, sự xuống cấp về ý
thức đạo đức đã gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng hỗn loạn, phức
tạp của xã hội trong tương lai. Điều này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kết hợp pháp luật và
đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Ngày càng xuất hiện nhiều đề tài
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Nhà nước ta cũng
đã và đang đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh. Đó là những nguồn tư liệu quý giá phục vụ cho việc nghiên cứu
đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức.
3. Mục đích của đề tài:
- Nghiên cứu những quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức, về pháp luật và
mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Trên



3
cơ sở đó chỉ ra được tầm quan trọng của pháp luật và đạo đức cũng như việc
kết hợp pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam.
- Chỉ ra thực trạng thực thi pháp luật và sự xuống cấp về mặt đạo đức trong xã
hội Việt Nam trong những năm đổi mới.
- Đưa ra những giải pháp mới góp phần vận dụng một cách có hiệu quả tư
tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữ pháp luật và đạo đức.
4. Nhiệm vụ của đề tài:
Trên cơ sở mục đích của đề tài nêu trên, đề tài nghiên cứu cần phải
thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những sự kiện lịch, những mẩu chuyện về Hồ Chí Minh nhằm
chỉ ra tư tưởng của Người về pháp luật, về đạo và mối quan hệ giữa pháp luật
và đạo đức. Thông qua những câu chuyện đó nhằm đưa ra những nhận định
và đánh giá của Người về tầm quan trọng của pháp luật và đạo đức trong việc
quản lý đất nước và sự cần thiết phải vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong thực tế
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng thực thi pháp luật và sự xuống cấp về đạo
đức trong từng tầng lớp nhân dân từ đó tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị để vận dụng tốt tư tưởng
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong thự tế
5. Phạm vi nghiên cứu:
Với mục đích nhằm nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức về pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức.


4
Nghiên cứu thực trạng đạo đức và thực thi pháp luật ở Việt Nam trong

giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và hội nhập khu
vực, quốc tế.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau trên cơ sở
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử:
- Phương pháp thu thập tài liệu ghi nhận các sự kiện lịch sử liên quan đến
hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh.
- Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, tác giả sử dụng phương pháp phân
tích nhằm phân tích các sự kiện lịch sử liên quan đến tư tưởng quan điểm Hồ
Chí Minh về đạo đức và pháp luật
- Tham khảo các tài liệu chuyên khảo về Hồ Chí Minh bổ sung cho việc phân
tích và đưa ra nhận định về tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật
và đạo đức.
Chương 2: Thực trạng đạo đức và pháp luật ở nước ta hiện
Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
nước pháp quyền, bảo vệ, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống.







5
Chương 1

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
1.1. KHÁI QUÁT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO
ĐỨC.
1.1.1 Vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong hệ thống các quy phạm
điều chỉnh xã hội:
Lịch sử nhà nước và pháp luật đã chững minh rằng, hoạt động quản lý xã
hội là một nhu cầu tất yếu, điều này phát sinh từ sự đa dạng và phức tạp của
mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội. Sự hỗn loạn, mất phương hướng của
các quan hệ xã hội sẽ nhanh chóng khiến xã hội đó đi đến chỗ diệt vong. Trong
xã hội có nhà nước, việc điều hòa, ổn định các mối quan hệ xã hội theo một trật
tự nhất định là chức năng chính của nhà nước. Hoạt động điều chỉnh xã hội
được thực hiện thông qua hệ thống phương tiện điều chỉnh xã hội – các loại
quy phạm xã hội. “Quy phạm xã hội là những hiện tượng không thể thiếu được
trong đời sống xã hội, là những phương tiện của quản lý xã hội, phương tiện để
điều hòa, phối hợp ý chí và quy tụ các hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ lại
nhằm đạt được những lợi ích và mục đích chung của xã hội” [18]. Các loại quy
phạm xã hội bao gồm: các quy phạm pháp luật; các quy phạm đạo đức; các quy
phạm tập quán, phong tục, luật tục; các quy tắc cộng đồng; các quy phạm của
các tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo.
Tập quán là cách ứng xử hằng ngày của con người được lặp đi lặp lại và
trở thành thói quen của cộng đồng hoặc toàn xã hội. Tập quán bao gồm những
thói quen về suy nghĩ, thói quen trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động.
Tập quán có phạm vi điều chỉnh hẹp và được bảo đảm bằng dư luận xã hội.
Những hành vi được coi là trái với tập quán sẽ bị dư luận lên án, đả kích. Chế


6
tài của tập quán được xem là không “nặng nề lắm” [18] và có sự thể hiện tính
dao động “giữa tình trạng bắt buộc với rất đáng làm theo”


[18]. Tuy nhiên dư
luận của cộng đồng, xã hội được là thứ quyền lực xã hội có tính truyền thống
và đôi khi nó còn mạnh mẽ và dai dẳng hơn pháp luật.
Phong tục là một loại của tập quán, nhưng được lan rộng và ăn sâu vào
đời sống xã hội từ rất lâu đời. So với tập quán, phong tục có tính chất bắt buộc
cao hơn, mang tính phổ biến rộng rãi hơn, nó chứa đựng những chuẩn mực đạo
đức, thẩm mỹ, khoa học mang đậm bản sắc dân tộc và màu sắc tâm linh, tôn
giáo. Phạm vi điều chỉnh của phong tục rộng hơn tập quán, nó ràng buộc, chi
phối hành vi của con người, buộc con người phải có sự lựa chọn cho mình một
cách ứng xử cho phù hợp.
Luật tục là những tập quán, phong tục tồn tại dưới hình thức không
thành văn được truyền miệng từ đời này sang đời khác chứa đựng những quy
tắc xử sự điều chỉnh nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Luật tục không bao
gồm tất cả những phong tục, tập quán thông thường mà chỉ là những phong tục,
tập quán điều chỉnh hành vi của cá nhân trong cộng đồng và mối quan hệ giữa
những cộng đồng dân cư với nhau, mang tính bắt buộc chung, được bảo đảm
thực hiện bằng những hình thức xử phạt và khen thưởng. Hương ước của cộng
đồng làng xã là một hình thức của luật tục bao gồm những quy tắc ứng xử có
nội dung phù hợp tương đối với pháp luật và đạo đức truyền thống của dân tộc.
Hương ước có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định, trật tự của cộng
đồng làng xã Việt Nam. Cho đến nay nhiều bản Hương ước vẫn còn được bảo
tồn nguyên vẹn trong các làng xã. Hiện nay, Nhà nước đang có chính sách phục
hồi những bản Hương ước cổ để kết hợp sử dụng trong hoạt động quản xã hội
đồng thời đó cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát huy những
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.


