I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
Lấ TH MINH
VAI TRò TRợ GIúP PHáP Lý
Đối với VIệC THúC ĐẩY TIếP CậN Và BảO ĐảM QUYềN
CủA NHóM NGƯờI YếU THế TRONG Xã HộI
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: Chuyờn ngnh o to thớ im
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN NGC CH
H NI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Minh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN
CỦA NHÓM NGƢỜI YẾU THẾ TRONG XÃ HỘI 6
1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý 6
1.1.1. Vài nét về sự ra đời của trợ giúp pháp lý 6
1.1.2. Định nghĩa trợ giúp pháp lý 8
1.2. Những phƣơng diện thể hiện vai trò của trợ giúp pháp lý đối với
việc thúc đẩy tiếp cận và bảo đảm quyền con ngƣời của nhóm
ngƣời yếu thế 10
1.2.1. Đảm bảo quyền con người của nhóm người yếu thế 11
1.2.2. Bảo vệ quyền con người của nhóm người yếu thế 12
1.2.3. Thúc đẩy quyền con người của nhóm người yếu thế 15
1.3. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý 17
1.3.1. Trợ giúp pháp lý vừa mang tính nhà nước, vừa mang tính xã hội 17
1.3.2. Trợ giúp pháp lý là một hoạt động hỗ trợ xã hội, mang tính chất nhân đạo 18
1.3.3. Trợ giúp pháp lý hỗ trợ hoạt động xét xử, bảo đảm thực thi các quyền
con người 18
1.3.4. Đối tượng được trợ giúp pháp lý là người gặp nhiều khó khăn trong việc
vượt các rào cản để tiếp cận, thực hiện và bảo vệ quyền lợi của mình 18
1.3.5. Người thực hiện trợ giúp pháp lý phải là người có chuyên môn, kinh
nghiệm, kỹ năng về pháp luật 19
1.3.6. Trợ giúp pháp lý có mối quan hệ tương hỗ với các thiết chế pháp luật khác 19
1.4. Tổ chức, hình thức, phƣơng thức, tính chất và mô hình trợ giúp
pháp lý 20
1.4.1. Tổ chức trợ giúp pháp lý 20
1.4.2. Hình thức trợ giúp pháp lý 22
1.4.3. Phương thức trợ giúp pháp lý 23
1.4.4. Tính chất của trợ giúp pháp lý 24
1.4.5. Các mô hình trợ giúp pháp lý 24
1.5. Các nguyên tắc nhằm bảo đảm vai trò của trợ giúp pháp lý cho
nhóm ngƣời yếu thế 25
Tiểu kết chƣơng 1 29
Chương 2: LUẬT NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ VỀ VAI TRÒ CỦA TRỢ
GIÚP PHÁP LÝ CHO NHÓM NGƢỜI YẾU THẾ 30
2.1. Vị trí của trợ giúp pháp lý trong việc bảo đảm tiếp cận và thúc
đẩy quyền của nhóm ngƣời yếu thế 30
2.1.1. Vị trí của trợ giúp pháp lý trong Công ước Quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị 30
2.1.2. Vị trí của trợ giúp pháp lý trong Công ước Châu Âu về quyền con người 31
2.1.3. Vị trí của trợ giúp pháp lý trong hệ thống các quyền con người 32
2.2. Đối tƣợng của trợ giúp pháp lý trong luật nhân quyền quốc tế 35
2.2.1. Quan niệm về nhóm người yếu thế 35
2.2.2. Các nhóm người yếu thế 38
2.3. Những nội dung về trợ giúp pháp lý cho nhóm ngƣời yếu thế
trong luật nhân quyền quốc tế 50
Tiểu kết chƣơng 2 54
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM TIẾP CẬN,
THÚC ĐẨY QUYỀN CỦA NGƢỜI YẾU THẾ TẠI VIỆT NAM 55
3.1. Thực trạng vai trò trợ giúp pháp lý đối với việc bảo đảm tiếp cận
và thúc đẩy quyền của nhóm ngƣời yếu thế tại Việt Nam 55
3.1.1. Qui định của pháp luật Việt Nam về vai trò trợ giúp pháp lý đối với
việc bảo đảm tiếp cận và thúc đẩy quyền của nhóm người yếu thế 55
3.1.2. Thực tiễn về vai trò của trợ giúp pháp lý 64
3.1.3. Nhận xét, đánh giá về thực trạng trợ giúp pháp lý 77
3.2. Các giải pháp nâng cao vai trò trợ giúp pháp lý đối với việc bảo đảm
tiếp cận và thúc đẩy quyền của nhóm ngƣời yếu thế tại Việt Nam 80
3.2.1. Các giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận quyền được trợ giúp
pháp lý của nhóm người yếu thế 80
3.2.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý trong việc bảo
đảm tiếp cận và thúc đẩy quyền của nhóm người yếu thế 83
3.2.3. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý 88
3.2.4. Xây dựng cơ chế đánh chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý công khai,
minh bạch và hiệu quả 90
Tiểu kết chƣơng 3 94
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1:
Số đối tượng được trợ giúp pháp lý từ năm 1997 - 2013
66
Bảng 3.2:
Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo phương thức trợ
giúp pháp lý từ năm 1997 – 2013
69
Bảng 3.3:
Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo lĩnh vực trợ giúp
pháp lý từ năm 1997 – 2013
72
Bảng 3.4:
Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo hình thức trợ giúp
pháp lý từ năm 1997 – 2013
74
Bảng 3.5:
Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo hình thức trợ giúp
pháp lý từ năm 1997 – 2013
75
Số hiệu sơ đồ
Tên bảng
Trang
Sơ đồ 3.1:
Mô hình đánh giá độc lập chất lượng vụ việc trợ giúp
pháp lý
91
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất hiện từ khá lâu nhưng chỉ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay
“Trợ giúp pháp lý” mới trở nên phổ biến. Với vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
tiếp cận và thúc đẩy quyền con người, nó là nhu cầu tất yếu của đời sống xã hội
hiện đại. Vì vậy, quyền được trợ giúp pháp lý là một trong những quyền con người
được quy định trong luật quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên của các
công ước này.
