Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.82 KB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ MINH THU





VAI TRß CñA HIÕN PH¸P
TRONG VIÖC KIÓM SO¸T QUYÒN LùC NHµ N¦íC



Chuyên ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. NGUYỄN ĐĂNG DUNG








HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Minh Thu









MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục những chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: HIẾN PHÁP VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC 5
1.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước - Lý do ra đời Hiến pháp. 5
1.2. Biểu hiện của kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp 21
1.2.1. Hiến pháp ghi nhận quyền lực nhà nước được phân công, phân
nhiệm và tự kiểm tra bên trong bằng cơ chế kìm chế và đối trọng
- một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước 21
1.2.2. Hiến pháp kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc bảo đảm cho
nhân quyền không bị vi phạm 31
Chương 2: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC
HIẾN PHÁP VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 2013 37
2.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1946 37
2.2. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1959 47
2.3. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1980 52
2.4. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 57
2.4.1. Sự kiểm soát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan

hành chính và tư pháp 58
2.4.2. Sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với các cơ quan khác của
nhà nước 62

Chương 3: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG HIẾN
PHÁP NĂM 2013 72
3.1. Phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 72
3.2. Quyền con người được đề cao và đảm bảo trong Hiến pháp 2013 88
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102





DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
DN: Doanh nghiệp
HĐND: Hội đồng nhân dân
QH: Quốc hội
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
UBND: Ủy ban nhân dân
UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong cuốn sách “Các quyền của con người” (1791-1792), Thomas
Paine viết: Hiến pháp không phải là một đạo luật của chính quyền nhưng là
của nhân dân tạo dựng nên chính quyền và một chính quyền không có Hiến
pháp là quyền lực không có quyền… Hiến pháp là một vấn đề đứng trước
chính quyền và chính quyền chỉ là tay sai của Hiến pháp.
Hiến pháp là bản văn đặt nền móng cho một quốc gia hiện đại, là hiện
thân của khế ước cơ bản giữa nhân dân và là hình thức cao nhất của pháp luật.
Thông qua hiến pháp, con người chính thức đánh đổi quyền tự do tự nhiên để
trở thành một công dân, chính thức đánh đổi một phần quyền tự do quyết định
của mình vào tay một số người cầm quyền để có được sự che chở của xã hội,
đại diện bởi luật pháp.
Nhà nước là rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Cho đến hiện
nay và tương lai sau này con người không thể sống thiếu nhà nước, trong một
trạng thái vô chính phủ, ít nhất là cho đến khi xây dựng xong chủ nghĩa cộng
sản. Ở phương diện nào đó, Nhà nước có xu hướng lạm quyền mà vi phạm
đến quyền lợi của cá nhân sống trong Nhà nước đó. Chính vì nhằm mục đích
ngăn chặn sự vi phạm này từ phía Nhà nước, hay theo cách nói của C.Mác là
sự tha hóa của nhà nước nên cần phải có một bản văn quy định sự kiểm soát
quyền lực nha nước. Đó là Bản Hiến pháp. Hiến pháp là một bản văn luật có
vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam trong suốt gần nửa thế kỷ, mặc dù Hiến pháp 1946 đã thiết
lập sự chế ước quyền lực lẫn nhau giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhưng do chiến tranh nổ ra nên không thực hiện được. Hiến pháp 1959
và Hiến pháp 1980 tổ chức quyền lực Nhà nước ở Việt Nam cho thấy việc


2

phân công quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp còn mờ
nhạt. Đến Hiến pháp 1992 được xây dựng trong thời kỳ công cuộc đổi mới
đất nước, mở cửa nền kinh tế và nhất là chủ trương xây dựng nhà nước pháp
quyền thì quyền lực nhà nước đã được phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đến thời điểm hiện nay, Hiến pháp 2013 đã tiến thêm bước rất quan
trọng khi ghi nhận sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trên cơ sở các thành tựu đã đạt được của phương diện kiểm soát quyền
lực Nhà nước qua các bản Hiến pháp lịch sử và đặc biệt là Bản Hiến pháp mới
năm 2013, tôi đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ: “Vai trò của Hiến pháp
trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm những năm gần đây đã có một số đề tài, công trình
nghiên cứu kiểm soát quyền lực Nhà nước với mục đích, góc độ phạm vi tiếp
cận khác nhau trong đó ít nhiều đề cập tới vấn đề học viên đang nghiên cứu.
Các tài liệu học viên được tiếp cận gồm:
- Sự hạn chế quyền lực Nhà nước – GS.TS. Nguyễn Đăng Dung
- Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, Một số tiểu luận của các học
giả nước ngoài – Sách tham khảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
- Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn- Sách chuyên khảo,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra, còn có một số bài viết của các chuyên gia luật học liên quan
đến đề tài luận văn đã được đăng trên các tạp chí - đặc san Luật học, trên
trang tin điện tử của Chính phủ, Bộ tư pháp, một số bài viết về thành tựu của
Hiến pháp năm 2013 trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, vv…
Tài liệu và bài viết của các tác giả trên đã có những đóng góp đáng kể


