Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 92 trang )


4



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM 7
I. Vị trí của Tòa án trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà
nƣớc ở Việt Nam. 7
1.Quyền tƣ pháp trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà
nƣớc ở nƣớc ta. 7
2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. 13
3. Yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đối với
Toà án. 33
4. Những yếu tố đảm bảo vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam. 40
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM 47
I. Đánh giá vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam 47
1. Xét xử hành vi phạm tội 48
2. Giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong lĩnh vực dân sự, kinh tế và lao động
51
3. Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc 55
4. Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngƣời 59
II. Những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án
trong Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam 66
1. Phƣơng hƣớng cải cách toà án nhằm nâng cao vai trò của toà án trong Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam 66
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong nhà nƣớc pháp


quyền Việt Nam. 71

5
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85

1

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương
ASEM : Hội nghị thượng đỉnh Á Âu
AFTA : Khu vực thương mại mậu dịch tự do
CCTP : Cải cách tư pháp
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
ILO : Tổ chức lao động quốc tế
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
UBND : Ủy ban nhân dân
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
WHO : Tổ chức y tế thế giới












1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đảm bảo quyền lực nhà nước
thống nhất có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp là định hướng cơ bản thực hiện công cuộc đổi mới
hệ thống chính trị nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong ba nhánh
quyền lực nói trên, thì nhánh quyền tư pháp là nhánh quyền được tổ chức để
thực hiện họat động xét xử và những họat động phục vụ trực tiếp cho họat
động xét xử như điều tra, công tố, bổ trợ tư pháp. Tòa án nhân dân là nơi
biểu hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, họat động xét xử của Tòa án
cũng chính là họat động thể hiện chất lượng họat động và uy tín của hệ
thống cơ quan tư pháp và toàn thể bộ máy nhà nước. Với ý nghĩa đó, việc
cải cách Tòa án ở nước ta phải được xây dựng trên cơ sở những quan điểm
đúng đắn và đầy đủ về vị trí, vai trò của Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà
nước, trong bộ máy nhà nước đặc biệt là trong quá trình tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Thời gian gần đây, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, công tác lý
luận về nhà nước và pháp luật của Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách bộ máy nhà nước nói
chung, cải cách tư pháp nói riêng nhằm đáp ứng năng lực phục vụ công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc hiện
nay thì chúng ta không thể không tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận liên
quan đến quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, vị trí, vai trò của từng cơ
quan tư pháp; mối quan hệ giữa lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính

phủ) với tư pháp (Tòa án) trong cơ chế phân công phối hợp cùng thực hiện
quyền lực nhà nước.

2
Do vậy, cải cách tư pháp nói chung, cải cách Tòa án nói riêng là nhiệm
vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được quán triệt và khẳng định trong nhiều văn
kiện quan trọng của Đảng, như Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị
quyết trung ương 3 (Khóa 8), Nghị quyết trung ương 7 (khóa VIII), Nghị
quyết Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IX và lần thứ X, Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”, đặc biệt là ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”. Theo đó, vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp lý, xây dựng chiến
lược nguồn nhân lực, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nguồn kinh phí phục
vụ họat động xét xử nhằm đảm bảo Tòa án có vị trí và vai trò quan trọng
trong nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã
được quán triệt là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Qua thực tiễn họat động của Tòa án cho thấy rằng, họat động xét xử của
Tòa án trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng họat
động xét xử được nâng cao, tình trạng xét xử sai, gây oan cho người vô tội đã
giảm đi đáng kể; Tòa án đã xét xử nghiêm minh các vụ án lớn, nghiêm trọng.
Vị trí, vai trò của Tòa án trong nhận thức, tâm thức của người dân đã và đang
dần được cải thiện.
Tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa về vị trí, vai trò của Tòa án trong việc tổ chức thực hiện quyền
tư pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền công dân, quyền con người và bảo
đảm quyền tự do, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì Tòa án ở nước ta cần phải tiếp
tục được cải cách một cách mạnh mẽ, toàn diện từ nhận thức, vấn đề pháp lý,

đến nguồn lực vật chất để phục vụ cho họat động xét xử.