7
“Trong hệ thống điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật và đạo đức chiếm

vị trí trung tâm, và có vai trò quan trọng nhất” [18]. Điều này xuất phát từ
những đặc tính ưu việt của pháp luật và đạo đức. Cả pháp luật và đạo đức đều
có phạm vi điều chỉnh rộng và được đảm bảo thực hiện bằng những cơ chế có
tính bắt buộc mạnh mẽ. Đạo đức được hình thành trong dân gian từ rất lâu đời
và được thể hiện trong chính những phong tục, tập quán, luật tục. Đạo đức là sự
tổng hợp những nguyên tắc, quan niệm, chuẩn mực xã hội về cái thiện, cái ác,
về lẽ công bằng, về lòng trung thực, về lương tâm con người…Yếu tố đạo đức
luôn xuất hiện trong mọi mối quan hệ xã hội và là chuẩn mực mà các chủ thể
luôn hướng tới. Hành vi của con người được nhìn nhận và đánh giá dưới hai
góc độ pháp luật và đạo đức. Trong điều kiện phát triển hiện nay, đạo đức càng
thể hiện được vai trò của mình trong việc định hướng hành vi con người phù
hợp với những nguyên tắc của pháp luật. Yếu tố đạo đức giúp con người vượt
qua mọi cám dỗ để có một phương cách ứng xử phù hợp nhất với những chuẩn
mực của xã hội. Mặt khác khi xã hội càng phát triển, đạo đức và những giá trị
nhân văn trong mỗi con người càng được đề cao. Nói đến đạo đức là nói đến
lĩnh vực thực sự người, và con người chính là cái đích của mọi hoạt động xã
hội.
Trong xã hội tồn tại nhà nước, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ
đạo chiếm vị trí quan trọng số một trong hệ thống điều chỉnh quan hệ xã hội.
Pháp luật chính là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật được bảo
đảm thực hiện bằng con đường nhà nước. Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật
thực hiện hoạt động quản lý xã hội, hướng các quan hệ xã hội theo một trật tự
phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Mặt khác, với thuộc tính xã hội, ở một
góc độ nào đó pháp luật ghi nhận, bảo vệ lợi ích của những giai cấp khác trong
xã hội. Sử dụng pháp luật là công cụ quản lý xã hội một mặt giai cấp thống trị
bảo vệ được sự thống trị của mình mặt khác có thể dung hòa được lợi ích của


8
những giai cấp khác trong xã hội. Pháp luật không thuần túy chỉ là sản phẩm

của Nhà nước mà còn là sự kết tinh của các giá trị đạo đức, văn hóa truyền
thống thông qua việc luật hóa những niệm chuẩn mực đạo đức, những phong
tục, tập quán tiến bộ trong dân gian. Với những đặc tính ưu việt như vậy, pháp
luật đóng vai trò là công cụ hữu hiệu được nhà nước sử dụng nhằm bảo đảm sự
ổn định, sự phát triển bình thường của xã hội. Tuy nhiên pháp luật không thể
thực hiện được vai trò của mình nếu không có sự hỗ trợ của các quy phạm xã
hội khác. Không phải lúc nào và ở đâu pháp luật cũng có thể điều chỉnh được
hết thảy những lĩnh vực, những mối quan hệ trong đời sống xã hội. Mỗi quy
phạm xã hội đều có những ưu thế và hạn chế riêng, có thể ở những mối quan hệ
mà pháp luật không thể vươn tới điều chỉnh được lại là phạm vi điều chỉnh của
phong tục, tập quán Bên cạnh những điểm hạn chế, lạc hậu, chưa phù hợp với
cuộc sống hiện đại, các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán vẫn có những
quan niệm tích cực, tiến bộ có hiệu quả điều chỉnh như pháp luật. Vì vậy, việc
sử dụng các quy phạm đạo đức, cũng như những quy phạm xã hội khác là một
điều cần thiết trong hoạt động quản lý của nhà nước bên cạnh các quy phạm
pháp luật.
1.1.2 Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
1.1.2.1. Sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức
Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng
kiến trúc, giữa pháp luật và đạo đức tồn tại nhiều điểm chung, tương đồng,
chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong hoạt động điều chỉnh xã hội của nhà
nước.
Cả pháp luật và đạo đức đều có chức năng, mục đích là điều chỉnh hành
vi con người xã hội. Mục đích chung mà cả pháp luật và đạo đức đều hướng
tới đó là nhằm xác lập, củng cố trạng thái ổn định của các mối quan hệ xã hội
dựa trên quan niệm về cái thiện, cái tốt, cái có ích. Cả pháp luật và đạo đức đều