3

trong trong việc hoàn thiện các quy định của Hiến pháp về kiểm soát quyền
lực Nhà nước. Qua tham khảo đã giúp học viên có thêm những kinh nghiệm
quý để triển khai những vấn đề, nội dung chưa được đề cập, tiếp cận sâu. Tuy
vậy, các công trình này đều được nghiên cứu trước khi có Hiến pháp năm
2013, chưa có công trình nào đề cập tới kiểm soát quyền lực nhà nước của các
bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là: Làm rõ những vấn đề lý luận về
vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Đánh giá
được các thành tựu cũng như chỉ ra các những bất cập, tồn tại của các quy
định của các bản Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Với mục đích nói trên, Luận văn có nhiệm vụ: Phân tích làm rõ cơ sở lý
luận về vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước ở các
thời kỳ khác nhau của đất nước và nêu bật những điểm mới đạt được của Hiến
pháp năm 2013.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận về vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát
quyền lực Nhà nước ở các thời kỳ khác nhau của đất nước và nêu bật những
điểm mới đạt được của Hiến pháp năm 2013.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những quy định của Hiến
pháp về phương diện kiểm soát quyền lực nhà nước được xác định trong giới
hạn sau đây:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về sự cần
thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp và nội dung kiểm soát
quyền lực nhà nước của Hiến pháp.


4

Thứ hai, kiểm soát quyền lực nhà nước của các bản Hiến pháp lịch sử.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về nhà nước và
pháp luật, Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thực tiễn, thống kê.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu một cách khá toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống về vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của các
bản Hiến pháp, đặc biệt là việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp
năm 2013.
7. Ý nghĩa của Luận văn
Với những kết quả của Luận văn, hi vọng rằng Luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, lý luận của các luật gia, đồng
thời sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên
cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam về việc kiểm soát quyền
lực nhà nước của Hiến pháp.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì nội dung của Luận văn được chi thành
3 chương như sau:
- Chương 1: Hiến pháp và vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước.
- Chương 2: Kiểm soát quyền lực Nhà nước của các Hiến pháp Việt
Nam trước năm 2013.
- Chương 3: Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp 2013.



5

Chương 1
HIẾN PHÁP VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

1.1. Kiểm soát quyền lực Nhà nước - Lý do ra đời Hiến pháp.
“Cuộc sống mà không có nhà nước hiệu lực để duy trì trật tự thì rất
đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi”.
Đây là câu nói nổi tiếng của nhà triết học và xã hội học người Anh
Thomas Hobbes (1588-1679) khi viết về vị trí, vai trò quan trọng của nhà
nước trong tác phẩm “ Leviathan”. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra cơ sở
của việc thành lập ra nhà nước là khế ước xã hội, thấy được tính tất yếu của
việc thành lập ra nhà nước cũng như những mặt trái của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, Nhà nước được hình thành từ sự
đấu tranh giai cấp và nhu cầu phải chống thiên tai, bão lụt để duy trì sự tồn tại
của các nhà nước phương Đông. Như vậy, Nhà nước “không phải là một
quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội”, mà là “một lực lượng nảy sinh từ
xã hội”, do nhu cầu của chính con người, nhà nước như là một lực lượng “ tựa
hồ như đứng trên xã hội”, vì không trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất,
nhưng lại có chức năng làm dịu bớt xung đột và giữ cho những xung đột đó
nằm trong một trật tự nhất định để cho sản xuất phát triển và xã hội loài người
không thể đi đến chỗ diệt vong.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của giai cấp thống trị và của xã hội.
Nhưng nó khác với các tổ chức xã hội khác chủ yếu ở chỗ: nhà nước được sử
dụng một thứ quyền lực đặc biệt do xã hội trao cho- quyền lực nhà nước. Đó
là một loại quyền lực gắn liền với khả năng bắt buộc- cưỡng chế đối với tất cả
mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đó còn là thứ quyền lực cho phép nhà
nước thâu tóm trong tay mình hầu hết các nguồn nhân lực, tài lực của Quốc
gia. Nhà nước còn là chủ thể duy nhất được đại diện cho quốc gia- dân tộc


6

trong các quan hệ quốc tế. Trong các chế độ nô lệ và phong kiến, quyền lực
nhà nước- mà thể hiện tập trung ở quyền lực của nhà vua, được coi như một
thứ quyền lực thần thánh, không giới hạn.
Đặc trưng về sự vận động của mọi loại quyền lực nói chung, trong đó
có quyền lực nhà nước, là hai xu hướng:
Thứ nhất, đó là xu hướng sử dụng trái phép quyền lực được giao để
phục vụ cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ (lợi dụng quyền hạn). Xu
hướng thứ hai là lạm dụng quyền lực (lộng quyền, lạm quyền). Cả hai xu
hướng này đều là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực, vốn là xu hướng khách
quan trong quá trình vận động, phát triển của quyền lực. Cả hai xu hướng trên
đều dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại cho xã hội, và người phải gánh
chịu chính là nhân dân [17].
Do tính chất đặc biệt của quyền lực nhà nước như vậy, nên ngay từ khi
nhà nước ra đời cho tới nay, tất cả các chế độ xã hội đều nhận thức và đặc biệt
coi trọng việc kiểm soát quyền lực nhà nước, với những phương thức và thiết
chế đa dạng khác nhau. Nhân loại, bằng kinh nghiệm lịch sử đầy máu và nước
mắt của mình, đã hiểu ra rằng, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, hơn
thế nữa, phải được kiểm soát chặt chẽ. Nói cách khác, quyền lực nhà nước
phải được giới hạn, không phải là vô hạn, nhất là trong một chế độ dân chủ,
đặc biệt là trong chế độ dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thuở ban đầu mọi nhà nước sinh ra với một ý nghĩa hết sức tốt đẹp
với mục đích duy trì và phát triển cuộc sống của nhân loại, làm cho nhân
loại thoát khỏi sự diệt vong và duy trì sự phát triển, nhưng sau đấy nhà nước
dần dần đều là những tổ chức chuyên chế. Nhà Vua- người thống trị thay
mặt cho nhà nước đều cho mình là nguồn gốc của mọi công lý trong xã hội.
Ông ta một mình có cả quyền lập pháp, hành pháp, sửa đổi, đình chỉ và cả
việc xét xử sự vi phạm pháp luật do chính ông ta ban hành. Là người cai trị,