3
Mặc khác, trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, mặt trái của nền
kinh tế thị trường nên tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất và hậu
quả do hành vi tội phạm gây ra ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tôi
tinh vi. Bên cạnh đó, các khiếu kiện về lao đông, hành chính, kinh tế, dân sự
ngày càng tăng về số lượng, phức tạp và đa dạng hơn. Hơn nữa, do nhận thức
người dân ngày càng cao nên đòi hỏi của người dân đối với hiệu quả và chất
lượng xét xử của Tòa án cũng phải được nâng cao. Toà án phải thực sự là chổ
dựa, công cụ, biểu tượng của công băng, bình đẳng, bảo vệ quyền con người.
Xuất phát từ những vấn đề đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Vai trò của
Tòa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình
với mong muốn là thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá vị
trí, vai trò của Toà án ở nước ta trong thời gian qua. Qua đó, luận văn đề xuất
phương hướng và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao vai trò của Toà
án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ khi những định hướng cải cách tư pháp mà trung tâm là cải cách Toà
án được đề cập trong các văn kiện chính thức của Đảng, Toà án đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học ở nước ta, như đề tài cấp
nhà nước do TS. Trịnh Hồng Dương làm chủ nhiệm hoàn thành năm 1996 “
Vị trí, vai trò và chức năng của Toà án nhân dân trong Bộ máy nhà nước ta
qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam” MS: 95-98-048/ĐT, đề tài cấp nhà
nước do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm hoàn thành năm 2006, “Cải cách
cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực
xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân”; luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thanh Bình “Thẩm quyền giải quyết của
Toà án nhân dân trong giải quyết khiếu kiện hành chính”; luận án tiến sĩ của


4
TS Tô Văn Hoà “Tính độc lập của Toà án- nghiên cứu pháp lý về khía cạnh
lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt
Nam”. Toà án còn là đối tượng trung tâm của nhiều công trình khoa học đề
cập đến lĩnh vực đổi mới cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, như
Luận án tiến sĩ của TS. Trần Huy Liệu “Đổi mới và tổ chức hoạt động của
các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”.
Ngoài ra có rất nhiều bài viết, nhiều ấn phẩm khoa học pháp lý, sách, tạp
chí, báo… đã được xuất bản có nội dung đề cập đến toà án từ nhiều góc độ
khác nhau.
So với trước đây, những vấn đề lý luận về quyền tư pháp, thực hiện
quyền tư pháp, vị trí, vai trò của Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp,
trong bộ máy nhà nước, mô hình tổ chức hệ thống toà án đã được kiến giải
tương đối toàn diện và đầy đủ.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc nghiên cứu và làm rõ những
vấn đề lý luận về vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN vẫn
chưa thật đầy đủ, còn nhiều vấn đề phải bàn luận tiếp. Do đó, trong thời gian
tới cần được tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn nhằm góp phần tạo nên hệ
thống lý luận đầy đủ và toàn diện về tư pháp, bảo đảm cho quyền tư pháp làm
cơ sở phục vụ chiến lược cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết 49-
NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn có mục đích là làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vị
trí, vai trò của Toà án ở nước ta kể từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở đó luận
văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà
án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.


5
 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn phải hoàn thành những
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Xác định nội hàm của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
những đặc điểm của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tư
pháp, vị trí trung tâm của toà án trong việc thực hiện quyền tư pháp.
- Từ những tiền đề lý luận trên, Luận văn khẳng định một số vai trò quan
trọng và nổi bất của toà án trong nhà nước pháp quyền.
- Luận văn đồng thời phân tích một số quy định pháp lý về vị trí, vai trò
của toà án; một số quy định của pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật
tố tụng toà án và pháp luật liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động xét xử
của toà án và thực tiễn hoạt động xét xử của toà án trong thời gian từ năm
2002 đến nay.
- Trên cơ sở những luận điểm đã nêu ra và những đánh giá vai trò của
toàn án ở nước ta hiện nay, qua đó luân văn đề xuất một số phương hướng
và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền
Việt Nam.
4.Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Luận văn chỉ đánh giá thực tiễn chất lượng, hiệu quả hoạt động của Toà
án từ năm 2002 trở lại đây.
Để có tính thuyết phục cho những quan điểm nêu ra, luận văn có sự so
sánh với một số quan điểm có tính phổ biến ở các nước tư sản phát triển về vị
trí, vai trò của quyền tư pháp, hoạt động xét xử của Toà án trong nhà nước
pháp quyền.
5. Những điểm mới của luận văn.
Luận văn là một đề tài nghiên cứu trực tiếp và có tính chất chuyên biệt
về vai trò cơ bản của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

6

Đề tài sẽ đánh giá một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về thực tiễn
chất lượng, hiệu quả hoạt động của Toà án nước ta từ năm 2002 trở lại đây.
Luận văn sẽ đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò
của toà án trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
6.Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của
luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Ngoài ra để làm rõ những nội dung của quy định pháp luật,
những luận điểm chưa phổ biến ở nước ta, luận văn đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể là phương pháp mô tả kết hợp với phương pháp so sánh.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 2 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN
TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM

Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA TOÀ ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM



7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
I. Vị trí của Tòa án trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện
quyền lực Nhà nƣớc ở Việt Nam.
1. Quyền tƣ pháp trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền
lực Nhà nƣớc ở nƣớc ta.