Trợ giúp pháp lý ra đời ở Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ XX trên
nền tảng là những thành tựu của quá trình Đổi Mới. Là lĩnh vực pháp lý mới mẻ
song kết quả đạt được hơn 15 năm cho thấy, trợ giúp pháp lý đã góp phần bảo đảm
pháp chế Xã hội Chủ nghĩa, quyền con người nói chung và quyền của các nhóm
người yếu thế trong xã hội nói riêng. Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu trợ giúp pháp lý
của người dân, ngày 29/06/2006, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua
Luật trợ giúp pháp lý, đánh dấu bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển trợ giúp
pháp lý Việt Nam, đưa hoạt động này phát triển cả về chất và lượng. Tuy nhiên,
thực tiễn cũng phản ánh những tồn tại trong hoạt động trợ giúp pháp lý như sự tham
gia hạn chế của cả chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý và đối tượng thụ hưởng quyền;
sự mất cân đối giữa các phương thức trợ giúp pháp lý; số lượng vụ việc được trợ
giúp pháp lý hằng năm chưa nhiều; nhiều chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý còn hạn
chế về năng lực, kỹ năng giải quyết vụ việc… Trong khi đó nhu cầu được trợ giúp
pháp lý của người dân, đặc biệt là nhóm người yếu thế, ngày càng tăng dẫn đến tình
trạng quá tải, không đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu trợ giúp pháp lý.
Những năm gần đây, Việt Nam tham gia nhiều văn kiện quốc tế về quyền
con người, bao gồm Bộ luật nhân quyền và các công ước về quyền của các nhóm
yếu thế. Mới đây nhất, Việt Nam được bầu là thành viên của Hội đồng Nhân quyền
và thông qua Hiến pháp năm 2013. Trong các văn kiện quan trọng, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định đường lối nhất quán quan điểm luôn tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm và thúc đẩy quyền con người, thể hiện cam kết mạnh mẽ cùng mong muốn góp
2
phần xây dựng, thúc đẩy phát triển nền văn hóa nhân quyền trên toàn thế giới, song,
cũng nhấn mạnh những khó khăn, thách thức trong mặt trận này, đặc biệt là việc
đảm bảo quyền tiếp cận pháp lý và sự bình đẳng trước pháp luật cho các nhóm yếu
thế, thiệt thòi. Do đó, phát triển trợ giúp pháp lý được Đảng và Nhà nước ta xác
định không chỉ là một trong những giải pháp của chương trình “xóa đói, giảm
nghèo”, thu hẹp các khoảng cách trong xã hội mà còn là biện pháp hỗ trợ cho các
thiết chế thực thi pháp luật, bảo đảm bảo vệ quyền con người nói chung và quyền
con người của các nhóm yếu thế nói riêng, đảm bảo công bằng xã hội và pháp chế
Xã hội Chủ nghĩa.
Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, đánh giá và hoàn thiện pháp luật
về trợ giúp pháp lý cho nhóm người yếu thế càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Vai trò trợ giúp pháp lý đối với việc thúc đẩy tiếp
cận và bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội” không chỉ có tính cấp
thiết về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi thực tiễn nhằm khắc phục những hạn chế còn
tồn tại của hệ thống trợ giúp pháp lý Việt Nam đồng thời có ý nghĩa to lớn trong
việc bảo vệ, bảo đảm thực thi và thúc đẩy các quyền con người của nhóm người yếu
thế trong xã hội góp phần phát triển kinh tế xã hội cũng như xây dựng thành công
nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, trợ giúp pháp lý và quyền của nhóm người yếu
thế là hai trong số các chủ đề ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm. Do đó, có
khá nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu như “Luật quốc tế về quyền của các nhóm
người dễ bị tổn thương” Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công
dân, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội; “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương
trong tố tụng hình sự” của Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công
dân hợp tác cùng Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự, Khoa
Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội; Luận án tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” của Tạ Thị Minh Lý; Luận án tiến sĩ
luật học “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở
3
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Tùng; Đề tài cấp Bộ “Mô hình tổ chức và hoạt
động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”; “Legal
aid and human rights” của Don Fleming; “Guide on Article 6 – Rights to fair trial
(Criminal climb)” của European Court of Human Rights, Council of Europe…
Những công trình trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá lớn về
hoạt động trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, chưa có công trình nào phân tích một cách
toàn diện về hoạt động trợ giúp pháp lý đối với việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con
người của các nhóm yếu thế trong xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Vai trò
trợ giúp pháp lý đối với việc thúc đẩy tiếp cận và bảo đảm quyền của nhóm người
yếu thế trong xã hội” là rất cần thiết. Luận văn có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn,
góp phần làm rõ mối quan hệ giữa hoạt động trợ giúp pháp lý với việc đảm bảo
quyền của các nhóm yếu thế cũng như đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của hoạt động này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ các
tiêu chí quốc tế, quy định quốc gia về hỗ trợ pháp lý cho nhóm người yếu thế trong
xã hội, từ đó đánh giá mức độ phù hợp của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam với tiêu
chuẩn quốc tế và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của trợ giúp pháp lý
trong việc bảo đảm tiếp cận và thúc đẩy quyền của các nhóm yếu thế tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, tác giả luận văn đặt ra cho mình một số nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
- Phân tích các đặc điểm của trợ giúp pháp lý từ đó đúc rút khái niệm cơ bản
về trợ giúp pháp lý và nhóm người yếu thế trong xã hội;
- Làm sáng tỏ vai trò của trợ giúp pháp lý đối với việc bảo vệ, bảo đảm thực
thi và thúc đẩy quyền con người của các nhóm yếu thế;
- Phân tích vị trí của quyền trợ giúp pháp lý trong luật nhân quyền quốc tế và
mối quan hệ tương hỗ giữa quyền này với quyền tiếp cận công lý;
- Phân tích và đánh giá thực trạng về pháp luật và thực tiễn trong việc trợ
4
giúp pháp lý cho các nhóm yếu thế tại Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật và khắc phục các hạn chế còn tồn tại.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các văn bản pháp luật quốc tế
và quốc gia về trợ giúp pháp lý cho nhóm người yếu thế trong xã hội và thực tiễn hoạt
động trợ giúp pháp lý trong việc bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người của
nhóm người yếu thế trong xã hội ở Việt Nam những năm gần đây (1997 đến 2013).