9
được sinh ra, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định, chịu sự chi phối của

các điều kiện chính trị, văn hóa, tư tưởng. Điều này đã tạo nên sự thống nhất
giữa pháp luật và đạo đức. Giữa pháp luật của nhà nước và đạo đức truyền
thống không có sự đối lập, cả hai đều hướng tới mục tiêu vì sự công bằng và lẽ
phải, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là đối tượng bảo vệ, nhằm
thiết lập nên những mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội. Nếu như đạo đức truyền
thống đưa ra những quan niệm về tình yêu thương giữa con người với con
người, về cái thiện cái ác, về lòng vị tha, sự trung thành … thì pháp luật của
Nhà nước lại thể hiện tính nhân dân, nhân đạo sâu sắc, là đại lượng của sự công
bằng và lẽ phải.
Pháp luật thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi thông qua việc quy
định địa vị pháp lý cho các chủ thể trong xã hội (bao gồm các quyền và nghĩa
vụ đối với nhà nước) những điều được phép làm, những điều bị ngăn cấm và
những hành vi được sự khuyến khích của Nhà nước. Trong một giới hạn nhất
định, pháp luật đã đưa ra những sự lựa chọn nhằm định hướng hành vi con
người theo những chuẩn mực do nhà nước đặt ra. Hoạt động điều chỉnh của
pháp luật được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Không giống
như pháp luật, đạo đức thực hiện sự điều chỉnh xã hội thông qua dư luận xã hội
và lương tâm con người. Đạo đức cũng đưa ra những chuẩn mực mà theo đó
con người được phép làm những gì, không được phép làm những gì, có những
hành vi bị ngăn cấm và có những hành vi nhận được sự cổ vũ khuyến khích.
Tuy nhiên, đạo đức thực hiện điều chỉnh hành vi con người thông qua việc tạo
dư luận xã hội, dư luận cộng đồng nhằm lên án, bài trừ cái ác, cái xấu, khuyến
khích cái thiện và bằng việc việc khơi dậy ý thức tự giác, tự nguyện trong mỗi
người. Như vậy, có thể nhận thấy giữa pháp luật và đạo đức có sự tương đồng
về cách thức điều chỉnh hành vi con người. Cả pháp luật và đạo đức đều xác
định cho các chủ thể những hành vi được phép làm, bắt buộc phải làm và


10
những hành vi cấm không được làm. Xét cho đến cùng thì những điều mà pháp

luật cấm cũng là những điều mà đạo đức cấm và cần có sự lên án của xã hội.
Giữa pháp luật và đạo đức tồn tại mối quan hệ hữu cơ, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người. Pháp luật và đạo đức trực
tiếp tác động lên hành vi của con người, định hướng, đánh giá hành vi của con
người dựa trên những tiêu chí nhất định. Hiện nay, với việc đề cao cả pháp luật
và đạo đức, hành vi của con người thường được nhìn nhận và đánh giá dưới hai
góc độ pháp luật và đạo đức. Thực tế cho thấy, không ít những hành vi vi phạm
đạo đức được che đậy dưới cái vỏ bọc hợp pháp. Vì vậy, để nhìn nhận thấu đáo
bản chất của hành vi chúng ta cần đánh giá cả về phương diện đạo đức và
phương diện pháp luật trên những tiêu chí cụ thể. Về mức độ đánh giá giữa
pháp luật và đạo đức cũng có sự tương đồng. Trong điều kiện nhà nước pháp
quyền, giữa pháp luật của nhà nước và đạo đức truyền thống luôn có sự thống
nhất, do vậy khi một hành vi chịu sự đánh giá của đạo đức cũng có nghĩa hành
vi đó có thể chịu sự đánh giá của pháp luật. Như đối với hành vi gian dối trong
kinh doanh đều chịu sự điều chỉnh, đánh giá của cả pháp luật và đạo đức. Bản
thân người thực hiện hành vi đó sẽ bị dư luận xã hội lên án, đả kích đồng thời
lương tâm của người đó cũng bị cắn rứt không yên. Còn trước pháp luật, người
đó sẽ phải nhận hình phạt tương xứng với những hậu quả đã gây ra cho người
khác và xã hội.
Biện pháp cưỡng chế của pháp luật và đạo đức đều có sức mạnh như
nhau trong việc điều chỉnh hành vi tuy nhiên, với đạo đức bằng việc tác động,
đánh vào lương tâm, ý thức con người dường như nó có sức mạnh thẩm thấu và
dai dẳng hơn cả pháp luật. Sự lên án của xã hội có tác dụng đánh thức lương
tâm, trách nhiệm đối với cộng đồng trong mỗi con người. Hình phạt của pháp
luật có thể ngay lập tức làm chấm dứt hành vi nguy hiểm cho xã hội tuy nhiên
để ngăn ngừa hành vi tái phạm thì cần đến sự tác động của đạo đức thông qua


11
công tác giáo dục, cảm hóa con người. Do vậy, pháp luật muốn phát huy hiệu

quả sức mạnh cần có sự hỗ trợ của của đạo đức với những tác động tâm tâm lý,
tinh thần đối với con người nếu không pháp luật sẽ có nguy cơ thành vô hiệu.
Pháp luật và đạo đức còn có sự tương đồng về thái độ, sự cảm nhận,
cách đánh giá đối với hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức đều có thái
độ, hoan nghênh, ủng hộ những hướng xử sự tích cực, mang lại lợi ích cho bản
thân, cộng đồng, xã hội như đối với hành vi tự thú của người phạm tội cả pháp
luật và đạo đức đều có sự đánh giá cao, hoan nghênh hành vi đó. Cách xử lý
đối với những hành vi này cũng thể hiện sâu sắc tính nhân đạo, nhân văn vốn
có của đạo đức và pháp luật. Trong dân gian thường có câu: “đánh kẻ chạy đi ai
đánh người chạy lại” điều này thể hiện sự vị tha của xã hội đối với những
người lầm đường lạc lối nhưng biết quay đầu lại. Cũng như vậy, trong pháp
luật có chính sách cho người tự đầu thú được hưởng lượng khoan hồng. Việc
quy định các tình tiết giảm nhẹ (Luật hình sự) cũng là một trong những biểu
hiện chính sách nhân đạo của nhà nước đối với người phạm tội…
1.1.2.2 Sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức
Pháp luật và đạo đức là hai công cụ điều chỉnh có vị trí, vai trò trung tâm
trong hệ thống điều chỉnh xã hội. Giữa pháp luật và đạo đức tồn tại nhiều điểm
tương đồng, bổ sung hỗ trợ cho nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người
cũng như các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, với tư cách là những phương tiện
điều chỉnh độc lập, giữa pháp luật và đạo đức cũng tồn tại những điểm khác
biệt cơ bản. Đó là sự khác biệt về nguồn gốc hình thành, về phạm vi điều
chỉnh, hình thức thể hiện và các biện pháp bảo đảm thực hiện.
Về nguồn gốc hình thành. Về sự hình thành của đạo đức đã có rất nhiều
quan điểm thuộc nhiều trường phái khác nhau đưa ra nhằm giải thích sự ra đời
của đạo đức. Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
Mác – Lê nin đã khẳng định nguồn gốc xã hội của đạo đức. Đạo đức được hình