“Tư pháp” là thuật ngữ Hán Việt có hai nghĩa chính: Thứ nhất là
trông coi bảo vệ pháp luật; thứ hai, tư pháp là pháp đình theo pháp luật mà
xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật. Trong khoa học pháp lý phương
Tây, tư pháp là xét xử hay là ý tưởng cao đẹp về một nền công lý. Trên
phương diện tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước, tư pháp là một nhánh
quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp và đồng nghĩa với
quyền xét xử (tài phán) do Toà án thực hiện là quan niệm phổ biến ở nhiều
nước tư sản phát triển.
Ở Việt Nam, trên cơ sở nguyên tắc hiến định: “quyền lực Nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quan Nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [1, tr.3] qua
đó cho thấy quyền tư pháp luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền
hành pháp trong tổng thể của quyền lực Nhà nước thống nhất.
Trong khi hoạt động chủ yếu của hành pháp và lập pháp là Nhà nước
ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân tổ
chức trong giới hạn tự do mà pháp luật xác lập. Tuy vậy, vì nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, hiện tượng xâm hại trật tư pháp luật và pháp
luật luôn xuất hiện trong đời sống xã hội. Trong tác phẩm Nhà nước và cách
mạng, Lênin khẳng định: “sẽ là không tưởng khi cho rằng pháp luật đương
nhiên được tất cả mọi người tuân thủ”. Bảo vệ pháp luật, khôi phục trật tự

8
pháp luật bị xâm hại là một đòi hỏi khách quan của Nhà nước, của xã hội và
mọi người dân. Chính nhu cầu này đã hình thành nên hoạt động bảo vệ pháp
luật là nội dung cơ bản của quyền tư pháp.
Hoạt động xét xử của Toà án là lĩnh vực thể hiện tập trung nhất của quyền
tư pháp. Nội dung của hoạt động xét xử của Toà án là so sánh các hành vi, tranh
chấp pháp lý liên quan đến con người với các chuẩn mực pháp luật, phán xét tính
đúng đắn, tính hợp pháp của hành vi, tranh chấp. Trên cơ sở đó, Toà án nhân danh
Nhà nước ra phán quyết bắt buộc mọi người phải thi hành, khôi phục lại các giá trị

pháp luật bị vi phạm, bảo vệ và duy trì các giá trị văn minh của pháp luật.
Thực tế đã chứng minh rằng, trong thực thể quyền lực Nhà nước thống
nhất, quyền tư pháp có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ quyền tư pháp vừa là
bộ phận cùng với lập pháp và hành pháp hợp thành quyền lực Nhà nước vừa
là thể chế bảo vệ quyền lực Nhà nước. Vị trí và vai trò đặc biệt của quyền tư
pháp được được J.J. Russeau diễn đạt như sau: “luật đã mất thiêng thì mọi cái
đều hết hy vọng. Luật không còn hiệu lực thì không một cái gì hợp lý có thể
duy trì sức mạnh được nữa”
Như vậy, có thể thấy rằng quyền tư pháp có nội dung là bảo vệ pháp luật.
Hoạt động này được thực hiện tập trung nhất tại toà theo phương thức tài phán.
Với nội hàm trên, quyền tư pháp có những đặc điểm cơ bản sau:
- Quyền tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật của toà án theo phương
thức tài phán.
- Quyền tư pháp là một bộ phận của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội
và chỉ được thực hiện khi có vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý cần đến
phán quyết của Nhà nước
- Quyền tư pháp được thực hiện bằng nhiều hoạt động độc lập với các
chức năng riêng, diễn ra liên tục theo một quy trình chặt chẽ, tuân thủ các
nguyên tắc, thủ tục nghiêm ngặt dựa trên phương thức đặc thù là tài phán,
phục vụ hoạt động trung tâm là xét xử của toà án. [34, tr.26]

9
Để những đặc trưng của quyền tư pháp được bảo đảm trong quá trình thực
hiện quyền tư pháp, Nhà nước đã trao nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp cho
nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác nhau cùng thực hiện theo một trình
tự thủ tục chặt chẽ, dân chủ và công khai, trong đó Toà án thực hiện hoạt động
xét xử, cơ quan công tố (Viện kiểm sát nhân dân) thực hiện quyền truy tố, cơ
quan điều tra thực hiện hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh một
hành vi vi phạm pháp luật hình sự, cơ quan thi hành án thực hiện nhiệm vụ thi
hành các bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án; các cơ quan

giám định tư pháp, công chứng, luật sư thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp
nhằm mục đích phục vụ hoạt động xét xử khách quan, chính xác, đúng pháp luật,
công bằng.
Do đó, hệ thống cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan, thiết chế thực
hiện chức năng chủ yếu là duy trì và bảo vệ công lý bằng các biện pháp và thủ
tục đặc thù dựa trên nguyên tắc tài phán công bằng, công khai, cụ thể gồm cơ
quan tài phán (Toà án) và các cơ quan khác có chức năng chủ yếu là phục vụ
trực tiếp cho hoạt động tài phán.
Như vậy, quyền tư pháp mà trọng tâm là quyền xét xử thực hiện chức năng
bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Bằng hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp
luật, giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn trong đời sống xã hội, hệ thống các cơ
quan tư pháp mà trung tâm là toà án ngày càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong Nhà nước pháp quyền. Vị trí, vai trò của Tòa án được thể hiện ở chỗ: Toà án
không chỉ là công cụ bảo vệ pháp luật mà còn là thiết chế bảo vệ, bảo đảm cho
quyền con người được tôn trọng và thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.
A.Vị trí của Toà án trong bộ máy Nhà nƣớc Việt Nam.
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì Toà án có vị trí đặc biệt so với
các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp khác nói riêng, thể
hiện ở những khía cạnh sau:

10
Một là, toà án xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật của Nhà
nước để đưa ra các phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với
từng vụ việc cụ thể. Thái độ đó được thể hiện bằng những quyết định giải
quyết hợp pháp, hợp lý và áp dụng những chế tài thích hợp mà toà án áp dụng
cho từng trường hợp cụ thể phù hợp với hành vi có lỗi và trái pháp luật trong
mỗi bản án, quyết định của toà án. Như vậy, hoạt động xét xử phản ánh trực
tiếp và sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước.
Hai là, bằng hoạt động xét xử, Toà án thực hiện chức năng kiểm tra hành
vi pháp lý của các cơ quan Nhà nước, quyền công dân, quyền con người. Xa

hơn là Toà án bảo vệ cho trật tự xã hội ổn định, an toàn và có môi trường phát
triển lành mạnh, bền vững.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khi mà vai
trò pháp luật, sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng cao thì vai trò
của Toà án lại càng được khẳng định. Bởi lẽ Toà án chính là cơ quan thực thi quyền
tư pháp đặc biệt là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của bộ máy
nhà nước. Toà án thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước là một trong những nguyên lý cơ bản của nhà nước pháp quyền, là điều kiện
tiên quyết đảm bảomục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở nước ta được thực thi trong thực tiễn đời sống xã hội.
Ở nước ta, việc xác định Toà án có vị trí trung tâm trong việc tổ chức và
thực hiện quyền tư pháp với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử
là một trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách tư pháp
đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020. Tuy nhiên,
việc luật hoá quan niệm này vào pháp luật vẫn chưa được thực hiện triệt để.
Trong pháp luật Việt Nam, vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước có những
đặc điểm sau:

11
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm
2002) và các văn bản pháp luật hịên hành có liên quan đến tổ chức, hoạt động
của bộ máy Nhà nước thì địa vị pháp lý của toà án Việt Nam chịu sự tác động
của nhóm quan hệ cơ bản sau:
- Thứ nhất, quan hệ giữa Toà án với các cành quyền lực khác.
 Mối quan hệ giữa Tòa án với Quốc hội
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định “quyền lực Nhà nước thống nhất và
thuộc về nhân dân” và nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất” [1, tr.3] thì Toà án ở nước ta có sự phụ thuộc khá nhiều vào Quốc
hội. Tiến sĩ Tô Ngọc Hoà khẳng định: bản chất của mối quan hệ này là cấp

trên và cấp dưới - trong đó Quốc hội là cấp trên và Tòa án là cấp dưới [27, tr.
419]. Điều này thể hiện rõ ở những điểm sau:
Quốc hội có quyền ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan
đến tổ chức hoạt động của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. Quốc hội
có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của toà án trái với Hiến Pháp, luật pháp
hay Nghị quyết của mình.
Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức chánh án TANDTC. Quốc hội có quyền
bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với vị trí này. Chánh án TANDTC phải báo cáo
hàng năm trước Quốc hội; phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội nếu có
yêu cầu của đại biểu Quốc hội.
Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động hằng năm của Toà án.
 Mối quan hệ giữa Tòa án với Chủ tịch nước
Hiến pháp xác định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Việt Nam.
Trong mối quan hệ với Toà án, Chủ tịch nước có quyền giám sát, kiểm tra chất
lượng hoạt động của Toà án thông qua báo cáo của chánh án TANDTC. Ngoài
ra chủ tịch nước còn tham gia vào quá trình ra phán quyết của toà án thông qua
cơ chế xét ân xá trong các vụ việc hình sự có tuyên án tử hình.