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống các quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam về bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt
là nhóm người yếu thế trong xã hội.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là các văn kiện quốc tế, văn bản pháp luật quốc
gia về trợ giúp pháp lý cũng như kết quả đạt được của hoạt động trợ giúp pháp lý ở
nước ta từ khi thành lập đến nay.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu và khai thác các tư
liệu thực tiễn để các đánh giá, kết luận của đề tài được khách quan, công bằng và
minh bạch.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong lĩnh vực pháp luật về quyền
con người nghiên cứu tương đối đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vai trò của trợ
giúp pháp lý trong việc bảo vệ, đảm bảo và thúc đẩy quyền của nhóm người yếu thế
trong xã hội. Các đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại cũng
như nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho nhóm người yếu thế.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn thể hiện trong các điểm sau:
1. Khái quát, phân tích, làm sáng tỏ được các vấn đề cơ bản liên quan đến
vai trò của trợ giúp pháp lý đối với việc bảo đảm tiếp cận và thúc đẩy quyền con
người của nhóm người yếu thế;
2. Nêu bật những quy định về vai trò trợ giúp pháp lý đối với việc bảo đảm
5
tiếp cận và thúc đẩy quyền con người của nhóm người yếu thế trong luật nhân
quyền quốc tế;
3. Làm rõ thực trạng pháp lý và thực tiễn về vai trò trợ giúp pháp lý đối với
việc bảo đảm tiếp cận và thúc đẩy quyền con người của nhóm người yếu thế tại Việt
Nam hiện nay;
4. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng
cao vai trò trợ giúp pháp lý đối với việc bảo đảm tiếp cận và thúc đẩy quyền con
người của nhóm người yếu thế tại Việt Nam.
6. Ý nghĩa của luận văn
Những tổng hợp, phân tích, đánh giá và kiến nghị của luận văn có ý nghĩa
thiết thực về lý luận và thực tiễn trong việc bảo vệ, bảo đảm thực thi và thúc đẩy
quyền con người của nhóm yếu thế thông qua trợ giúp pháp lý. Qua kế quả đề xuất,
tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý
nói chung và trợ giúp pháp lý cho nhóm yếu thế nói riêng.
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo ở Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ
sở đào tạo khác ở Việt Nam trong lĩnh vực pháp luật về quyền con người và trợ
giúp pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về vai trò trợ giúp pháp lý đối với việc bảo
đảm và thúc đẩy quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Chương 2: Luật nhân quyền quốc tế về vai trò của trợ giúp pháp lý cho nhóm
người yếu thế
Chương 3: Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò trợ giúp pháp lý đối với
việc thúc đẩy tiếp cận, bảo đảm quyền của người yếu thế tại Việt Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN
CỦA NHÓM NGƢỜI YẾU THẾ TRONG XÃ HỘI
1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
1.1.1. Vài nét về sự ra đời của trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý xuất hiện khá sớm trong lịch sử, vào khoảng giữa những
năm 1700 đến đầu 1900 do những biến đổi trong các mối quan hệ kinh tế, xã hội và
nhất là chính trị. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào năm 1949, Vương Quốc
Anh đã xây dựng chương trình trợ giúp pháp lý quốc gia với qui định nhà nước hỗ
trợ một số dịch vụ pháp lý cho các đối tượng thiệt thòi trong xã hội. Sự kiện này đã
đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động trợ giúp pháp lý và được xem như là
“bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý quốc tế”
[22, tr.1]. Từ đó, hoạt đông trợ giúp pháp lý lan tỏa đến các châu lục, phát triển ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Theo thống kê của Tổ chức minh bạch quốc tế có trên 150 quốc gia trên thế
giới đã xây dựng và phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý.
Qua những nghiên cứu về quá trình phát triển của hoạt động trợ giúp pháp lý,
các chuyên gia đều khẳng định sự ra đời và phát triển của trợ giúp pháp lý là một
yêu cầu tất yếu của phát triển xã hội, là một trong những tiêu chí đánh giá sự văn
minh, dân chủ của một nhà nước pháp quyền. Nhận định này hoàn toàn chính xác,
do được lý giải bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do đòi hỏi của việc tôn trọng, bảo đảm và thực thi các quyền con
người trong xã hội hiện đại. Kết thúc Chiến tranh thế giới thứ II, với sự ra đời của
Liên Hợp Quốc – Tổ chức lớn nhất của xã hội loài người đã góp phần quan trọng
mang tính quyết định trong xứ mệnh bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế, bảo đảm
thực thi quyền con người trên phạm vi toàn thế giới. Những tư tưởng tiến bộ về
quyền con người được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên ngôn
toàn thế giới về quyền con người và hai công ước quốc tế về các quyền dân sự,
7
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đã đặt nền móng cho việc bảo đảm thực thi
quyền con người. Ngay Lời mở đầu Hiến chương, Liên Hợp Quốc đã khẳng định
“sự tin tưởng vào những quyền cơ bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị của
con người” [23]. Theo qui định của những văn bản này thì việc tôn trọng, bảo đảm
và thực thi các quyền con người là trách nhiệm của các quốc gia thành viên. Nhà
nước không chỉ luật hóa các tiêu chí quốc tế về quyền con người mà còn có trách
nhiệm đưa ra các biện pháp bảo đảm thực thi cũng như bảo vệ quyền con người khi
bị xâm hại. Bình đẳng được xem là một trong những quyền con người cơ bản, trong
đó có sự bình đẳng tiếp cận các dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên, đối với những người có
hoàn cảnh đặc biệt, thiệt thòi trong xã hội, không có khả năng, điều kiện sử dụng
dịch vụ pháp lý thì nhà nước phải có trách nhiệm trợ giúp cho họ. Chỉ có sự trợ giúp
pháp lý của nhà nước thì quyền con người của các đối tượng bị thiệt thòi, yếu thế
trong xã hội mới có cơ hội được thực thi. Vì vậy, trợ giúp pháp lý là đòi hỏi tất yếu
của việc bảo đảm thực thi quyền con người trong thời đại ngày nay.
Thứ hai, đòi hỏi của xu thế xã hội dân sự. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh
của các tổ chức xã hội dân sự đã tác động rất lớn đến việc cải thiện vai trò, trách
nhiệm và thực hiện nghĩa vụ của nhà nước với cộng đồng. Thông qua sức mạnh
truyền thông, dư luận tiến bộ, các tổ chức này đại diện cho những nhóm người khác
nhau trong xã hội đòi hỏi nhà nước phải ghi nhận và đưa ra biện pháp để bảo đảm
bảo vệ và thực thi các quyền con người cơ bản.
