Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng tại VPBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.08 KB, 65 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
VPBank tên đầy đủ là Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp
Ngoài quốc doanh Việt Nam được thành lập theo Giấy phép hoạt động số
0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng
8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ
ngày 04 tháng 9 năm 1993. Sau 13 năm hoạt động, trải qua nhiều khó khăn thử
thách, đến nay có thể nói VPBank đã bước đầu thành công trong việc xây dựng
thương hiệu của mình.
Năm 2000 đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển
của VPBank. Đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu chiến
lược của VPBank cho tới năm 2010 là xây dựng VPBank trở thành ngân hàng
bán lẻ hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Khách hàng tiềm năng quan
trọng nhất của VPBank sẽ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá
thể và phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của dân cư. Việc xác định lại mục
tiêu chiến lược nói trên là một quyết định táo bạo và kiên quyết của Hội đồng
quản trị dựa trên những phân tích khoa học xác đáng. Xác định lại chiến lược,
nhằm vào các đối tượng khách hàng chính, VPBank thiết kế lại toàn bộ các sản
phẩm của mình và sắp xếp, chấn chỉnh lại toàn bộ bộ máy tổ chức để phục vụ tốt
nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời VPBank đã không ngừng cải tiến phong
cách phục vụ, tích cực nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa ra các sản
phẩm dịch vụ đa dạng và có tính cạnh tranh cao.
Thực tế đã chứng minh rằng định hướng phát triển trở thành ngân hàng
bán lẻ của VPBank là hoàn toàn đúng đắn. Năm 2005 VPBank đã chính thức
thoát khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng kéo
dài (1997 – 2004), VPBank đã vươn lên khẳng định được mình với uy tín
thương hiệu ngày càng vững mạnh, tình hình tài chính lành mạnh và chất lượng
hoạt động được kiểm soát tốt. Kết thúc năm tài chính 2005, tỷ lể chia cổ tức của
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
VPBank đạt 20%. Có thể nói VPBank đang hoàn thiện trên từng bước tiến của


mình.
Tuy đã đạt được những thành công đáng khích lệ nhưng để vươn tới vị trí
ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì VPBank còn rất nhiều việc phải làm
đặc biệt là trong thời gian sắp tới, khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, mở
cửa hoàn toàn thị trường tài chính cho các ngân hàng nước ngoài…
Sau 15 tuần thực tập tại VPBank, với mục đích tìm hiểu các hoạt động
thực tế và các dịch vụ của một ngân hàng em đã hoàn thành chuyên đề thực tập
tốt nghiệp với đề tài: “Một số giải pháp phát triển các dịch vụ ngân hàng tại
VPBank”.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG VÀ CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh
tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã
hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã
hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Đồng
thời ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung
cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy,
mua sắm trang thiết bị. Đối với người tiêu dùng, ngân hàng là nơi họ gửi tiền tiết
kiệm và cung cấp tín dụng giúp họ đáp ứng những nhu cầu chi tiêu. Khi doanh
nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch
vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và
khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân

hàng để nhận được lời tư vấn… Tóm lại, khi xã hội ngày càng phát triển thì vai trò
của ngân hàng trong nền kinh tế cũng trở nên ngày càng quan trọng.
1.1. Sự hình thành ngân hàng
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển của nền kinh tế là điều kiện
thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của
ngân hàng lại trở thành động lực cho nền kinh tế phát triển.
Thợ vàng chính là những người đầu tiên thực hiện nghề ngân hàng thông
qua nghiệp vụ đúc tiền và đổi tiền của họ. Vì vậy, những ngân hàng đầu tiên được
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
gọi là ngân hàng thợ vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia
kết hợp với sự phát triển của thương mại đã tạo ra yêu cầu đúc, đổi tiền tại các
cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại lớn. Những làm nghề đúc, đổi tiền kinh
doanh bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Họ thu lợi nhuận từ phần
chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Người làm nghề đổi tiền thường là những người giàu có. Họ thường có két
tốt để cất giữ tiền bạc, của cải của mình. Do nhu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa,
các nhà buôn… rất lớn, nhiều người làm nghề đổi tiền cung cấp luôn cả dịch vụ
cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ tài sản làm tăng thu nhập, tăng sự đa dạng các loại
tiền, tăng qui mô tài sản của những người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ tài
sản này là điều kiện để những người làm nghề đổi tiền có thể làm trung gian thanh
toán. Thanh toán qua trung gian làm nảy sinh nhu cầu thanh toán không dùng tiền
mặt và đến lượt nó những ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút
các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Như vậy trong điều kiện đồng tiền kim loại
được sử dụng trong lưu thông, các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán
hộ, vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi. Các chủ cửa hàng này gọi là những người
kinh doanh tiền tệ hay nhà buôn tiền.
Ban đầu, những nhà buôn tiền còn dùng vốn tự có của mình để cho vay
nhưng điều đó không kéo dài. Sau một thời gian hoạt động, họ nhận thấy rằng