12
 Mối quan hệ giữa Tòa án với Chính phủ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa toà án và
Chính phủ được xem là mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời
cũng là mối quan hệ mang tính rường cột trong hệ thống quyền lực nhà nước.
Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, do thực trạng toà án phải
áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ trong quá trình
xét xử dẫn đến toà án có sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ.
 Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương,
Để bảo đảm sự thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương (Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện), toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính và

chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án toà
án nhân dân các cấp địa phương phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước
Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Thứ hai, quan hệ giữa toà án với các cơ quan khác trong hệ thống cơ
quan tư pháp.
Như đã khẳng định ở trên, trong hệ thống các cơ quan tư pháp, toà án có
vị trí trung tâm. Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính đúng đắn
các hành vi pháp lý của cơ quan điều tra, phán xử hành vi truy tố của Viện
kiểm sát có đúng quy định pháp luật hay không và đưa ra phán quyết để cơ
quan thi hành án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối quan hệ bên
trong này, xét xử là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện tập trung nhất
bản chất của quyền tư pháp.
Mặc khác, pháp luật trao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền
giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên
toà. Chính quy định này đã có ảnh hưởng đến tính chất trung tâm của toà án
trong hệ thống cơ quan tư pháp.

13
Như vậy, trong pháp luật nước ta, toà án có vị trí độc lập tương đối
trong bộ máy Nhà nước. Qua phân tích cho thấy rằng: sự phụ thuộc của toà
án vào hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân
dân) là tương đối lớn.Tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống các cơ
quan tư pháp chưa được bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát nhân
dân thông qua quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính những
đặc điểm này về vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước đã ảnh hưởng đến
hoạt động của toà án, đặc biệt là yêu cầu có tính nguyên tắc hiến định của
hoạt động tài phán- toà án phải độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong quá
trình xét xử.
2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam.
a. Nhân danh Nhà nƣớc xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải

quyết tranh chấp trong đời sống xã hội
Kiểm tra, kiểm soát xã hội là một trong những vai trò, chức năng cơ
bản của Nhà nước. Nhà nước thực hiện hoạt động này bằng chuẩn mực pháp
luật thông qua các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc phân công
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đã trao cho cơ quan lập pháp thực
hiện giám sát tối cao đối với việc thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp tổ
chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội
một cách thường xuyên. Khi có những hành vi, tranh chấp có nguy cơ đe doạ
làm sai lệch tính hợp lý, công bằng của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội thì
được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của toà án. Hoạt động kiểm tra,
kiểm soát xã hội của toà án có những đặc trưng cơ bản sau:
- Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh
chấp màcá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng
những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.

14
- Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân chủ
và bình đẳng giữa các bên tại toà án.
- Có quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý trong các phán
quyết xử lý.
So với nhánh quyền lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và
các hình thức kiểm tra xã hội khác, hoạt động xét xử của toà án được thực
hiện theo quy trình tố tụng tư pháp chặt chẽ do luật định. Đây là một hình
thức kiểm soát xã hội công khai, dân chủ, chính xác, khách quan và bảo đảm
công bằng, bình đẳng xã hội. Chính vì bảo đảm được những giá trị dân chủ,
công bằng và bình đẳng xã hội trong hoạt động xét xử, toà án trở thành cơ
quan có vị trí tối cao và duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước khi xét xử
hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp do người dân yêu cầu
Nhà nước thực hiện.

Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử, bằng các quyết định, bản án
nghiêm minh, công bằng, toà án còn xác lập các chuẩn mực mới trong quan
hệ xã hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân trong hoạt động tư
pháp, tạo dựng niềm tin vào công lý, vào bộ máy Nhà nước, chế độ và quyền
lực nhà nước.
Vì vậy, để bảo đảm những giá trị của pháp luật được thực thi trong thực
tiễn, bảo vệ pháp luật không bị xâm hại, pháp luật đã trao cho toà án vị trí tối
cao có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện hoạt động xét xử hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội khi người dân,
Nhà nước có nhu cầu. Qua đó thể hiện thái độ của nhà nước đối với những
hành vi vi phạm pháp luật cụ thể.
Còn trong nhận thức của người dân, toà án không chỉ là một cơ quan
Nhà nước thông thường mà còn là biểu tượng của công lý, của lẽ phải. Khi
phải đối mặt với quan toà nơi công đường, người dân chờ đợi sự công minh,

15
sáng suốt: "Toà án là người đại diện của công lý và quan toà là cán cân công
lý" [34, tr.22]. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, bản thân pháp luật đã mang tính công lý và toà án bằng hoạt động xét xử
của mình thể hiện công lý, sự công minh, công bằng, không thiên lệch trong
từng vụ án, từng phán quyết của toà án đối với từng hành vi, sự kiện pháp lý.
Trong tinh thần đó có thể nói phán xét, phán quyết của toà án trực tiếp tác
động đến niềm tin, lý tưởng, khát vọng công lý, công bằng xã hội, đến thái độ,
cách nhìn của người dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cả chế độ
chính trị đang tồn tại.
Chính vì vậy, trong Nhà nước pháp quyền, chức năng quan trọng này
của toà án ngày càng được khẳng định. Toà án là cơ quan có quyền nhân danh
quyền lực Nhà nước để thể hiện thái độ của Nhà nước đối với mọi hành vi vi
phạm pháp luật kể cả hành vi vi phạm pháp luật của chính Nhà nước. Quyền
này đã đựơc Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định tại Điều 127 " Toà án là cơ