Thứ ba, yêu cầu thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Sự phát triển xã hội
chỉ đạt được một cách toàn diện khi không có bất cứ sự loại trừ đối với bất cứ đối
tượng nào. Tuy nhiên, một số nhóm lại gặp khó khăn hoặc không thể tiếp cận với
các chính sách ưu đãi dành cho mình. Vì vậy, cần phải có cơ chế giúp họ hiểu biết,
hoàn thành các thủ tục pháp lý để tiếp nhận sự ưu đãi, đầu tư và phát triển kinh tế,
đời sống gia đình.
Thứ tư, chia sẻ một phần trách nhiệm của nhà nước. Mặc dù, nghĩa vụ thực
thi pháp luật chủ yếu thuộc về các nhà nước, song, các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác cũng có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi, phối hợp cùng đại diện công
8
quyền đưa các quy phạm pháp luật đi vào đời sống, góp phần bảo đảm pháp chế và
trật tự xã hội. Đặc biệt, trong thế giới nhiều biến động, nhà nước không phải là bộ
máy duy nhất và toàn năng thực hiện việc quản lý xã hội mà cần có sự chia sẻ của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Do đó, sự ra đời của trợ giúp pháp lý với sự
tham gia của các yếu tố phi nhà nước nhằm đáp ứng phần nào đòi hỏi về sự san sẻ
trách nhiệm giữa các chủ thể trong xã hội.
Thứ năm, nhằm bảo đảm quyền của các nhóm người yếu thế. Cùng với yêu
cầu bảo đảm các quyền con người, đây là một trong những nguyên nhân chính yếu
dẫn đến sự ra đời của trợ giúp pháp lý. Bởi các nhóm người yếu thế là những người
có khả năng hạn chế hoặc không có khả năng tiếp cận với các quy định, chính sách
pháp luật, do đó, các quyền con người của họ dễ bị bỏ quên hoặc bị vi phạm, vì vậy,
cần phải có một cơ chế hữu hiệu giúp những người này vượt qua khó khăn, bảo đảm
các quyền lợi chính đáng của mình. Điều này cũng chính là bảo đảm công bằng và
công lý trong xã hội. Như vậy, ngay từ khi ra đời, trợ giúp pháp lý đã gắn liền với
nhóm người yếu thế và có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các quyền pháp lý
của nhóm người này.
Vì vậy, ngày nay, trợ giúp pháp lý đã trở nên khá phổ biến không những ở
cấp độ quốc gia mà còn trên phạm vi toàn cầu do đòi hỏi của nhu cầu trợ giúp pháp
lý của xã hội ngày càng tăng. Mặt khác, trong nhà nước pháp quyền, hành vi của
mọi chủ thể đều dựa trên nguyên tắc pháp luật tối thượng, sự minh bạch của quá
trình thực thi quyền lực nhà nước. Do đó, nhiều chuyên gia đánh giá rằng sự ra đời
của trợ giúp pháp lý là tất yếu và cấp thiết trong xã hội hiện đại.
1.1.2. Định nghĩa trợ giúp pháp lý
Khi luận bàn về khái niệm trợ giúp pháp lý vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Quan niệm rộng cho rằng bất kể sự giúp đỡ nào về mặt pháp lý của đối
tượng này cho đối tượng khác đều là trợ giúp pháp lý. Trong khi đó, quan niệm hẹp
lại khẳng định trợ giúp pháp lý là công việc của các cơ quan nhà nước nhằm giúp
đỡ, giải thích luật cho công dân để họ có thể chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh.
Những quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý song khá phiến diện và có thể
9
dẫn đến gây nhầm lẫn giữa trợ giúp pháp lý với những dịch vụ pháp luật thông
thường khác do các văn phòng luật sư, tổ chức kinh doanh liên quan đến pháp lý
cung cấp cũng như hoạt động phổ biến pháp luật, đồng thời vô tình giới hạn phạm
vi của trợ giúp pháp lý trong khi trên thực tế trợ giúp pháp lý có thể được thực hiện
bởi nhiều chủ thể khác (nhà nước và phi nhà nước) dưới sự quản lý của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp – Việt giải thích “trợ giúp pháp lý” (Aide
Juridique) là “việc giúp đỡ những người nghèo, đối tượng chính sách trong việc
tiếp cận pháp luật, khởi kiện hoặc theo kiện tại tòa” [12, tr.60].
Tùy thuộc vào mô hình được xây dựng mà các quốc gia trên thế giới có cách
tiếp cận khác nhau với khái niệm “trợ giúp pháp lý”. Nước Đức quan niệm trợ giúp
pháp lý là “giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả
năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện và bào chữa trước tòa
án" [8]. Đạo luật trợ giúp pháp lý năm 1995 của Singapore định nghĩa “trợ giúp
pháp lý là việc đại diện cho khách hàng trước tòa án nhằm giúp đỡ những người
không có khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý” [9, tr.77]. Theo luật của Úc thì
đó là “sự trợ giúp cho một người có được hoàn cảnh và điều kiện tương tự như
người khác trong việc tiếp cận pháp luật” [8].
Ở Việt Nam, mặc dù, được sử dụng từ năm 1995, tuy nhiên, phải đến khi
Luật trợ giúp pháp lý ra đời năm 2006 thì khái niệm “trợ giúp pháp lý” mới được
xây dựng tổng quát và mang tính pháp lý. Theo đó, Điều 3 Luật trợ giúp pháp lý
năm 2006 quy định:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người được trợ giúp pháp lý theo quy định của luật này, giúp người được
trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu
biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần vào
việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã
hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [13, Điều 3].
Như vậy, dù pháp luật các nước quy định tương đối khác nhau, song tựu
chung khái niệm trợ giúp pháp lý đều được xây dựng dựa trên những nền tảng sau:
10
- Sự hỗ trợ về chi phí: Hỗ trợ một phần hoặc hoàn toàn các chi phí liên quan
đến các dịch vụ pháp lý. Những chi phí này có thể là chi phí thuê luật sư, phí tư vấn
pháp luật, phí soạn thảo văn bản, đơn kiện… Thậm chí, một số quốc gia còn trang
trải cho việc đi lại, điện thoại liên hệ… trong quá trình người được trợ giúp pháp lý
cung cấp thông tin. Một số quốc gia quy định cụ thể những trường hợp được miễn
phí hoàn toàn và những trường hợp phải đóng một khoản phí phù hợp với mức thu
nhập của người được trợ giúp pháp lý.