7

ông ta có quyền tuyệt đối và không phải tuân thủ pháp luật. Vị trí của ông ta
không phải ở dưới mà ở trên pháp luật. Đó là một nhà nước độc tài, chuyên
chế gắn liền với các chế độ chính trị phi dân chủ, quyền lực nhà nước có một
đặc điểm quan trọng là vô hạn định, luôn luôn tiềm ẩn một mối nguy hại cho
loài người. [17]
Tham nhũng, độc tài, chuyên chế là bệnh chung của mọi xã hội có nhà
nước. Chế độ độc tài là chế độ loại trừ đa số nhân dân tham gia vào các công
việc nhà nước. Chế độ chuyên chế rất gần với chế độ độc tài, không những
loại trừ đa số nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước mà còn can thiệp
quá sâu vào lĩnh vực của đời sống nhân dân. Tham nhũng là sự lạm dụng
quyền hành của nhà nước để mưu lợi ích riêng mà quyền hành thì rất dễ bị lợi
dụng. “Do đó các nước phải cố gắng thiết lập và nuôi dưỡng những cơ chế
mang lại cho các cơ quan nhà nước sự mềm dẻo và sự khuyến khích để hoạt
động vì lợi ích chung, đồng thời kiềm chế những hành vi độc đoán tham
nhũng trong cách cư xử với các doanh nghiệp và công dân”. Những cơ chế
này chính là những quy định hạn chế quyền lực trong pháp luật của mỗi quốc
gia, mà trước hết là phải nói đến Hiến pháp.
Nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm quyền mà vi phạm đến quyền lợi
của cá nhân. Chính vì nhằm mục đích ngăn chặn sự vi phạm này từ phía nhà
nước, ngăn chặn sự “ tha hóa” của Nhà nước mà cần phải có một bản văn quy
định sự kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là bản Hiến pháp. Hiến pháp là
một bản văn luật có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm soát để
bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay có thể còn được gọi là bản
chất của hiến pháp, tức là xét đến cùng, cá tính chất sâu xa nhất của Hiến
pháp đó chính là tính nhân bản của Hiến pháp và đồng thời cũng là nhiệm vụ
của Hiến pháp.
Việc bảo vệ của cá nhân trong lịch sử tổ chức và hoạt động của bộ máy


8

nhà nước cũng như trong sinh hoạt của các chế độ chính trị càng ngày càng
được đặt ra một cách bức xúc. Xã hội càng dân chủ và văn minh bao nhiêu thì
giá trị của con người càng được bảo đảm bấy nhiêu, trước sự áp bức từ nhiều
phía. Nhà nước dân chủ và văn minh có một trách nhiệm vô cùng lớn trong
việc bảo đảm, bảo vệ nhân phẩm và giá trị của con người trước sự tấn công
của các chiều hướng khác nhau, tong đó có cả từ phía bản thân nhà nước
thông qua các hoạt động của các quan chức nhà nước, thay mặt nhà nước thực
thi công vụ. Để đảm bảo vấn đề bảo vệ giá trị nhân phẩm của con người trước
sự tha hóa của nhà nước, Hiến pháp có nhiều những biện pháp khác nhau như:
quy định các quyền lợi của cá nhân được thụ hưởng, quy định những bảo đảm
thi hành các quyền lợi và giá trị nhân phẩm của con người. Trong số những
biện pháp ấy thì việc phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau
để đi đến chỗ kiểm tra, kiềm chế lẫn nhau để đảm bảo quyền lợi của cá nhân
chiếm một vị trí rất quan trọng. Việc phân chia càng nhiều bao nhiêu thì bảo
vệ quyền các quyền cá nhân của con người càng nhiều bấy nhiêu.
Lý thuyết kiểm soát quyền lực đó được thể hiện bởi một nguyên nhân
bản tính của con người là đam mê quyền lực: Để phát triển và tồn tại, con
người rất cần đến nhà nước. Nhưng khi có nhà nước thì con người phải kiểm
soát nhà nước, bởi lẽ nhà nước do con người điều khiển. Và khi có quyền lực
nhà nước trong tay, con người có thể đạt được nhiều thứ quyền lợi khác như:
của cải, danh vọng, dễ có khả năng buộc người khác phải làm theo những ý
muốn đam mê của mình…. Sự thực “Lòng đam mê quyền lực và lòng đam
mê danh vọng là những ước muốn vô hạn định của con người”. Vì thế, khi có
quyền lực, con người hay có xu hướng lạm quyền. Đó là một trong những rủi
ro vô cùng nguy hiểm của xã hội.
Hoạt động của Nhà nước là một hoạt động phức tạp, thường là phải
do nhiều người cùng đảm nhiệm, nên nếu không có sự phân công rõ ràng