quan xét xử cao nhất của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [1, tr
]. Xét xử là một chức năng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, một hoạt động
quyền lực Nhà nước đặc thù. GS.TSKH. Đào Trí Úc cho rằng “hoạt động xét
xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xét xử, đánh giá và ra
phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết
định pháp luật. Khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích
khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó”[62, tr.13].
Như vậy, từ bản chất dân chủ của hoạt động xét xử, vai trò đặc biệt của
hoạt động xét xử, sự nhìn nhận của người dân đối với toà án, toà án đã trở
thành cơ quan Nhà nước có vị trí đặc biệt trong xã hội. Toà án là cơ quan duy
nhất có quyền nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải
quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Thông qua đó thể
hiện thái độ và trách nhiệm của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm trong

16
vụ án, quyết định cụ thể, đồng thời bảo vệ pháp luật, công bằng, bình đẳng xã
hội, các quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người.
b. Bảo vệ pháp luật
Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là
thiết chế trung tâm của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc
bảo vệ pháp luật. Theo J.J. Rousseau, trong một nước, ý chí của toàn dân thể
hiện qua hoạt động lập pháp do cơ quan đại diện nhân dân thực hiện, sức
mạnh quốc gia thể hiện ở hoạt động hành pháp do Chính phủ thực hiện và tư
pháp chính là cơ quan bảo vệ pháp luật do cơ quan quyền lực tối cao ban
hành và do Chính phủ chấp hành [48, tr.43]
Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo vệ những
giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Pháp luật trong nhà nước
pháp quyền là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền luôn mang trong mình những nguyện vọng, quyền
và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó là hệ thống những

chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người phù hợp với trình độ văn minh
của xã hội, để nhân dân tự điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống sinh
họat, trong giao lưu dân sự cũng như trong mối quan hệ với cơ quan công
quyền, đồng thời thể hiện lợi ích và ý chí chung của toàn thể nhân dân lao
động, của toàn thể xã hội và cùng với các quy phạm xã hội khác là một trong
những phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội và điều hoà, phối hợp các lợi ích
xã hội khác nhau.
Ngoài ra, Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN, có ý nghĩa đặc
biệt to lớn đối với sự phát triển, mở rộng, củng cố và phát huy nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, tính tích cực về chính trị, tính sáng tạo và quyền làm chủ của
nhân dân. Ngược lại, việc triển khai và mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời
sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và trật tự pháp luật, làm phong phú

17
thêm các quyền tự do của công dân và bảo đảm thực hiện những quyền đó.
Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại tách rời
nhau. Dân chủ về chính trị và pháp luật chân chính thể hiện bản chất sâu xa
của chế độ xã hội chủ nghĩa- tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Những hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật trong xã hội pháp quyền bị
coi là những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình đẳng xã hội, dân chủ
XHCN. Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật không còn
đơn thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành
họat động quan trọng nhất, cao nhất và có tính cuối cùng để nhà nước và
nhân dân bảo vệ các giá trị cao đẹp của nhà nước pháp quyền, bảo vệ công
bằng, bình đẳng xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con
người và dân chủ XHCN.
Vai trò bảo vệ pháp luật của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Toà án áp dụng pháp luật:
Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là hình thức áp dụng pháp
luật để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua hoạt động xét xử, toà

án đưa các hành vi tranh chấp pháp lý liên quan đến những con người cụ
thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng tỏ mối tương quan
giữa cái cá biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn chung là quy
phạm pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý, tính hợp pháp, tính
đúng đắn của hành vi, tranh chấp, từ đó đi đến một phán quyết có tính bắt
buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi ích liên quan [34, tr.21].
Bằng việc ra các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước và bắt buộc thi
hành, các giá trị pháp luật bị xâm hại, lệch lạc sẽ được khôi phục lại, công
lý được duy trì, sự công bằng, lẽ phải của pháp luật được bảo vệ. Từ tính
chất đặc biệt của việc áp dụng pháp luật theo phương thức tài phán công,
toà án trở thành thiết chế đóng vai trò đặc biệt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ

18
pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật trước những nguy cơ bị những cá nhân,
tổ chức nhất định vi phạm, bảo đảm cho những quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ không bị thiệt hại.
Toà án tuân thủ pháp luật:
Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền nói
chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng là Nhà nước được
tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, các cơ quan Nhà
nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến Pháp, pháp luật. Toà án là một bộ phận
cấu thành nên bộ máy Nhà nước nên quyền hạn, nhiệm vụ và chức năng của
toà án được xác định trong Hiến Pháp và các văn bản pháp luật. Vì thế, toà án
tuân thủ Hiến Pháp, pháp luật đặc biệt là tuân thủ các nguyên tắc có tính chất
nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được vận dụng
trong lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối thượng của Hiến Pháp và
pháp luật trong hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội công dân; các
quan hệ xã hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật; trách nhiệm
qua lại giữa Nhà nước và công dân; bảo đảm quyền con người trong quá
trình xét xử; quyền lực Nhà nước thống nhất và có sự phân công phối hợp

trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp;
tôn trọng và tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết
hoặc tham gia…. là những biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật của
toà án. Những nguyên tắc này là những nội dung cơ bản của pháp luật nước
ta. Vì thế, toà án tuân thủ các nguyên tắc trên không chỉ có ý nghĩa bảo
đảm hoạt động của toà án bảo đảm đúng pháp luật, không vi phạm pháp
luật mà còn là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm hoạt
động xét xử của toà án dân chủ, công bằng, bình đảng, bảo vệ quyền công
dân, các quyền cơ bản của con người và cao nhất là bảo đảm bản chất
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

19
c. Giám sát, kiểm tra hoạt động của Bộ máy Nhà nƣớc
Trong Nhà nước dân chủ, quyền lực Nhà nước là quyền lực của dân,
chính quyền không chỉ phải lấy dân làm gốc, mà những công bộc được dân
giao phó phải biết dựa vào dân, phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đảm bảo
quan trọng nhất để chính quyền làm tốt trách nhiệm là việc các cử tri kiểm
soát trực tiếp chính quyền của mình thông qua việc quyết định lá phiếu trong
các cuộc bầu cử các cơ quan quyền lực dân cử. Hình thức thứ hai để người
dân có thể giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước là thông qua chính hoạt
động các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ trực tiếp kiểm tra, giám sát mức độ
tuân thủ pháp luật của cán bộ, công chức và cơ quan Nhà nước trong quá trình
thực hiện công vụ.
Thực tế hoạt động của chính quyền ở đa số các nước tư bản đều cho
thấy, cho dù đã xây dựng được hệ thống rất đầy đủ các quy định pháp luật về
hoạt động của chính quyền thì hoạt động của chính quyền vẫn luôn có xu
hướng vượt ra khỏi phạm vi quyền lực mà pháp luật đã quy định. Nâng cao
trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân là đòi hỏi chính đáng của nguời
dân, nhưng đây lại là vấn đề rất khó khăn vì nó cản trở đến các lợi ích của các
cơ quan công quyền, và vì vậy, các cơ quan chính quyền thường không mặn

mà, còn về phía người dân, điều đó tùy thuộc rất nhiều vào việc họ có đủ các
thông tin cần thiết, có đủ khả năng và có cơ chế khả thi để phán xét các hành
vi của các nhân viên công quyền hay không và thực tiễn những giả thiết này
vẫn chưa có đủ điều kiện để phát huy hết những ưu điểm của mình. Phải
thấy rằng, không giám sát hoặc giám sát không tốt quyền lực thì người ta sẽ
đem quyền lực để đổi lấy lợi ích, và nếu ai đó lạm dụng quyền lực lại mắc
bệnh duy ý chí, độc đoán “muốn làm gì thì làm” thì sự lãng phí vốn, tài
nguyên, nhân lực của xã hội là vô cùng lớn sẽ xảy ra. Khắc phục thực trạng

20
này một cách có hiệu quả sẽ là động lực vô cùng to lớn, là điều kiện để phát
triển một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chính vì vậy, các nước, ngoài việc thiết lập những cơ quan, cơ chế
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của quyền lực Nhà nước vì lợi
ích chung luôn đồng hành với việc xác lập những cơ chế để kiểm tra, giám sát
hoạt động thực hiện quyền lực lực Nhà nước của bộ máy Nhà nước.
Quyền lực Nhà nước gồm có quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Trong ba cành quyền này lực này thì nguy cơ lạm quyền dễ rơi
nhất vào cành quyền lực lập pháp và hành pháp. Trong khi đó, tư pháp với
phương thức tài phán là cành quyền lực có ít điều kiện để phát sinh những
hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân nhất. Do đó, khi nói đến
giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của bộ máy Nhà nước chủ yếu là
nói đến sự kiểm tra, giám sát lập pháp và hành pháp. Trong Nhà nước pháp
quyền, kiểm soát quyền lực có nghĩa là giám sát, kiểm tra tính hợp hiến, hợp
pháp các hành vi của cán bộ, công chức và cơ quan Nhà nước (kể cả Quốc hội
và Chính phủ) không lạm quyền, không vi phạm Hiến pháp và pháp luật và
không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các quyền
con người.
Báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 1997 của Ngân hàng thế
giới chỉ ra hai cơ chế để giám sát chính quyền chính thức là một nền tư pháp