- Đối tượng hưởng lợi: Là người không có khả năng hoặc bị hạn chế về khả
năng tiếp cận pháp lý. Sự hạn chế này có thể xuất phát do yếu tố tài chính (nghèo
đói, trẻ em không có cha mẹ, người giám hộ lo các khoản phí…), thể chất, tinh thần
(người khuyết tật…), giới tính, quốc tịch (người nước ngoài…)…
- Mục đích: Nhằm tạo sự công bằng về khả năng tiếp cận công lý cho tất cả
mọi người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm “bình đẳng thực chất” cho tất cả
mọi người, sự trợ giúp pháp lý sẽ giúp mọi cá nhân có thể tiếp cận với pháp luật,
vượt qua các rào cản để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa trợ giúp pháp lý như sau:
“Trợ giúp pháp lý là một hoạt động hỗ trợ xã hội, cung cấp các dịch vụ pháp
lý miễn phí hoặc thu phí một phần cho những người gặp khó khăn trong việc tiếp
cận, thực hiện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình do cơ quan, tổ chức, cá nhân
có chuyên môn, nghiệp vụ tiến hành nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý, công
bằng xã hội của họ”.
1.2. Những phƣơng diện thể hiện vai trò của trợ giúp pháp lý đối với
việc thúc đẩy tiếp cận và bảo đảm quyền con ngƣời của nhóm ngƣời yếu thế
Việc trợ giúp pháp lý cho nhóm công dân đặc thù không chỉ hướng dẫn họ tuân
thủ, chấp hành đúng pháp luật mà còn “để pháp luật trở thành đại lượng công bằng xã
hội còn là một trong những biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào
cuộc sống, góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế” [11, tr. 41]. Vai trò của
trợ giúp pháp lý được thể hiện trên những phương diện sau đây:
11
1.2.1. Đảm bảo quyền con người của nhóm người yếu thế
Cho dù quyền con người nói chung và quyền con người của nhóm người yếu
thế nói riêng có nguồn gốc tự nhiên hay nguồn gốc pháp lý thì việc thực hiện các
quyền con người vẫn cần có sự thừa nhận của pháp luật. Điều đó có nghĩa là, pháp
luật là phương tiện chính thức hóa các quyền con người, nếu không có sự thừa nhận
của xã hội thông qua pháp luật thì quyền tự nhiên vốn có của con người chưa thể trở
thành quyền thực sự. Khi quyền con người được quy định trong Hiến pháp và pháp
luật thì nó sẽ có sức mạnh “tối thượng”, có giá trị bắt buộc mà bất cứ chủ thể nào
cũng phải tôn trọng. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhà nước cũng nhìn thấy hoặc
chịu thừa nhận các quyền này, đặc biệt là khi chúng xuất phát từ lợi ích của các
nhóm yếu thế hơn hoặc việc thừa nhận có thể tạo ra sự xung đột về lợi ích với các
nhóm mạnh hơn trong xã hội. Do đó, một số trường hợp cần phải có những tác động
để nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thông qua quá trình trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý nắm
bắt được nhu cầu, khó khăn của nhóm người yếu thế trên cơ sở đó đưa ra các kiến
nghị với cơ quan lập pháp nhằm thiết lập những tiêu chuẩn pháp luật tương xứng,
phù hợp với nhu cầu, đặc điểm của các nhóm này. Tuy nhiên, bởi việc trợ giúp pháp
lý được thực hiện độc lập theo vụ việc riêng lẻ và đối tượng hưởng lợi là cá nhân,
do đó, phải có những tổng hợp, đánh giá mang tính chuyên môn, tổng thể trước khi
gửi kiến nghị tới cơ quan lập pháp. Việc kiến nghị được thực hiện ôn hòa, do cơ
quan quản lý của toàn hệ thống chịu trách nhiệm. Đây là một trong những cách thức
lập pháp hiệu quả bởi pháp luật sẽ được xây dựng dựa trên nhu cầu và điều kiện
thực tiễn, vì vậy, dễ đi vào đời sống xã hội.
Ngoài ra, trong quá trình trợ giúp pháp lý khi phát hiện ra các quy định trái
với quyền lợi hợp pháp của nhóm người yếu thế được thừa nhận trong các văn kiện
quốc tế về quyền con người, Hiến pháp hoặc văn bản pháp luật cao hơn, người thực
hiện trợ giúp pháp lý có thể yêu cầu cơ quan ra văn bản phải hủy bỏ, thay thế và các
cơ quan thực thi pháp luật chấm dứt thi hành văn bản đó.
12
1.2.2. Bảo vệ quyền con người của nhóm người yếu thế
1.2.2.1. Đảm bảo pháp luật về quyền của nhóm yếu thế được thực thi
Cùng với những công cụ khác, pháp luật điều chỉnh hữu hiệu các mối quan
hệ trong xã hội thông qua việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể,
tạo điều kiện cho các mối quan hệ xã hội phát triển. Đối với nhóm người yếu thế,
quy phạm pháp luật càng đặc biệt quan trọng bởi họ dễ bị tổn thương và các quyền
lợi hợp pháp rất dễ bị vi phạm. Do đó, pháp luật không chỉ có vai trò thừa nhận sự
tồn tại của các nhóm này mà còn ngăn chặn nguy cơ vi phạm quyền cũng như tạo
điều kiện để họ có thể phát triển đời sống cá nhân. Tuy nhiên, luật hóa quyền con
người mới là bước đầu trong việc bảo đảm quyền lợi của nhóm người yếu thế. Thực
thi quyền là bước thứ hai giúp đưa các quyền con người của nhóm người yếu thế trở
thành các quyền thực thụ. Việc thực thi quyền phải đảm bảo 03 yếu tố sau gồm (1)
người có quyền nhận thức được các quyền của mình và áp dụng các quyền đó; (2)
có đầy đủ phương tiện, công cụ cần thiết phục vụ cho sự hưởng thụ các quyền con
người; (3) không có sự can thiệp bất hợp pháp từ các chủ thể khác đến việc hưởng
thụ quyền. Với mục đích loại trừ các rào cản, trợ giúp pháp lý có vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo quyền con người của các nhóm yếu thế được thực thi thông qua
các nội dung sau:
Một là, giúp người yếu thế biết, nhận thức và áp dụng được các quyền của
mình. Mặc dù, các quyền đã được luật hóa, song, không phải ai trong nhóm người
yếu thế cũng đủ khả năng để biết và nhận thức đầy đủ các quyền của mình vì những
hạn chế về ngôn ngữ, phương tiện, sức khỏe, trí tuệ Bởi các rào cản, họ hoặc hiểu
rất mơ hồ hoặc nhận thức sai lệch hoặc thậm chí không biết về các quyền lợi hợp
pháp của mình. Chưa kể nỗi sợ hãi và tự ti về bản thân khiến người yếu thế sớm bỏ
cuộc hoặc không áp dụng đúng các quyền pháp lý. Chẳng hạn, người có HIV/AIDS
có quyền khám bệnh miễn phí định kỳ nhưng do lo sợ bị người khác phát giác, kỳ
thị, họ tự nguyện từ chối dịch vụ này. Trợ giúp pháp lý sẽ giúp người yếu thế khắc
phục những khó khăn trên. Thông qua tư vấn pháp luật, người thực hiện trợ giúp
pháp lý sẽ giải thích, hướng dẫn cho người được trợ giúp pháp lý về các quyền của
13
mình, cách thức, thủ tục pháp lý để áp dụng các quyền này. Nếu có đề nghị xa hơn,
người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể đại diện tham gia tố tụng và ngoài tố tụng
cho người được trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ.