12
thành xuất phát từ nhu cầu duy trì trật tự xã hội cũng như trật tự của các mối

quan hệ giữa con người với con người. Đạo đức xuất hiện ngay từ buổi bình
minh sơ khai của loài người, nhờ có đạo đức mà con người có thể tồn tại, phát
triển trong sự ràng buộc, gắn kết giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng
cùng với những quan niệm, chuẩn mực trong cách hành xử. Được sinh ra từ đời
sống xã hội do vậy đạo đức phải phù hợp với xã hội và không ngừng thay đổi
cùng sự vận động của xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, pháp luật ra đời cùng
với sự xuất hiện của nhà nước dựa trên những điều kiện nhất đinh đó là sự
hình thành chế độ tư hữu, sự phân hóa, đấu tranh giai cấp trong xã hội. Pháp
luật được ra đời một mặt nhằm thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của giai cấp
thống trị nhưng mặt khác nó cũng đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội, xác lập, một trật tự xã hội ổn định mà nếu thiếu nó xã hội không thể tồn
tại được. Pháp luật được hình thành trên cơ sở những quan niệm, chuẩn mực
đạo đức, phong tục tập quán tồn tại trong xã hội chưa có giai cấp. Như vậy
pháp luật là một hiện tượng xã hội được hình thành trên những điều kiện kinh
tế chính trị, xã hội nhất định, cơ sở hình thành của pháp luật chính là những
quy phạm xã hội đã có từ xã hội nguyên thủy.
Về phạm vi điều chỉnh
Mặc dù pháp luật và đạo đức đều thực hiện hoạt động điều chỉnh đối với
hành vi của con người cũng như những mối quan hệ của con người trong xã
hội. Tuy nhiên phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức không hoàn toàn
trùng nhau. Có những mối quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo đức và ngược lại. Phạm vi
điều chỉnh của đạo đức rộng lớn hơn phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Pháp
luật không thể điều chỉnh hết thảy những mối quan hệ trong xã hội mà chỉ điều
chỉnh những mối quan hệ xã hội quan trọng ít nhiều mang tính chất quốc


13
gia…Đạo đức điều chỉnh những mối quan hệ không thuộc phạm vi điều chỉnh

của pháp luật, những mối quan hệ trực tiếp thể hiện tính chất hành vi của con
người, có thể nhìn nhận, đánh giá từ phương diện đạo đức như tình cảm bạn
bè, tình yêu đôi lứa…Trên thực tế, phạm vi điều chỉnh của pháp luật rất rộng,
bao quát hầu hết những mối quan hệ trong xã hội chỉ để lại một số ít những
quan hệ xã hội mang tính tình cảm là phạm vi tác động thuần túy của đạo đức.
Tuy nhiên, có thể thấy trong mọi lĩnh vực, mọi mối quan hệ xã hội đều có sự
tham gia điều chỉnh của đạo đức.Vì vậy mà sự khác biệt giữa pháp luật và đạo
đức chỉ mang tính tương đối, về cơ bản, pháp luật và đạo đức cùng thực hiện sự
điều chỉnh ở những mức độ nhất định lên hành vi và những mối quan hệ xã hội
của con người.
Trong hệ thống pháp luật có những quy phạm mang tính pháp lý – kỹ
thuật, những quy pham quy định trình tự, thủ tục pháp lý…xét về mặt hình thức
không hề liên quan đến đạo đức. Tuy nhiên xét về bản chất, việc thực hiện
những quy phạm đó lại cần đến sự đánh giá từ phương diện đạo đức. Như vậy
có thể nói, phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn phạm vi điều chỉnh của
pháp luật, nó bao trùm lên mọi mối quan hệ, mọi lĩnh vực trong đời sống xã
hội. Trong thực tế, không có một lĩnh vực, một mối quan hệ nào lại không có
sự liên quan ít nhiều đến đạo đức, không chịu sự đánh giá từ phương diện đạo
đức.
Về hình thức, mức độ thể hiện
Pháp luật được thể hiện dưới hình thức thành văn trong những văn bản
quy phạm pháp luật, nội dung của pháp luật được thể hiện thành những quy
định về các quyền và nghĩa vụ cùng những biện pháp xử lý vi phạm. Việc xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo những quy
trình nghiêm ngặt, từng câu từng chữ được lựa chọn, cân nhắc kỹ càng. Do vậy,
mức độ thể hiện của pháp luật luôn cụ thể, chi tiết hơn đạo đức. So với pháp