9

thì rất dễ rơi vào tình trạng ỷ lại lẫn nhau, theo kiểu “Cha chung, không ai
khóc.” Trong hoạt động của lĩnh vực công, càng tập trung bao nhiêu và
càng làm việc tập thể với nguyên tắc đa số để ban hành quyết định bao
nhiêu, thì lại càng tạo ra cơ sở nhiều hơn cho sự ỷ lại và không chịu trách
nhiệm cá nhân bấy nhiêu.
Con người có sai lầm nên không có một thể chế nào của con người
thoát khỏi sự sai lầm: Sự kiểm soát quyền lực nhà nước còn một nguyên nhân
sâu xa nữa là bản tính hay tùy tiện của chính con người. Con người vốn dĩ
hành động theo bản năng thiếu sự cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện hoàn cảnh
chi phối các hành vi của mình. Để tránh sự tùy tiện trong việc sử dụng quyền
lực nhà nước, không còn cách nào khác hơn là phải kiểm soát quyền lực. Khả
năng phạm sai lầm nằm ngay trong con người. Sở dĩ như vậy, vì rằng trí tuệ
thuộc về lý tính của con người là có hạn. Một người có trí tuệ siêu việt đến
đâu đi chăng nữa, thì cũng không thể thoát khỏi sai lầm. J.S.Mill, một triết gia
và một nhà kinh tế lớn của Anh quốc thế kỷ XIX, đã từng cảnh báo: “Loài
người không thể là thánh thần, không bao giờ sai, chân lý của họ phần nhiều
chỉ là các chân lý một nửa”. Khi soạn thảo ra bản Hiến pháp thành văn đầu
tiên của thế giới, Hiến pháp Mỹ năm 1787, J. Madison cũng đã từng nói về
điều đó: Chính phủ không phải là những thiên thần, nên chính phủ cũng có
thể mắc sai lầm. Đây là nhận thức căn bản của ông khi đề xuất hệ thống kìm
chế và đối trọng cho bản Hiến pháp này.
Con người vốn dĩ không muốn có trách nhiệm, mà chỉ muốn có
quyền: Nếu quyền hạn là những gì mà con người được hưởng, được quyền ra
lệnh yêu cầu những người khác phải thực hiện, thì ngược lại trách nhiệm là
những gì họ buộc phải làm và phải chịu dưới sự giám sát của những người
khác. Có những lúc hai thứ quyền hạn và trách nhiệm là hòa nhập trong nhau.
Nhưng cơ bản giữa chúng vẫn có một sự phân biệt nhất định. Ví dụ như, trong


10

chế độ phong kiến, nhà Vua thì bao giờ cũng chỉ có quyền, mà không bao giờ
phải gánh chịu trách nhiệm về những hành vi thực hiện các quyền của mình.
Từ đây mới xuất hiện trong luật học các chế định về việc miễn trừ trách
nhiệm pháp lý của các quan chức của Nhà nước phong kiến.
Bản tính của con người là những gì thuộc về tính chất, tính cách của số
đông con người đều mắc phải. Đã là con người thì không mấy ai thích trách
nhiệm, nhất là những trách nhiệm phải gánh vác hậu qủa do chính bản thân
mình gây ra. Bản tính con người giữ gìn và tăng cường danh dự. Khi phải
gánh chịu trách nhiệm như phải từ chức, phải trừng phạt, phải bồi thường
thiệt hại do những hành vi cầm quyền của mình gây ra là một trong những
biểu hiện nặng nề nhất của sự tổn thất danh dự của con người. Vì vậy, con
người có xu hướng bản năng trốn tránh trách nhiệm. Các hình thức trốn tránh
trách nhiệm: Tạo ra các vỏ bọc, tạo ra các cấp dưới trung gian trực thuộc
mình, chính quyền trở thành nhiều tầng nhiều nấc. Sự không hiểu vấn đề cũng
như sự phức tạp hóa vấn đề cần phải giải quyết.
Mức độ nguy hiểm của quyền lực nhà nước: Cơ sở của sự phải kiểm
soát quyền lực nhà nước xuất phát từ đặc điểm công khai, mang tính quyền
lực công cộng làm cho Nhà nước có một sức mạnh ghê gớm. Cùng là một loại
tội phạm, nhưng tội phạm cấu kết với các nhân viên tha hóa của Nhà nước
bao giờ cũng có hậu quả nặng nề hơn và cũng rất khó phát hiện hơn
Việc kiềm chế tiềm năng sử dụng và lạm quyền lực nhà nước là một
thách thức đối với bất cứ Nhà nước nào. Điều khó khăn hơn nữa là làm việc
này mà không làm cho các cơ quan nhà nước mất đi tính mềm dẻo cần phải
có để tiến hành các công việc của Nhà nước. Việc sử dụng không đúng quyền
lực nhà nước tạo ra những vấn đề nghiêm trọng của sự tín nhiệm Nhà nước
của công chúng sẽ có tác động rất lâu dài trước công luận.
Lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước được thiết lập đầu tiên bởi các