Hai là, yêu cầu tạo ra đầy đủ các công cụ, điều kiện để bảo đảm thực thi.
Cần phải có các phương tiện, thiết chế, biện pháp hỗ trợ để mọi người nói chung và
nhóm người yếu thế nói riêng hưởng thụ đầy đủ các quyền con người của mình.
Trách nhiệm này chủ yếu thuộc về nhà nước mà cụ thể là các cơ quan thực thi pháp
luật. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, khi sự hiện diện của các tổ chức xã hội dân sự
ngày càng trở nên phổ biến và quan trọng thì các công cụ thực thi pháp luật có thể
được tạo ra bởi chính những chủ thể này. Tuy nhiên, không phải khi các quyền
được thừa nhận cũng là lúc công cụ thực thi pháp lý ra đời. Thông thường, các điều
kiện để bảo đảm thực thi quyền sẽ được thiết lập sau khi luật hóa các quyền pháp lý,
những phương tiện này có thể xuất hiện ngay lập tức hoặc theo từng giai đoạn một.
Điều đáng nói là nếu việc ra đời các công cụ này kéo dài hoặc thậm chí không xuất
hiện thì hiển nhiên các quyền con người của nhóm yếu thế mãi chỉ tồn tại trên lý
thuyết mà không thể ứng dụng trên thực tiễn. Do đó, qua quá trình đại diện, người
thực hiện trợ giúp pháp lý đề nghị các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, trách nhiệm
hoặc có khả năng thiết lập các công cụ bảo đảm việc hưởng thụ đầy đủ các quyền
con người của nhóm yếu thế. Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật nước X người
tỵ nạn được sinh sống miễn phí trong các trại tỵ nạn, tuy nhiên, thực tế chưa có bất
kỳ trại tỵ nạn nào được xây dựng trên lãnh thổ nước này thì thông qua quá trình trợ
giúp pháp lý cho khách hàng là người tỵ nạn, người thực hiện trợ giúp pháp lý kiến
nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thiết lập các trại tỵ nạn để họ có thể
thực hiện quyền của mình, đăng ký ở trong các khu trại này.
Ba là, yêu cầu không có sự can thiệp bất hợp pháp từ các chủ thể khác vào
việc áp dụng quyền của nhóm người yếu thế. Nói cách khác là đòi hỏi các chủ thể
khác trong xã hội (bao gồm cả nhà nước và các yếu tố phi nhà nước; bên có nghĩa
vụ và không có nghĩa vụ) phải tôn trọng quyền con người của các nhóm yếu thế,
không can thiệp dưới bất cứ hình thức nào vào việc hưởng thụ các quyền con người
14
của nhóm yếu thế đã được pháp luật ghi nhận. Nghĩa vụ này đặc biệt liên quan đến
các quyền dân sự và chính trị như quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý nhà
nước… Sự can thiệp có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp dưới nhiều cách
thức khác nhau chẳng hạn gây sức ép với chính những người yếu thế hoặc với
người thân của họ, kêu gọi người khác phản đối việc hưởng thụ quyền của người
yếu thế hoặc tạo ra nhiều hơn các rào cản về thủ tục, mối quan hệ, thời gian… trong
quá trình người yếu thế áp dụng các quyền hợp pháp của mình. Điều này sẽ ảnh
hưởng xấu đến tâm lý, niềm tin của người yếu thế, có thể khiến họ bị thiệt hại về vật
chất, tổn thương về tinh thần. Do đó, trong khi trợ giúp pháp lý, dựa trên các thẩm
quyền, nhiệm vụ của mình, người thực hiện trợ giúp pháp lý yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân phải tôn trọng các quyền của người yếu thế, không gây cản trở đến
việc hưởng thụ các quyền con người cũng như đảm bảo hoàn thành các nghĩa vụ
của mình (nếu có).
1.2.2.2. Yêu cầu ngăn ngừa và xử lý vi phạm đối với quyền con người của
nhóm yếu thế
Quyền con người có thể bị xâm phạm từ phía bất cứ chủ thể nào, kể cả các
cơ quan, tổ chức, công chức, nhân viên nhà nước trong khi thi hành công vụ. Sử
dụng pháp luật là biện pháp hiệu quả nhất để đảm bảo trật tự xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của người dân. Khi phát hiện ra dấu hiệu vi phạm, người có
quyền được trợ giúp pháp lý yêu cầu sự trợ giúp pháp lý nhằm ngăn chặn sự vi
phạm thông qua phương thức đại diện, tố cáo, khiếu nại… Có 02 cách thức chính để
ngăn chặn vi phạm:
Một là, người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tiếp trao đổi, gửi yêu cầu
đến bên chủ thể có nghĩa vụ, đòi hỏi họ phải chấm dứt ngay các hành vi có thể
dẫn đến vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của người
được trợ giúp pháp lý;
Hai là, người thực hiện trợ giúp pháp lý đại diện cho khách hàng kiến nghị
lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan này chủ động đưa ra các
biện pháp và xây dựng cơ chế phòng ngừa vi phạm.
15
Khi vi phạm đã xảy ra và có thiệt hại, trợ giúp pháp lý giúp người được trợ
giúp pháp lý yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của khách hàng thông qua hoạt động tham gia tố tụng, hòa giải, đại diện
ngoài tố tụng… Điều này càng đặc biệt khi mà người yếu thế là bị can, bị cáo, bị
đơn dân sự trong vụ án hình sự. Trong quá trình tố tụng, trợ giúp pháp lý không chỉ
đảm bảo quyền bào chữa cho tất cả mọi người mà người thực hiện trợ giúp pháp lý
còn phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm đến quyền con người của
người yếu thế, buộc các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo đảm
các quyền này.