14
luật, đạo đức có mức độ thể hiện phổ quát, đa dạng hơn bao gồm những chuẩn

mực, quy tắc ứng xử, những quan niệm, cảm xúc… được thể hiện dưới hình
thức bất thành văn tồn tại trong phong tục, tập quán, luật tục, trong ca dao, tục
ngữ, trong hương ước, được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời
khác. Ca dao, tục ngữ là những hình thức thể hiện rất đặc sắc của đạo đức, rất
mộc mạc, ngắn gọn nhưng chứa đựng những triết lý về cuộc sống rất sâu sắc
như câu ca dao nói về cách ứng xử sao cho được lòng mọi người:
“Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê” [18]
Đạo đức điều chỉnh hành vi con người dựa trên những cảm xúc, quan
niệm, chuẩn mực, những nguyên tắc chung chung, còn pháp luật lại điều chỉnh
bằng việc đưa ra những tiêu chí cụ thể nhằm đánh giá hành vi con người. Ví dụ
cùng điều chỉnh về hành vi cứu giúp người trong lúc hoạn nạn nhưng giữa đạo
đức và pháp luật có những cách điều chỉnh khác nhau. Đạo đức chỉ khuyên con
người nên sống “tắt lửa tối đèn có nhau” [18] nhưng pháp luật lại điều chỉnh
một cách cụ thể hơn bằng việc quy định dấu hiệu cấu thành tội không cứu giúp
người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng ở Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Sự khác biệt về phương thức bảo đảm thực hiện
Đạo đức được bảo đảm thực hiện bằng những cơ chế tác động bên trong
đó là lương tâm con người và bên ngoài chính là sức mạnh của dư luận xã hội.
Trong khi đó pháp luật được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước,
bằng hoạt động giáo dục, thuyết phục và bằng cả sự tự giác thực hiện của các
chủ thể pháp luật trên cơ sở sự tự nhận thức về pháp luật. Các phương thức bảo
đảm của cả pháp luật và đạo đức đều có sức mạnh cưỡng chế đối với hành vi
con người, tuy nhiên xét về tính chất và mức độ thì những phương thức bảo
đảm của pháp luật mang tính cưỡng chế mạnh hơn với những biện pháp xử lý
nghiêm khắc hơn. Như vậy, không có nghĩa các phương thức bảo đảm của đạo


15
đức do không có sức mạnh cưỡng chế như pháp luật mà kém hiệu quả hơn

pháp luật. Cơ chế tác động bằng lương tâm và dư luận xã hội của đạo đức có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tác động đến ý thức và hành vi con người.
Bởi các biện pháp xử lý của pháp luật thì có giới hạn về thời hiệu, thời hạn còn
với đạo đức sự lên án của xã hội, của lương tâm là vô thời hạn thậm chí kéo
suốt cuộc đời của một con người . Người xưa đã có câu:
“Trăm năm bia đá vẫn còn
Trăm năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” [18]
Xét về mức độ tác động đến nhận thức, tình cảm của con người thì
dường như các phương thức bảo đảm của đạo đức chiếm ưu thế hơn pháp luật
bằng sự dai dẳng, âm ỉ qua không gian và thời gian. Con người sống ở bất cứ
đâu thường rất trọng danh dự và phẩm giá bằng cơ chế tạo tin đồn, hạ thấp uy
tín của một con người, thậm chí một dòng họ chính là những bảo đảm cho sự
ổn định, trật tự trong cộng đồng dân cư. Sự lên án của dư luận, sự ám ảnh tội
lỗi khiến con người phải lựa chon, cân nhắc khi thực hiện hành vi đặc biệt nó
có tác dụng ngăn chặn hành vi tái phạm.
Hành vi đạo đức thường được thực hiện ở hai mức độ trong hai trường
hợp khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất, hành vi đạo đức được thực hiện
xuất phát từ lương tâm, từ sự nhận thức phải hành động thế nào cho đúng trong
những tình huống nhất định. Thực chất tại thời điểm đó, ở mỗi người đã diễn ra
sự đấu tranh quyết liệt giữa cái thiện và cái ác, giữa cái đúng và cái sai, cuối
cùng sự thôi thúc của lương tâm đã khiến họ thực hiện một hành vi hợp đạo
đức ví như hành vi cứu sống một người đã từng là kẻ thù của mình, hành vi thú
tội của kẻ phạm tội….Trong trường hợp thứ hai, hành vi đạo đức được thực
hiện bởi sự tác động của nhân tố bên ngoài đó là dư luận xã hội. Vì sợ bị dư
luận lên án mà một người bắt buộc phải thực hiện một hành vi đạo đức. Cũng
có trường hợp hành vi đạo đức được thực hiện do thói quen hàng ngày. Mặc dù


16
vậy sự phân định thành hai mức độ thực hiện hành vi đạo đức chỉ mang tính

chât tương đối.
Sự khác biệt giữa vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật được thực hiện bằng hành động
hoặc không hành động, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ,
được thực hiện bởi những chủ thể có năng lực hành vi và có lỗi. Vi phạm đạo
đức có thể xem là hành vi đi ngược với những quan điểm, chuẩn mực, nguyên
tắc của đạo đức xã hội, xâm hại đến những quan hệ xã hội được đạo đức bảo
vệ, do các chủ thể (cá nhân, tổ chức) thực hiện một cách cố ý.
Vi phạm pháp luật phải được thể hiện thành hành vi có thể là hành động
hoặc không hành động. Pháp luật không điều chỉnh những suy nghĩ bên trong
con người. Do vậy, việc phạm tội mới nằm trong ý tưởng sẽ không bị truy cứu
trách nhiệm pháp luật (trừ tội những tội xâm hại an ninh quốc gia). Với đạo
đức, vi phạm đạo đức không chỉ được thể hiện thành hành vi mà còn là những
suy nghĩ , nhận định, ý kiến của một người về một vấn đề.
Giữa vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức còn có sự khác nhau về
khách thể, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi…Khách thể của đạo đức rộng
hơn khách thể của pháp luật, có những quan hệ xã hội pháp luật không thể điều
chỉnh hết, nhưng trong mọi mối quan hệ đều có sự xuất hiện của đạo đức. Mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm đạo đức thường ít hơn so với
hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt là vi phạm pháp luật hình sự. Hậu quả mà vi
phạm đạo đức gây ra thường là những tổn hại mang tính chất tâm lý tình cảm,
danh dự nhân phẩm.
Đối với đạo đức, cho dù hành vi vi phạm có gây hậu quả hay không, hậu
quả gây ra dù nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng đều chịu sự lên án của dư
luận xã hội, của lương tâm. Còn với pháp luật, việc truy cứu trách nhiệm đối
với một người phải được xem xét dưới nhiều góc độ, hành vi đó phải thỏa mãn