11

nhà tư tưởng chính trị - pháp lý, đó là của Aristotle, J. Locke, S.L. Montesquieu
và J.J. Rousseau, tạo thành học thuyết được gọi là chủ nghĩa Hiến pháp, mà
cái cốt lõi của nó là sự giới hạn quyền lực nhà nước nhằm chống lại chế độ
chuyên chế phong kiến, và bảo vệ nhân quyền. Các nhà tư tưởng thời bấy giờ
lập luận rằng, một chính phủ được thành lập không hợp pháp và chính quyền
đó không có mục đích bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Vấn đề nhân quyền hầu
như không được chính quyền đó bảo vệ. Quyền lực nhà nước nằm trong tay
một số người theo thể thức thế tập truyền ngôi, có toàn quyền ban hành các
quyết định theo ý chí của mình và buộc mọi người phải thực hiện. J.Locke
trong tác phẩm “Hai chuyên luận về chính quyền” (1690) được coi là lý
thuyết đầu tiên chống lại tư tưởng chuyên chế, khi ông đưa ra lý thuyết về sự
giới hạn quyền lực chuyên chế của nhà Vua. Lý thuyết căn bản của J.Locke
dựa trên hai nền tảng quyền tự nhiên của con người và khế ước xã hội, nền
tảng của chế độ nhà nước. Locke cho rằng, con người “vốn dĩ tự do, bình
đẳng và độc lập”, đã chọn lựa một cuộc sống chung cùng với những người
khác và phải chịu từ bỏ trạng thái tự nhiên, để tuân thủ một “khế ước xã hội”,
nhằm có được một sự an ninh tốt hơn không thể có được khi ở “trạng thái tự
nhiên”. Họ nhất trí sống theo ý chí của số đông và chính vì mục đích này mà
các chính phủ được thành lập và chính phủ đó có thể bị giải thể nếu họ mất
niềm tin vào chính phủ. [17]
Vấn đề kiểm soát quyền lực và trách nhiệm của Nhà nước chỉ được giải
quyết một cách triệt để hơn và bài bản hơn, vì mục đích của sự bảo đảm nhân
quyền trong cách mạng tư sản. Càng ngày kiểm soát và trách nhiệm của
quyền lực nhà nước càng trở nên gắn bó mật thiết với dân chủ và sự kiểm soát
này được quy định thành luật, nhất là quy định của đạo luật có hiệu lực pháp
lý tối cao để cho mọi chủ thể nắm quyền lực nhà nước phải chấp hành. Đó là
Hiến pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là một căn cứ căn bản cho việc kiểm


12

soát quyền lực của nhà nước, khác với Nhà nước phong kiến nơi không tồn tại
hiến pháp.
Vì những lẽ đó, việc phải quy định về kiểm soát quyền lực Nhà nước
như là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, một khi mà xã hội
cần đến Nhà nước. Sự hiện diện của những quy định trong Hiến pháp nhằm
mục đích kiểm soát hay là kiểm soát quyền lực nhà nước là dấu hiệu của dân
chủ, của tiến bộ xã hội. Có như vậy mới thể hiện được tính nhân bản và xã hội
sâu sắc cần phải có của Hiến pháp.
Hiến pháp là một bản văn có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Kiểm soát để bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay có thể còn
được gọi là bản chất của Hiến pháp. Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh ở
nghĩa hẹp là quy định chế độ chính trị. Hay nói cách khác hơn, Hiến pháp có
đối tượng điều chỉnh là việc quy định chế độ nhà nước trong thời kỳ dân chủ.
Điều đó nghĩa là Hiến pháp được sinh ra trong cách mạng tư sản dân chủ, trở
thành văn bản quy định chế độ Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước xét về
mặt cơ cấu bao gồm các cơ quan nhà nước hợp thành bộ máy nhà nước. Vì
vậy chế độ nha nước là chế độ được hình thành từ những hoạt động của các
cơ quan thuộc bộ máy nhà nước.
Cho nên Hiến pháp có trách nhiệm phải quy định về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước; hay nói cách khác đối tượng điều chỉnh của Luật
Hiến pháp là những mối quan hệ về tổ chức bộ máy Nhà nước, làm cho bộ
máy đó thuộc về nhân dân.
Về nguyên tắc Hiến pháp không thể quy định tất cả việc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương: Lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Chính vì lẽ đó, ta có thể hiểu Hiến pháp là bản văn phân chia quyền lực.
Một bộ máy nhà nước tốt không chỉ biết đảm nhiệm các công việc được
phân công của mình mà còn phải trù liệu trước và ngăn ngừa trước những hậu


13

quả xấu có thể xẩy ra trong hoạt động điều hành và quản lý đất nước. Một bản
Hiến pháp tốt không chỉ hướng những quy định của mình vào những mặt tốt
của bộ máy nhà nước, mà còn tính đến việc hạn chế những mặt yếu có tính tất
yếu của nó. Hiến pháp là đọa luật quy định việc con người phải quản lý con
người. Vì vậy một bản Hiến pháp tốt khi và chỉ khi các quy định của nó phản
ánh được hết các bản tính vốn có của con người.
Giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia có sự gắn kết mật thiết với
nhau. Nhân quyền được bảo đảm bằng nhiều biện pháp, hình thức khác nhau.
Trước tiên phải được đảm bảo bằng nhà nước. Đồng thời nhà nước cũng là
một trong những nơi tiềm ẩn mối nguy hiểm nhất cho sự vi phạm nhân quyền.
Sở dĩ nhà nước là một mối nguy hiểm nhất cho sự vi phạm nhân quyền, vì so
với các chủ thể khác trong xã hội nhà nước có nhiều ưu thế hơn cả: Nắm
quyền lực nhà nước trong tay, có nhân lực có vũ khí, có cả tiền bạc, nhất
quyền được bắt, giam, giữ con người, khi cho họ là những nghi can, theo quy
định mà chính bản thân nhà nước tự đặt ra. Tất cả những đặc quyền đó các
chủ thể khác trong xã hội không thể nào có.
Bảo vệ nhân quyền trước hết phải có sự ngăn ngừa từ phía nhà nước.
Ngăn ngừa bằng cách quy định một cách chặt chẽ các cách thức tổ chức và
hoạt động của nhà nước thông qua các hoạt động của những người đảm nhiệm
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, giữ gìn cho họ luôn luôn giữ được
phẩm chất như khi họ được nhân dân lựa chọn vào các chức vụ quan chức nhà
nước. Và một khi họ không còn những phẩm chất xứng đáng nữa thì cũng căn
cứ vào những quy định của Hiến pháp mà nhân dân có quyền phế truất chức
vụ của họ. Hay nói một cách khác, sự ngăn chặn những hành vi vi phạm
quyền con người trước hết và hơn bao giờ hết là từ phía nhà nước là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của Hiến pháp.
Sự kiểm soát quyền lực nhà nước được các nhà triết học, xã hội học đặt
ra từ rất xa xưa.