1.2.3. Thúc đẩy quyền con người của nhóm người yếu thế
Trợ giúp pháp lý thúc đẩy các quyền con người được cải thiện và quy định
tiến bộ hơn trong các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế thông qua việc thay đổi
và định hướng nhận thức của các chủ thể trong xã hội bao gồm:
- Nhóm có nghĩa vụ: Bao gồm nhà nước và các chủ thể khác. Tuy nhiên,
trong pháp luật quốc tế, nhà nước là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc tôn
trọng, thực thi và thúc đẩy các quyền con người, do đó, nhóm có nghĩa vụ ở đây
cũng tập trung nhấn mạnh vào nhà nước. Việc tác động tới nhà nước được thực hiện
bằng cách tác động tới nhận thức, hành vi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân làm
việc và đại diện cho nhà nước từ cấp Trung ương đến địa phương thông qua quá
trình trợ giúp pháp lý mà cụ thể là đại diện tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố
tụng. Tác động tới nhận thức của đại diện nhà nước được thực hiện trực tiếp hoặc
gián tiếp. Với trường hợp trực tiếp, người thực hiện trợ giúp pháp lý đứng ra bảo vệ
quyền lợi cho khách hàng, trực tiếp làm việc với các cơ quan công quyền, thậm chí
đối chọi lại các lập luận mà họ đưa ra, chẳng hạn, tham gia bào chữa trong vụ án
hình sự hoặc khiếu nại về hành vi trái pháp luật của đại diện công quyền. Người
thực hiện trợ giúp pháp lý có thể gửi yêu cầu đến các cơ quan nhà nước phải kiềm
chế không can thiệp vào việc hưởng thụ các quyền con người do pháp luật quy định
hoặc ngăn chặn sự vi phạm của bên thứ ba hoặc đưa ra các biện pháp hỗ trợ người
dân để họ được hưởng thụ đầy đủ các quyền con người của mình. Với trường hợp
16
gián tiếp, thông qua việc sử dụng, áp dụng pháp luật, hoạt động trợ giúp pháp lý
giúp cơ quan có thẩm quyền phát hiện ra những thiếu sót, sai phạm trong các văn
bản pháp luật từ đó có biện pháp điều chỉnh, sửa đổi làm cho các quyền con người
được bảo đảm hơn. Việc nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đại
diện cho nhà nước qua hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện theo phương pháp
ứng dụng thực tiễn, tổng kết và rút ra bài học từ đó xây dựng cách nhìn đúng đắn
cũng như cải thiện cách thức làm việc với nhóm người yếu thế và quyền của các
nhóm này đồng thời phát hiện ra các rào cản, khó khăn mới phát sinh từ đó xây
dựng các tiêu chuẩn pháp lý tiến bộ và phù hợp hơn.
- Nhóm người yếu thế: Cả Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người,
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, Công ước quốc tế về các quyền
kinh tế, văn hóa và xã hội đều khẳng định mọi người đều bình đẳng trong việc thụ
hưởng các quyền con người và được tôn trọng nhân phẩm ở bất cứ nơi nào, tại bất
cứ thời điểm nào, việc bảo đảm các quyền con người chính là biện pháp duy nhất
giúp loài người không còn phải chịu nỗi sợ hãi và nghèo khổ cùng cực và con người
cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em. Người yếu thế là nhân vật chính, đóng
vai trò trung tâm trong việc bảo đảm các quyền con người của mình, song, nỗi tự ti,
sợ hãi khiến cho họ không dám lên tiếng thể hiện nguyện vọng cũng như né tránh
các quan hệ pháp luật, từ bỏ các quyền pháp lý. Vì vậy, trợ giúp pháp lý có vai trò
không chỉ đơn thuần giúp nhóm người yếu thế vượt qua các rào cản, tiếp cận pháp
luật, bảo đảm các quyền lợi chính đáng mà hơn hết là giúp họ vượt qua nỗi mặc
cảm, sợ hãi và đặt niềm tin vào công lý từ đó dám đứng lên đấu tranh, tự bảo vệ các
quyền con người của mình hoặc của cộng đồng mình sinh sống. Người thực hiện trợ
giúp pháp lý sẽ đồng hành cùng với nhóm người yếu thế, giải thích cho họ hiểu rõ
các quyền lợi hợp pháp của bản thân, cách thức áp dụng các quyền đó cũng như
biện pháp loại bỏ các rào cản từ đó nâng cao nhận thức về các quyền con người của
nhóm yếu thế. Ngoài ra, trợ giúp pháp lý cũng có vai trò trong việc giúp cá nhân
thuộc nhóm này vượt qua hoặc khắc phục phần nào vị thế yếu thế của mình bằng
cách hướng dẫn các chính sách ưu đãi dành cho nhóm này để phát triển kinh tế và
đời sống. Đây là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy các quyền của người yếu thế.
17
- Nhóm xã hội khác: Bao gồm các tổ chức xã hội dân sự và cá nhân hoạt
động độc lập. Ngày nay, tổ chức xã hội dân sự ngày càng có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ các quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm người yếu
thế. Họ không chỉ hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật mà còn có tiếng nói trong các cuộc
vận động ghi nhận, thúc đẩy quyền của các nhóm yếu thế. Qua các hoạt động của
trợ giúp pháp lý và kết quả đạt được, các chủ thể này sẽ thấy rõ hơn những rào cản
mà nhóm người yếu thế gặp phải cũng như những bất cập trong chính sách dành
cho nhóm người yếu thế từ đó đưa ra các kiến nghị, yêu cầu hoàn thiện pháp luật và
công cụ thực thi pháp luật.
Như vậy, trợ giúp pháp lý không chỉ đơn thuần hỗ trợ cho các cơ quan thực
thi pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống mà còn là biện pháp hữu hiệu để nhóm
người yếu thế có thể tiếp cận, thực hiện cũng như thúc đẩy các quyền của mình, từ
đó đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ pháp chế.