độc lập, mạnh mẽ và sự phân lập quyền lực [43, tr.126]. Như vậy, Tư pháp cụ
thể là toà án được đề cập đến đầu tiền với tư cách là một công cụ giám sát,
kiểm tra hành vi của Bộ máy Nhà nước.
Toà án là thể chế quan trọng nhất để giải quyết các tranh chấp giữa các
doanh nghiệp, công dân và Chính phủ, là thiết chế có thể làm sáng tỏ những
điều còn mơ hồ trong pháp luật. Chỉ Tòa án có quyền thâm nhập vào cơ quan

21
cưỡng chế của Nhà nước để buộc phải đưa ra các cuộc phán xử và cũng chỉ có
toà án có quyền chính thức nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý ra phán
quyết về sự hợp pháp của những hoạt động của ngành lập pháp và hành pháp.
Nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền về tổ chức bộ máy Nhà
nước là tư pháp phải độc lập với hai cành quyền lực còn lại. Tính chất pháp lý
này của tư pháp càng bảo đảm việc thực hiện quyền giám sát, kiểm tra hành
pháp và lập pháp đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh nguyên tắc phân công quyền lực, nguyên tắc về tính tối cao
của luật trong Nhà nước pháp quyền cũng góp phần tạo cho toà án có vị thế
để giám sát, kiểm tra hành vi của lập pháp và hành pháp có hiệu quả. Tính tối
cao của pháp luật đòi hỏi phải có sự phân cấp hiệu lực pháp lý giữa những
loại văn bản pháp luật khác nhau, theo đó Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối
cao, tất cả văn bản khác phải phù hợp với Hiến Pháp, các văn bản do hành
pháp ban hành phải phù hợp với Hiến Pháp, và luật pháp; hành vi hành chính
của cán bộ công chức, cơ quan Nhà nước phải phù hợp với quy định của pháp
luật, không được trái với văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cao
hơn đặc biệt là bảo đảm không vi phạm các quyền công dân đã được hiến
định. Với vai trò là người bảo vệ pháp luật, toà án có chức năng duy trì trật tự
hiệu lực pháp lý này. Toà án sẽ có thể vô hiệu hóa những văn bản pháp luật
không được ban hành đúng trật tự hiệu lực pháp lý, chẳng hạn có thể bãi bỏ
luật của Quốc hội nếu vi phạm Hiến Pháp, nghị định của Chính phủ trái với
luật của Quốc Hội hay nghị quyết của Hội đồng nhân dân trái với luật, Hiến

Pháp.v.v.
Với đặc trưng là tính độc lập cao và hoạt động theo phương thức tài
phán đặc thù, toà án là một thể chế ít có nguy cơ lạm quyền, ít nguy hiểm đối
với các quyền, tự do của công dân, và còn là một thiết chế quyền lực được tạo
ra nhằm đảm nhận chức năng chống lại sự lạm quyền; kiểm tra, giám sát tính

22
hợp hiến, hợp pháp của chính quyền (lập pháp và hành pháp) để đảm bảo hoạt
động công vụ của bộ máy Nhà nước đúng quy định của Hiến Pháp, pháp luật
và bảo vệ các quyền và tự do của con người. Vì vậy, có thể nói rằng, vai trò
giám sát, kiểm tra hoạt động công vụ của bộ máy Nhà nước phải được giao
cho toà án là một tất yếu của việc tổ chức chính quyền.
d. Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngƣời.
Các quyền và tự do của con người không chỉ là các giá trị tinh thần cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, có cội nguồn xã
hội và tư tưởng từ rất lâu đời trong quá trình phát triển của lịch sử hàng nghìn
năm qua mà chúng còn là khát vọng, ước mơ và lý tưởng của các dân tộc
trong cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ để chống lại các chế độ bất công, tàn
bạo, chuyên chế và cực quyền. Vì vậy bảo vệ và phát triển các quyền và tự do
của con người trong hoạt động xét xử cũng như việc đưa ra mục tiêu hoạt
động xét xử phải hướng đến bảo vệ các quyền và tự do của con người là một
tất yếu của nền tư pháp, của toà án trong Nhà nước pháp quyền.
Quyền công dân, từ góc độ pháp lý, là những quyền cơ bản của con
người được quy định trong Hiến Pháp và pháp luật, cụ thể quyền được sống,
quyền tự do và bảo vệ thân thể, quyền được bảo vệ khỏi bắt bớ, giam hãm,
hoặc đày ải vô cơ, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền có quốc tịch, quyền sở
hữu tài sản, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do về tư tương, tín ngưỡng và
tôn giáo.v.v. Các quyền công dân là những quyền pháp lý nên đặc trưng cơ
bản của việc bảo vệ các quyền công dân là được thực hiện theo cơ chế do
pháp luật quy định. Chính Hiến Pháp và pháp luật là thể chế quan trọng bảo

đảm cho việc tôn trọng và thực thi các quyền công dân. Theo tư duy pháp
luật, trong xã hội có Nhà nước, Nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm cho
những quyền công dân được tôn trọng và được thực thi trong thực tế. Toà án
với tư cách là cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật nên toà

×