14
Theo J.J. Rousseau thì “chủ quyền nhân dân” xuất phát từ “khế ước xã
hội”. Tác phẩm quan trọng nhất của ông là cuốn “Khế ước xã hội” (1762)
được mở đầu bằng câu nổi tiếng: “Con người được sinh ra một cách tự do,
nhưng khắp nơi lại bị xiềng xích”.
Rousseau nhận thấy con người tự do và tự nhiên, những người “mông
muội cao quý” là tốt đẹp, nhưng các thiết chế xã hội đã làm cho nó tha hóa.
Hình thức tổ chức xã hội duy nhất có thể đưa họ về trạng thái tự nhiên tự do
là nền dân chủ trực tiếp. CHỉ có chủ quyền đại chúng này mới có tính chính
đáng; chỉ có ý chí chung được nhân dân thực hiện mới làm pháp luật có hiệu
lực. Tư tưởng cơ bản của ông cho rằng, nhưng người bình thường cũng có
quyền tự chủ và có quyền lật đỏ những ông vua tự cho mình là thiên mệnh.
J.J. Rousseau phát triển ý tưởng về nhà nước lý tưởng thông qua các hội nghị
toàn thể nhân dân. Đó là nguồn gốc của sự giới hạn quyền lực nhà nước mà
nền tảng của nó là chủ quyền thuộc về nhân dân. [17]
Học thuyết của J.Locke về chính phủ bị hạn chế có ảnh hưởng lớn đến
Hiến pháp của Mỹ. Học thuyết này nhìn từ góc độ bảo vệ các quyền về tài
sản, cùng các quyền khác của con người trong trạng thái tự nhiên, đã được các
nhà lập hiến của nước Mỹ tiếp nhận rất đầy đủ qua các bài luận của họ Hiến
pháp. Các nhà soạn thảo Hiến pháp còn cho rằng, sự ra đời của các thiết chế
quyền giám sát bảo hiến và sự phát triển học thuyết phân quyền của
S.L.Montesquieu được coi là một nền tảng cơ bản chống lại sự chuyên chế
của đa số. Vấn đề hạn chế quyền lực nhà nước được xuất hiện dựa trên nền
tảng của việc đảm bảo các quyền và tự do của các công dân.
Trong tác phẩm của mình, S.L.Montesquieu cho rằng tự do chính trị chỉ
có thể tìm thấy ở đâu có một “chính phủ hợp lý”, tức là một chính phủ trong
đó “không có sự lạm dụng quyền lực”, tức là một chính phủ bị hạn chế. Vì
vậy, nếu quyền lực nhà nước không bị hạn chế, không bị kiểm soát thì hậu



15
quả rõ ràng nhất là sự vi phạm các quyền của con người. Ông còn cho rằng
muốn hạn chế thì buộc phải phân quyền. Do đó tư tưởng của S.L.Montesquieu
dựa trên sự phân quyền và ông coi đó là một trong những điều kiện tiên quyết
của những bảo đảm cho tự do chính trị cho mọi người dân.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến hiện đại là
việc vạch ra giới hạn giữa quyền lực nhà nước và quyền và tự do của công
dân theo nguyên tắc nhà nước thì không được can thiệp vào các lĩnh vực
thuộc quyền tự do của công dân. Lý thuyết về các quyền tự nhiên của con
người được hình thành và phát triển cùng với tư tưởng về một chính quyền bị
kiểm soát trong một trật tự của hiến pháp là điều kiện tiên quyết cho việc đảm
bảo quyền cơ bản của công dân.
Cơ sở cho việc cần phải giới hạn quyền lực nhà nước không chỉ nằm ở
chỗ chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước mà còn ở chỗ chống lại sự tùy
tiện của nhà nước thông qua các hành vi của các quan chức thay mặt nhà
nước đảm trách các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Trong một xã hội dân chủ, các thể chế chính trị gồm các quy tắc bầu cử
đặt ra các thủ tục bầu và thay thế các chính phủ. Chúng cũng bao gồm quy
định sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp,
giữa trung ương và địa phương cũng như những giới hạn quyền lực đối với tất
cả các cơ quan này.
Khi soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập cho nước Mỹ, T.Jefferson cho
tằng quyền được chống đối bất cứ loại chính quyền nào không đáp ứng được
những nguyện vọng của kẻ bị trị. Ông muốn có một xã hội của những người
tự do, vì đối với ông tự do là trên hết. Ông công nhận rằng, người tự do cũng
phải chấp nhận một vài hạn chế trong lối sống của họ và luật lệ cũng phải
được thi hành đối với những kẻ vi phạm.
Lý giải sự kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề có tính khách quan,