17
những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tính, phải đánh giá mức độ nguy hiểm

cho xã hội…Một người chỉ được xem là có tội nếu có sự phán xét của tòa án
bằng một bản án có hiệu lực.
1.1.2.3. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức
Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức được quy định bởi sự
thống nhất và khác biệt tương đối giữa pháp luật và đạo đức, thể hiện ở vai trò
của pháp luật đối với đạo đức và đạo đức đối với pháp luật.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội xuất hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu
quản lý xã hội, thể hiện ý chí và bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị. Pháp luật
có nguồn gốc từ đạo đức, được xây dựng trên cở sở một nền tảng đạo đức nhất
định. Pháp luật với sức mạnh riêng của mình có những tác đông mạnh mẽ đến
đạo đức xã hội thông qua việc ghi nhận và tạo cơ chế bảo đảm cho sự tồn tại
của những quan niệm, chuẩn mực đạo đức tiến bộ, đồng thời cũng có thể hạn
chế, loại bỏ ra khỏi xã hội những quan niệm chuẩn mực đạo đức tiêu cực, phản
tiến bộ, không phù hợp với pháp luật của nhà nước. Các giá trị đạo đức luôn
vận động và biến đổi không ngừng cùng với sự phát triển của xã hội. Pháp luật
không tạo ra các giá trị đạo đức mới mà chỉ đóng vai trò thúc đẩy, hỗ trợ việc
cho việc xuất hiện của những giá trị đạo đức đó đồng thời loại bỏ những giá trị
chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời. Bằng việc thể chế hóa những quan niệm, chuẩn
mực đạo đức tiến bộ, pháp luật đã thực hiện chức năng bảo vệ, phát huy những
giá trị tốt đẹp của đạo đức đồng thời biến chúng trở thành thói quen ứng xử
hàng ngày. Những nguyên tắc chuẩn mực của đạo đức được đưa vào nội dung
của pháp luật trở thành quy tắc ứng xử chung bắt buộc mọi chủ thể phải tuân
theo và được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
Pháp luật ghi nhận những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức theo nhiều cách thức
khác nhau, có thể là ghi nhận một cách trực tiếp vào các điều luật như những
quy định của lĩnh vực luật dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy


18
định “Con cái có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ,

lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền
thống tốt đẹp của gia đình” (Điều 3). Đạo đức cũng có thể được ghi nhận gián
tiếp thông qua việc quy định những dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật chủ
yếu trong pháp luật hình sự ví dụ pháp luật Hình sự Việt Nam tại điều 110 đã
quy định rõ ràng đối tượng của tội hành hạ người khác là người già, trẻ em, phụ
nữ có thai, người tàn tật hoặc hành vi được thực hiện với nhiều người. Như
vậy, đạo đức không chỉ còn tồn tại như những chuẩn mực, những quan niệm
chung chung mà được cụ thể hóa trong pháp luật và có được sức mạnh như
pháp luật, cùng pháp luật thực hiện việc điều chỉnh hành vi con người cùng
những mối quan hệ xã hội của họ. Đưa các chuẩn mực đạo đức tiến bộ vào các
quy định của pháp luật một mặt khẳng định vai trò của pháp luật trong việc giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức mặt khác cũng thể hiện sự đánh của Nhà
nước đối với vai trò của đạo đức trong xã hội.
Trong mối tương quan giữa pháp luật và đạo đức, đạo đức đóng vai trò
là cơ sở, là môi trường thuận lợi để con người tiếp thu, cảm nhận và thực hiện
pháp luật. Đạo đức là một lĩnh vực thực sự người, những nguyên tắc chuẩn
mực của đạo đức giúp con người sống có nhân, có nghĩa hướng tới cái thiện
nhiều hơn. Trong hoạt động thực hiện pháp luật, những giá trị đạo đức là điều
kiện cần thiết để con người có được tình cảm, thái độ tốt đối với pháp luật. Một
người sống không có nhận thức đầy đủ những giá trị đạo đức thì ắt hẳn không
thể là người có thái độ thực hiện pháp luật tốt. Khi thực hiện bất cứ một hành
vi nào con người cũng cần phải xuất phát từ cái tâm. Trong mọi trường hợp,
yếu tố đạo đức luôn đi đầu trong việc điều chỉnh hành vi con người sau đó mới
đến yếu tố pháp luật. Do vậy, đạo đức là môi trường, là nội lực thúc đẩy con
người muốn hành động phù hợp với pháp luật từ đó hình thành ý thức, thói
quen xử xử theo pháp luật. Các nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức cũng đóng


19
vai trò quan trọng trong hoạt động giải thích, tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật. Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được thực hiện trên
cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức, xuất phát từ những giá trị đạo
đức tốt đẹp. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật chỉ có thể đạt hiệu quả cao
nếu kết hợp tốt việc nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục đạo đức.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật. Để có được một hệ thống pháp luật
hoàn thiện, phát huy hiệu quả điều chỉnh trên thực tế cần phải phù hợp với thực
tế và những chuẩn mực đạo đức xã hội. Nhận thức được điều này, khi xây dựng
pháp luật các nhà làm luật luôn xuất phát từ quan điểm bảo đảm sự phù hợp
của các quy phạm pháp luật với đạo đức xã hội trong từng thời kỳ lịch sử.
Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý thức xã hội do con người sáng tạo
nên nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết lập và duy trì sự ổn định trật tự của xã hội.
Mặc dù còn tồn tại những điểm khác biệt nhưng về cơ bản pháp luật và đạo đức
thống nhất với nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người. Giữa pháp luật và
đạo đức có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung hỗ trợ nhau trong quá
trình điều chỉnh xã hội. Lịch sử nhà nước và pháp luật đã có nhiều những hệ
thống tư tưởng đề cao pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội của
nhà nước. Pháp luật và đạo đức đã được sử dụng như những công cụ điều chỉnh
hữu hiệu nhằm duy trì địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Chỉ
đến xã hội xã hội chủ nghĩa pháp luật và đạo đức mới được sử dụng là công cụ
bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của con người. Trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa pháp luật và đạo đức xét đến cùng đều vì con người.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC.
1.2.1 Cơ sở lý luận quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật
và đạo đức.