1.3. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý
Nghiên cứu về trợ giúp pháp lý cho thấy nó có những đặc điểm sau:
1.3.1. Trợ giúp pháp lý vừa mang tính nhà nước, vừa mang tính xã hội
Mặc dù, mô hình trợ giúp pháp lý đầu tiên trên thế giới là mô hình từ thiện
(do các luật sư thực hiện tự nguyện mà không có bất cứ sự can thiệp nào của nhà
nước), song, nhà nước lại đóng vai trò hạt nhân trong lịch sử phát triển của trợ giúp
pháp lý. Từ năm 1949 đến nay, nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm chính trong
việc vận hành hệ thống trợ giúp pháp lý ở hầu hết các quốc gia. Không chỉ phát
kiến, xây dựng hành lang pháp lý, cung cấp tài chính, nguồn nhân lực mà nhà nước
còn quản lý, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực này. Điều này
tương đối dễ hiểu bởi nhà nước ban hành pháp luật để quản lý xã hội đồng nghĩa
phải có cơ chế đảm bảo pháp luật được thực thi. Thêm nữa, các chính sách, pháp
luật trực tiếp tác động đến đời sống xã hội và các quyền con người mà trong luật
nhân quyền quốc tế nhà nước là bên có nghĩa vụ chính trong việc đảm bảo, thực thi
và thúc đẩy các quyền con người, do đó, thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân là
một trong các trách nhiệm của nhà nước.
18
Tính xã hội được biểu hiện ở mục tiêu cốt lõi của trợ giúp pháp lý là đảm bảo
công bằng xã hội, tiếp cận công lý và bảo đảm pháp chế. Ngoài ra, ngày càng nhiều
sự tham gia của các thành phần khác (yếu tố ngoài nhà nước) như luật sư, giảng
viên luật, luật gia, sinh viên luật, mạng lưới xã hội dân sự… với các vai trò khác
nhau, đã tạo ra tính xã hội rộng rãi cho hoạt động này.
1.3.2. Trợ giúp pháp lý là một hoạt động hỗ trợ xã hội, mang tính chất
nhân đạo
Trợ giúp pháp lý thể hiện trách nhiệm xã hội của nhà nước và các tổ chức, cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực pháp lý. Người được trợ giúp pháp lý chỉ phải bỏ ra
mức chi phí thấp so với các dịch vụ pháp lý thông thường, thậm chí là hoàn toàn
miễn phí để được giúp đỡ về mặt pháp lý. Điều quan nhất là những người này
thường có hoàn cảnh đặc biệt, gặp khó khăn trong việc tiếp cận pháp luật hoặc vượt
qua các rào cản để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Vì vậy, việc trợ giúp pháp
lý cho họ không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn góp phần đảm bảo công bằng
xã hội, bảo đảm pháp chế được thực thi.
1.3.3. Trợ giúp pháp lý hỗ trợ hoạt động xét xử, bảo đảm thực thi các
quyền con người
Tham gia tố tụng (bao gồm đại diện và bào chữa) đặc biệt là tố tụng hình sự
là phương thức trợ giúp pháp lý đầu tiên và chủ yếu của hệ thống trợ giúp pháp lý.
Đến nay, không chỉ được ghi nhận trong pháp luật quốc gia mà việc trợ giúp pháp
lý cho bị can, bị cáo đã được quy định trong các văn kiện quốc tế. Người thực hiện
trợ giúp pháp lý với vai trò là luật sư, có vị trí độc lập với các cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng sẽ hỗ trợ hoạt động xét xử diễn ra công bằng, khách
quan thông qua việc chứng minh tội phạm cũng như phát hiện, ngăn chặn kịp thời
các vi phạm trong các giai đoạn tố tụng, bảo đảm mọi người ở bất kỳ tình huống
nào cũng được bảo đảm các quyền con người của mình.
1.3.4. Đối tượng được trợ giúp pháp lý là người gặp nhiều khó khăn trong
việc vượt các rào cản để tiếp cận, thực hiện và bảo vệ quyền lợi của mình
Đặc điểm này xuất phát từ mục đích của trợ giúp pháp lý là nhằm giúp đỡ,
tương trợ cho những người gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua các rào cản để
19
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Các đối
tượng trên do sức khỏe, giới tính, xu hướng tình dục, nguồn gốc, dân tộc và các yếu
tố khác mà có vị thế chính trị, xã hội, kinh tế hay pháp lý thấp hơn các nhóm khác,
vì vậy, không có khả năng hoặc bị hạn chế về khả năng tiếp cận, thực hiện và bảo
vệ các quyền con người của mình, dẫn đến có nguy cơ cao bị phớt lờ, bị bỏ quên
hoặc bị vi phạm các quyền con người đó. Chính bởi thế, họ cần có sự trợ giúp về
pháp lý, kinh tế, giáo dục, y tế nhằm khắc phục hoặc hạn chế phần nào đặc tính bị
dễ tổn thương để hòa nhập cộng đồng và phát triển đời sống cá nhân.
1.3.5. Người thực hiện trợ giúp pháp lý phải là người có chuyên môn, kinh
nghiệm, kỹ năng về pháp luật
Bởi pháp luật là một lĩnh vực đặc thù, điều chỉnh các quan hệ xã hội và
người được trợ giúp pháp lý thường là những người có kém hiểu biết, thậm chí
không hiểu biết về pháp luật, do đó, người thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc phải
được đào tạo chính quy, bài bản về pháp luật hoặc phải có kinh nghiệm làm việc
trong lĩnh vực liên quan đến pháp luật. Điều này nhằm bảo đảm chất lượng của vụ
việc được trợ giúp pháp lý như khi sử dụng các dịch vụ pháp lý khác và hiệu quả
của hệ thống trợ giúp pháp lý.
1.3.6. Trợ giúp pháp lý có mối quan hệ tương hỗ với các thiết chế pháp
luật khác
Cùng với các phương thức tư vấn pháp luật, đại diện tố tụng, đại diện ngoài
tố tụng, tham gia đại diện trong các quan hệ hành chính, khiếu nại, tố cáo…trợ
giúp pháp lý là một trong những kênh thúc đẩy pháp luật đi vào đời sống, có mối
quan hệ qua lại với các thiết chế pháp luật khác, điều này được thể hiện dưới các
phương diện sau:
- Trợ giúp pháp lý là một hoạt động bổ trợ tư pháp, hỗ trợ đắc lực cho hoạt
động xét xử của tòa án: Người thực hiện trợ giúp pháp lý được tham gia đại diện tố
tụng trong các vụ án hình sự và dân sự dưới hình thức đại diện hoặc bào chữa trong
tất cả các giai đoạn tố tụng, có vị trí độc lập so với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Do đó, họ có thể phát hiện, ngăn chặn kịp thời các sai phạm trong hoạt động tố
tụng, góp phần bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, đúng đắn.