16
James Madison cho rằng: “Trong việc tạo dựng một chính phủ được những con
người quản lý để cai trị những con người khác, khó khăn lớn nằm trong điều
này: Trước hết anh phải làm cho chính phủ có khả năng kiểm soát những người
bị cai trị và điều tiếp theo sau là buộc chính phủ phải tự kiểm soát mình.”
Việc kiềm chế tiềm năng sử dụng và lạm dụng quyền lực nhà nước là
một thách thức đối với bất cứ nhà nước nào. Điều khó khăn hơn nữa là làm
việc này mà không làm cho các cơ quan nhà nước mất đi tính mềm dẻo cần
phải có để tiến hành các công việc của nhà nước. Việc sử dụng không đúng
quyền lực nhà nước tạo ra những vấn đề nghiêm trọng của sự tín nhiệm nhà
nước của công chúng sẽ có tác động rất lâu dài trước công luận [17].
Trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân
vì dân hiện nay ở nước ta, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đang là một
vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách. Là vấn đề cơ bản, vì nó là một yếu tố cấu
thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Khi chúng ta
thừa nhận quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, thì hoạt động thực thi
quyền lực nhà nước sẽ gồm ba yếu tố cấu thành: trao quyền, sử dụng quyền
và kiểm soát quyền. Để bảo đảm quyền lực thực sự của nhân dân, không để
xảy ra việc dân “ trao quyền rồi mất quyền”, thì tất yếu phải kiểm soát. Mặt
khác, việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay ở nước ta tuy có nhiều cố
gắng và đạt được một số tiến bộ, nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế, cả về lý
luận và thực tiễn.
Pháp luật ngày càng trở nên là một công cụ hữu hiệu cho việc điều
chỉnh các hoạt động của xã hội. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân
theo các quy định – chuẩn mực của pháp luật. Tất cả các quy phạm điều chỉnh
mọi hoạt động của xã hội hợp thành hệ thống thống nhất các văn bản pháp
luật của quốc gia. Đứng đầu các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật là
Hiến pháp và các văn bản của Nghị viện/Quốc hội ban hành. So với các đạo



17
luật khác hợp thành hệ thống pháp luật thống nhất của mỗi quốc gia thì Hiến
pháp có một đời sống ngắn hơn tất cả. Nhưng khác các đạo luật khác, Hiến
pháp có hiệu lực pháp lý cao hơn. Tất cả các đạo luật dù được ban hành trước
hay sau đều không được mâu thuẫn với Hiến pháp.
Về mặt hình thức Hiến pháp, Hiến pháp được Nhà nước quy định là
đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia. Chính vì tính cơ bản này buộc các đạo luật
khác phải tuân thủ theo Hiến pháp.
Sở dĩ Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao nằm ở nội dung của Hiến
pháp, hay nói cách khác chính là đối tượng điều chỉnh đặc biệt của Hiến pháp.
Đó là mối quan hệ xã hội trong việc chính con người phải quản lý con người.
Chính đối tượng này đã làm cho Hiến pháp phải là văn bản có hiệu lực pháp
lý tối cao.
Việc quy định sự hạn chế quyền lực nhà nước có thể gọi đó là tính nhân
bản của Hiến pháp. Hay có thể nói ngược lại Hiến pháp muốn thể hiện tính
nhân bản của mình thì phải có các quy định nhằm kiểm soát quyền lực nhà
nước. Tính nhân bản của Hiến pháp thể hiện ở hai mặt: Thứ nhất Hiến pháp
quy định một cách trực tiếp các quyền con người nhằm mục đích chống lại sự
vi phạm của tất cả các phía, trong đó có cả từ phía nhà nước. Thứ hai, Hiến
pháp quy định những cơ chế kìm hãm và ngăn ngừa những bản tính xấu của
người cầm quyền, nhằm mục đích giữ cho họ luôn luôn ở trạng thái cân bằng
với những đức tính tốt như khi mới được giao quyền. Cả hai mặt trên đều
quan trọng, nhưng tính nhân bản của Hiến pháp nặng về mặt thứ hai, vì dẫu
sao đi chăng nữa Hiến pháp vẫn là bản văn quy định chế độ nhà nước – cách
thức làm việc của chính quyền.
Trách nhiệm của chính quyền – tức là nghĩa vụ của công chức phải báo
cáo về các hoạt động của họ cho các công dân và quyền của các công dân
được hành động chống lại các quan chức có các hành vi mà các công dân coi
là không chuẩn mực - là một yếu tố thiết yếu của dân chủ.