20
Ngay từ những ngày đầu tiếp cận với nền văn hoá Phương Tây, Hồ Chí
Minh đã sớm được nghiên cứu những thành tựu về khoa học xã hội của chủ

nghĩa Mác xít. Khi nghiên cứu hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác xít
Người đã nhận thấy ở đây chân lý cho con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước. Vì vậy có thể nói chủ nghĩa Mác xít chính là kim
chỉ nam cho tư tưởng cũng như hành động của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức của Hồ Chí Minh
cũng dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác xít về mối quan hệ giữa
đạo đức và pháp quyền.
Theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác xít, pháp luật và đạo đức là sản phẩm
của những điều kiện kinh tế nhất định, được quy định bởi các điều kiện kinh
tế và xã hội. Ph. Ăng ghen nhận định rằng: “xét đến cùng mọi học thuyết về
đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã
hội lúc bấy giờ ”[11]. Do vậy, pháp luật và đạo đức luôn vận động, biến đổi
cùng với sự phát triển của xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội sẽ có một
tương ứng một hình thái đạo đức và pháp luật.
Theo quan điểm của Mác khi nghiên cứu về đạo đức cần phải đặt đạo
đức trong mối tương quan với những hình thái ý thức xã hội khác như chính
trị, pháp luật, khoa học nghệ thuật…. thì mới làm sáng tỏ được bản chất của
nó. Bởi “với tư cách là một hình thái ý thức, đạo đức không phải là kết quả do
tác động của một yếu tố riêng biệt, duy nhất nào. Tính phức tạp và biện chứng
trong sự phát triển của nó luôn gắn liền với tác động đa tầng và đa hướng,
trong đó quan hệ giữa đạo đức - chính trị, pháp quyền là xoắn xuýt hơn cả ”
[15].
“Chính trị là hiện tượng phổ biến xác định quan hệ giai cấp, tương quan
lực lượng giai cấp là sự biểu hiện tập trung của kinh tế trong xã hội có giai
cấp” [11]. Chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội.


21
Trong xã hội chính trị đóng vai trò là sợi dây liên hệ, chất kết dính giữa nhà
nước với cơ sở hạ tầng kinh tế và với các bộ phận khác trong kiến trúc thượng

tầng. Thông qua tổ chức nhà nước, chính trị tác động trở lại cơ sở kinh tế và
trong những giới hạn nhất định thay đổi cơ sở kinh tế.
Còn pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, được thể hiện thành luật
lệ, do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng
chế nhà nước - pháp luật là “biện pháp chính trị” [14]. Các Mác và Ăngghen
đã nói về pháp luật tư sản rằng “pháp quyền của các ông chỉ là lý trí của giai
cấp tư sản đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung do những điều kiện
sinh hoạt vật chất của giai cấp quyết định”[14]

.
Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá
quan hệ ứng xử giữa con người với con người trong xã hội. Chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh dư luận xã hội. Đạo
đức không chỉ là những giá trị trong quan hệ giữa người và người, giữa con
người với xã hội, mà còn là tính tự trọng, sự tự ý thức về danh dự và nhân
phẩm mỗi người.
Như vậy pháp luật, đạo đức và chính trị là những hệ thống chuẩn mực
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích duy trì, phát triển và bảo vệ
trật tự xã hội theo quan điểm của giai cấp thống trị.
Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng: “chung quy lại thì mọi học thuyết
đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của nền kinh tế - xã hội lúc
bấy giờ”[14]. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, đạo đức luôn là đạo đức
của một giai cấp nhất định. Những chuẩn mực đạo đức giữ vị trí thống trị
trong xã hội là những chuẩn mực, những nguyên tắc đạo đức do giai cấp
thống trị đặt ra, được truyền bá và áp đặt trong xã hội nhằm bảo vệ sự thống
trị về chính trị của giai cấp ấy. Vì vậy, đạo đức trong xã hội có giai cấp bao
giờ cũng chứa đựng nội dung chính trị và phục vụ chính trị. Và đương nhiên


22

sẽ không có sự thống nhất giữa hệ thống chính trị và đạo đức của nhân dân.
Đạo đức của nhân dân là những nguyên tắc, những chuẩn mực được sinh ra từ
cuộc sống lao động phản ánh ước mơ, nguyện vọng của nhân dân về tự do,
bình đẳng, về tình thương giữa con người và con người. Những quan hệ đạo
đức của nhân dân luôn mâu thuẫn, xung đột với chủ trương, chính sách của
giai cấp thống trị, bóc lột.
Tuy nhiên, chỉ đến xã hội xã hội chủ nghĩa với mục tiêu giải phóng con
người, giải phóng xã hội, đề cao tình yêu thương giữa con người với con
người thì những giá trị đạo đức tiến bộ của nhân dân mới có cơ hội và khả
năng được hiện thực hoá. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về cơ bản là có sự
thống nhất giữa lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của xã
hội, của toàn thể nhân dân lao động. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng cộng sản. “Theo quan điểm của V.I. Lê Nin sự thống nhất giữa chính trị
- đạo đức của Đảng cộng sản và nhân dân trở thành một trong những động
lực căn bản thúc đẩy sự phát triển của xã hội”[15].
“Trong Hệ tư tưởng Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định giai
cấp nào đang là lực lượng vật chất chiếm vị trí thống trị trong xã hội thì cũng
là lực lượng tinh thần chiếm vị trí thống trị”[11]. Theo đó có thể nói, trong xã
hội có sự phân chia giai cấp, giai cấp thống trị có tác động chi phối đến các
hình thái ý thức thuộc kiến trúc thượng tầngtrong đó có pháp luật và đạo đức.
Đồng thời giai cấp thống trị cũng sử dụng đạo đức và pháp luật nhằm bảo vệ
địa vị thống trị của mình trong xã hội, thông qua nhà nước thực hiện việc
quản lý xã hội. “Bất kỳ một giai cấp, một nhà nước của giai cấp cầm quyền
nào cũng đều có ý thức trong việc sử dụng hai hình thái ý thức xã hội này
phục vụ cho lợi ích của mình” [15]. Pháp luật và đạo đức là hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc chung tham gia quy định, điều chỉnh các hành vi và hoạt


23

động xã hội của con người, nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị của
giai cấp thống trị. Pháp luật có vai trò bảo vệ, duy trì và củng cố một kiểu đạo
đức nhất định, ngược lại đạo đức cũng có tác dụng củng cố, bảo vệ hệ thống
pháp luật nhất định. Mặc dù có sự thống nhất về chức năng điều chỉnh hành vi
con người nhưng giữa pháp luật và đạo đức vẫn tồn tại những điểm khác biệt.
Pháp luật mang tính cưỡng chế, cưỡng bức còn đạo đức được thực hiện dựa
trên sự tự nguyện, tự giác ít dùng đến cưỡng chế và cưỡng bức. Tuy nhiên, sự
khác biệt này chỉ là tương đối bởi trên thực tế cả pháp luật và đạo đức đều cần
đến sức mạnh của cưỡng chế và yếu tố tự giác, tự nguyện. So sánh về mức độ
cưỡng chế thì pháp luật có sức mạnh cưỡng chế hơn đạo đức bởi pháp luật
được đảm bảo bởi con đường nhà nước, trong khi đó đạo đức được đảm bảo
bằng cơ chế lên án của xã hội, của lương tâm con người do vậy sức mạnh
cưỡng chế của đạo đức sẽ không bằng pháp luật.
Mặt khác, giữa pháp luật và đạo đức còn tồn tại những điểm khác biệt
về thời điểm xuất hiện, phương thức thể hiện. Pháp luật chỉ xuất hiện khi xã
hội có sự phân chia giai cấp và hình thành Nhà nước. Trong khi đó đạo đức
xuất hiện cùng với sự xuất hiện của loài người, ban đầu nó tồn tại dưới hình
thức phong tục, tập quán nguyên thuỷ. Với sự tồn tại lâu dài và bền bỉ cùng
với xã hội loài người đạo đức đã khẳng định được vị trí của mình trong hệ
thống những công cụ điều chỉnh xã hội. “Chủ nghĩa Mác – Lên nin đã đưa ra
dự báo rằng pháp luật sẽ mất đi cùng với sự xoá bỏ xã hội có giai cấp và đến
lúc đó đạo đức sẽ “ngự trị” hoàn toàn, nó thay thế pháp luật để điều hoà các
hành vi, hoạt động của con người” [15]. Tuy nhiên để xoá bỏ sự tồn tại của xã
hội có giai cấp không phải là điều dễ dàng và diễn ra ngay được. Pháp luật
vẫn là công cụ điều chỉnh hiệu quả nhất trong hệ thống các công cụ điều chỉnh
xã hội. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận vai trò của đạo đức trong việc
điều


24

chỉnh các quan hệ xã hội. Với phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với pháp luật
cùng với sức mạnh cưỡng chế bằng dư luận xã hội, đạo đức có thể điểu chỉnh
được hầu hết các quan hệ xã hội. Dư luận xã hội không chỉ lên án những hành
vi phản đạo đức mà còn cổ vũ, khuyến khích những hành vi tích cực phù hợp
với những chuẩn mực của đạo đức và pháp luật.
Pháp luật và đạo đức là những phạm trù lịch sử, nó vận động cùng với
sự biến đổi của các điều kiện kinh tế xã hội. Pháp luật biến đổi gần như toàn
bộ thông qua đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng . V.I. Lê Nin đã chỉ rõ,
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa khi mà giai cấp thống trị đã chuyển thượng
tầng kiến trúc của nó sang phía hoàn toàn phản động về chính trị, thì nó tự bỏ
luôn cả những bộ mặt “dân chủ”, “bác ái”, “công bằng” giả hiệu của pháp luật
tư sản do chính nó xây dựng nên từ trước đó và chỉ áp dụng những “đạo luật
trắng trợn”[15]. Khi xã hội có sự biến đổi về chính trị, một giai cấp mới lên
nắm quyền thống trị xã hội thay thế giai cấp vừa bị lật đổ, thì giai cấp mới sẽ
không sử dụng toàn bộ hệ thống pháp luật của giai cấp cầm quyền cũ để quản
lý xã hội. Trên cơ sở pháp luật cũ, giai cấp cầm quyền sẽ xây dựng nên một
hệ thống pháp luật mới nhằm thể hiện ý chí và bảo vệ địa vị thống trị của
mình trong xã hội. Trong khi đó sự biến đổi của chính trị lại không làm mất đi
ngay lập tức những giá trị đạo đức cũ mà trong những trường hợp nhất định,
giai cấp cầm quyền mới còn phải sử dụng đạo đức trong quá trình cai trị xã
hội. Đạo đức có sức sống bền bỉ trong lòng nhân dân vì vậy mà việc xóa bỏ
những quan niệm đạo đức không còn phù hợp với điều kiện mới không phải
là điều dễ dàng. Vì vậy mà, việc xây dựng một nền đạo đức mới, tiến bộ, hiện
đại là nhiệm vụ không thể thực hiện một cách nóng vội được.
Như vậy, có thể thấy giữa đạo đức, chính trị và pháp quyền có mối
quan hệ khăng khít với nhau cùng phục vụ đường lối chính trị của một giai
cấp thống trị nhất định. “Hai lĩnh vực đạo đức và pháp luật cùng tồn tại như

×