18
Với mục tiêu bảo vệ con người, Hiến pháp có hai vấn đề cần phải quy định:
Thứ nhất, quy định quyền con người, bao gồm cả những quy định bảo
đảm cho nhân quyền đó không bị xâm phạm; thứ hai quy định về chế độ làm
việc của nhà nước.
Chính việc quy định về chế độ nhà nước ở thể thức kìm chế và đối
trọng nhau một cách chặt chẽ trong một bản văn có hiệu lực tối cao so với các
văn bản luật khác là một trong những bảo đảm quan trọng nhất cho việc nhân
quyền không bị vi phạm trước hết là từ phía nhà nước.
Bên cạnh đó, sự hạn chế quyền hạn của các cơ quan nắm giữ quyền lực
nhà nước, chỉ được hoạt động trong phạm vi quy định các quyền được phép
làm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng là việc đảm bảo các
quyền của con người không được vi phạm. Vì các cơ quan nhà nước chỉ được
phép làm những gì mà Hiến pháp quy định mà không được vượt ra ngoài
những quy định đó mà dẫn đến việc vi phạm nhân quyền.
Việc Hiến pháp phải quy định, trù liệu để hạn chế những bản tính xấu
của con người là biểu hiện của tính nhân bản quan trọng nhất của Hiến pháp.
Những quy định này cũng góp phần tạo nên tính chính trị của Hiến pháp. Một
trong những đặc tính khác với các đạo luật thường khác của mỗi quốc gia.
Với đối tượng điều chỉnh đặc biệt là hành vi của con người phải quản lý
con người, việc tạo ra những quy định nhằm hạn chế bớt những mặt tiêu cực
của người cầm quyền là rất quan trọng. Vì hành vi của họ có mức độ ảnh
hưởng lớn và rộng đến các cá nhân, một số người, thậm chí hành vi quản lý
xã hội của nhà cầm quyền sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ, thậm chí tương lai
của cả một dân tộc.
Bản tính của con người cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, hay nói một
cách khác, có cả mặt và mặt ác, nhưng Hiến pháp xét về mặt nội dung thì chủ
yếu chỉ chú trọng đến mặt tiêu cực nhằm hạn chế hậu quả của nó hơn là việc



19
phát huy những mặt tích cực của con người. Vì rằng hậu quả những mặt trái
của bản tính con người là nguy hiểm cho xã hội hơn cả. Và đồng thời chính
sự ngăn ngừa này cũng là mở rộng phạm vi tính tích cực của con người. Mục
đích của pháp luật là không nên khen ngợi những hành vi tốt/tích cực mà cần
phải ngăn ngừa hoặc thậm chí còn phải trừng trị những mặt tiêu cực của con
người và tấm lòng tốt thông qua các cử chỉ điều hành của họ luôn luôn như
trước khi họ được nhân dân bầu ra.
Với bản tính của con người mặt tốt/tích cực vẫn là cơ bản. Nhưng lại
không được điều chỉnh trong Hiến pháp, điều đó không cần phải nhắc. Nếu họ
tốt thì nhân dân sẽ tín nhiệm họ luôn luôn và liên tục trong các nhiệm kỳ tiếp
theo. Mà nếu như là xấu thì phải bằng mọi cách dừng ngay lại sự cầm quyền/
điều hành của họ, không nên chờ đến một hậu quả khôn lường.
Vì vậy, bảo vệ nhân quyền như là mục tiêu thiết yếu của Hiến pháp.
Chính vì mục đích này mà phải có Hiến pháp, bản văn có hiệu lực tối cao
không những chỉ quy định các cách thức thực hiện quyền lực nhà nước, để
nhà nước không thể vượt ra khỏi khuôn khổ đã được quy định, mà vi phạm
đến nhân quyền, mà còn có cả quy định nhằm mục đích ngăn chặn những bản
tính xấu của con người cầm quyền khỏi những nguy cơ vi phạm nhân quyền.
Lịch sử sự phát triển của nhà nước là như vậy. Nhà nước là rất cần thiết cho
sự phát triển của con người. Nhưng nhà nước cũng là mầm mống chủ yếu cho
việc xâm phạm đến quyền con người. Đó là nội dung hạn chế quyền lực nhà
nước của Hiến pháp.
Đảm bảo Hiến pháp được thi hành như một trong những phương pháp
hữu hiệu nhất của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hiến pháp tư sản thường có một số quy định nhằm bảo đảm cho Hiến
pháp được thực hiện. Trung tâm của những bảo đảm này là hoạt động của
Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp. Để Hiến pháp có hiệu lực trên



20
thực tế, nhiều nước quy định việc giám sát Hiến pháp và việc bảo vệ Hiến
pháp. Theo quan niệm chung của nhiều nước trên thế giới, giám sát việc thi
hành Hiến pháp cũng như việc bảo vệ Hiến pháp là kiểm tra tính hợp hiến
của các đạo luật.
Vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật được thể hiện rõ nét nhất trong
thể chế nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ
chức nhà nước và vận hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này
được phân định và tổ chức sao cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền
tự do, dân chủ của người dân được bảo vệ. Hiến pháp là các công cụ quan
trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Vì vậy, Hiến pháp được coi là
linh hồn của pháp quyền và là bản khế ước xã hội quan trọng nhất.
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ
chức quyền lực công khai. Mọi đường lối, chính sách và quyết định của nhà
nước đều phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các mối quan hệ qua lại
giữa nhà nước và cá nhân cũng phải dựa trên pháp luật [2]. Khác với nhà
nước pháp trị, pháp luật của nhà nước pháp quyền phải vươn tới sự đầy đủ
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, với phương châm:
Đối với “cá nhân thì cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không
cấm”, còn đối với “cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp
luật quy định”. Pháp luật của nhà nước pháp quyền còn có mục tiêu vì con
người, vì quyền con người. Đó là một trong những biện pháp kiểm soát quyền
lực hữu hiệu nhất.
Khi một quốc gia không tôn trọng nguyên tắc pháp trị, thì người bị trị
không thể nào được che chở hữu hiệu trước những hành động bột phát của
những người cầm quyền. Bạo tàn và độc đoán hay độc tài sẽ phát sinh một khi
một chính quyền làm luật và xóa bỏ luật mà không để cho dân chúng phê
bình, chỉ trích đạo luật, khi chính quyền bỏ tù một cá nhân mà không tiến

×