thường xuyên có những người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra nhưng tất cả
những người gửi tiền không lấy tiền ra cùng một lúc. Điều này đã tạo ra một số
lượng tiền dư thường xuyên trong két. Lợi dụng tính chất vô danh của tiền, nhà
buôn tiền đã sử dụng tạm thời số dư tiền này để cho vay và thu lãi. Hoạt động này
làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền từ cho vay nặng lãi sang cho vay
dựa trên tiền gửi của khách hàng – Ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên số dư
tiền gửi của khách đã tạo ra lợi nhuận lớn cho ngân hàng nên các ngân hàng đều
tìm cách mở rộng thu hút các nguồn tiền gửi vào ngân hàng mình bằng cách trả lãi
cho người gửi tiền…
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngày nay, ngân hàng đã trở thành một tổ chức quan trọng trong nền kinh tế.
Các dịch vụ ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi cất giữ hộ của cải, trung
gian thanh toán, nhận tiền gửi và cho vay nữa, hoạt động của các ngân hàng đã đa
dạng hơn rất nhiều và đang dần dần mở rộng sang các lĩnh vực như cung cấp dịch
vụ bất động sản, môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động đầu tư vào quỹ hỗ
tương, bảo hiểm, bảo lãnh… và nhiều nghiệp vụ mới khác.
Có rất nhiều định nghĩa được đưa ra về ngân hàng nhưng cách định nghĩa
toàn diện nhất là dựa trên những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: Ngân hàng
là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất –
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.2. Lịch sử phát triển
Hình thức ngân hàng đầu tiên – ngân hàng của các thợ vàng – cho vay chủ
yếu là đối với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu có: Quan lại, địa chủ…
nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều ngân hàng lớn còn mở rộng cho vay tài
trợ một phần cho những chi tiêu cần dùng trong chiến tranh của các vua chúa.
Hình thức cho vay chủ yếu thời đó là thấu chi, có nghĩa là: cho phép khách hàng
chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng. Đây là một hình thức cho vay chứa rất
nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nên nhiều chủ ngân hàng đã phát

hành chứng chỉ tiền gửi khống (có giá trị lưu thông như vàng, bạc) để cho vay.
Khi xảy nhiều khách hàng gặp rủi ro, các ngân hàng cho vay theo hình thức này
gặp khó khăn về khả năng thanh toán và rơi vào tình trạng phá sản.
Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán và tác
động xấu đến hoạt động kinh doanh của các nhà buôn. Trước tình trạng đó, nhiều
nhà buôn đã góp vốn lại thành lập một ngân hàng của riêng mình với chức năng
chủ yếu là cho vay ngắn hạn và thanh toán hộ gắn liền với quá trình luân chuyển
của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân
hàng như: nhận tiền gửi, cho vay, cất trữ hộ và trung gian thanh toán. Tuy nhiên,
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng thương mại đã phát triển hơn các ngân hàng thợ vàng ở một điểm cơ
bản đó là: ngân hàng thương mại chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn dựa trên quá trình
luân chuyển của hàng hóa với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử
dụng tiền vay.
Sau một thời gian hoạt động, sự sụp đổ của nhiều ngân hàng thương mại đã
gây tổn thất lớn cho những người gửi tiền. Trong tình hình đó, các ngân hàng tiền
gửi đã xuất hiện. Ngân hàng này không cho vay, chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán
hộ để lấy phí. Đồng thời tại mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã
hình thành nhiều loại ngân hàng khác như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng trung ương… tạo nên hệ thống ngân hàng.
Trong hệ thống đó, ngân hàng trung ương làm chức năng xây dựng và quản lí
chính sách tiền tệ quốc gia còn các ngân hàng khác dù có một số nghiệp vụ khác
nhau nhưng đều có đặc điểm chung là thực hiện chức năng của một trung gian tài
chính thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến vượt bậc. Sự phát triển này thể hiện ở việc đa dạng hóa các loại
hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình

tích tụ và tập trung vốn trong các ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ
phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã
tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước …
Đến nay, các ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu
đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều
ngân hàng mở rộng sang cho vay tiêu dùng, cho thuê tài chính, kinh doanh chứng
khoán… Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú. Các loai tiền gửi
khác được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Công nghệ ngân
hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động của ngân hàng làm cho các hoạt
động này càng ngày càng đơn giản, dễ tiếp cận hơn đối với khách hàng. Thanh
toán điện tử đang dần dần thay thế thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và
dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng tại nhà đang tạo ra các tiện ích ngày càng
lớn cho cả khách hàng lẫn ngân hàng..
Trong quá trình phát triển, các ngân hàng không chỉ gia tăng về số lượng
dịch vụ mà còn phát triển cả về quy mô. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã
tạo ra các tập đoàn ngân hàng cực lớn với số vốn tự có lên tới hàng chục tỷ đô la
Mỹ, tổng tài sản đạt hàng trăm tỷ đô la Mỹ, đủ sức tài trợ cho những ngành công
nghiệp và dịch vụ mũi nhọn trên toàn cầu.
Trên thế giới hiện nay, các ngân hàng đang có xu thế liên kết, hợp tác với
nhau ngày càng chặt chẽ, thúc đẩy hình thành các hiệp hội, các tổ chức liên kết,
các ngân hàng đa quốc gia nhằm tạo ra các chính sách chung, hoặc tương thích để
kiểm soát chung, để kết nối và tạo ra sự thống nhất trong điều hành và vận hành
hệ thống ngân hàng trong mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Cùng với những bước phát triển thăng trầm của nền kinh tế thế giới. Trong
lịch sử phát triển của ngân hàng cũng đã xảy ra không ít những cuộc khủng hoảng.
Những cuộc khủng hoảng này dù lớn hay nhỏ cũng gây ra những tác động xấu đến
nền kinh tế và chính trị cho một quốc gia, một khu vực hay thậm chí cho cả thế

giới. Tuy nhiên cũng từ những cuộc khủng hoảng đó mà các nhà quản lý đã rút ra
được nhiều bài học quý báu giúp cho sự phát triển ổn định của ngành ngân hàng
trong tương lai.
2. Các dịch vụ ngân hàng
Trải qua hàng trăm năm phát triển, đến nay hoạt động của các ngân hàng
ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn. Mặc dù vậy, các nghiệp vụ truyền thống
của ngân hàng vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với ngân hàng và đang
tồn tại phát triển song song với các dịch vụ hiện đại khác.
2.1. Các dịch vụ truyền thống
 Thực hiện mua bán, trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một
trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ-
một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một loại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao
đổi đó rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và
thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố mà họ
đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các
ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi
ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
 Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: Ngay ở thời kì đầu,
các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các
doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của
khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết
khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có
vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
 Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các
ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong
những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng-
một quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần

nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao.
Trong lịch sử đã có mức kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp
đã trả mức lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục
đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay
gấp ba lãi suất tiết kịêm.
 Bảo quản, cất giữ hộ vật có giá: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân
hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách
hàng trong những kho bảo quản chắc chắn của mình. Những giấy chứng
nhận do ngân hàng ký phát - ghi nhận về các tài sản của khách hàng đang
được ngân hàng lưu giữ - có thể có giá trị lưu hành như tiền. Đó là hình thức
đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá
vẫn được các ngân hàng cung cấp cho khách hàng và thưòng do phòng “Bảo
quản” của ngân hàng thực hiện.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thanh toán: Cuộc cách mạng
công nghiệp ở Châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động
và dịch vụ ngân hàng mới. Một trong những dịch vụ mới quan trọng nhất
được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch - một tài
khoản tiền gửi cho phép người gửi tiết kiệm có thể viết séc thanh toán cho
việc mua hàng hóa, dịch vụ. Đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này đánh dấu
một bước đi quan trọng nhất trong ngành ngân hàng vì nó đã cải thiện đáng
kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở
nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn. Ngày nay, với sự phát
triển không ngừng của hệ thống ngân hàng, các phương thức thanh toán của
ngân hàng không còn giới hạn trong một quốc gia nữa mà đã mở rộng ra
phạm vi quốc tế với các dịch vụ đa dạng như: nhờ thu, phát hành L/C,
chuyển tiền quốc tế…
 Cung cấp dịch vụ ủy thác: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực
hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh

nghiệp thương mại và thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô vốn họ
quản lý. Dịch vụ này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hiện nay ngân hàng đang
cung cấp hai loại dịch vụ ủy thác là: ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ
gia đình và dịch vụ ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Dịch vụ ủy thác cá nhân giúp khách hàng thực hiện việc tiết kiệm các
khoản tiền cho các mục đích riêng trong tương lai. Khách hàng gửi tại ngân
hàng một số tiền nhất định, ngân hàng sẽ thay khách hàng quản lý và đầu tư
khoản tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Trong ủy thác thương mại, ngân
hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền lương cho các
công ty kinh doanh. Ngân hàng còn đóng vai trò đại lý cho các công ty này
trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Ở các nước phát triển, dịch
vụ ủy thác là một dịch vụ đem lại nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng thương
mại.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ: Khả năng huy động và cho
vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã gây chú ý cho các Chính phủ. Do
nhu cầu chi tiêu lớn (chi cho chiến tranh, cứu trợ thiên tai…) và thường là
cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với
các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp
phép và kiểm soát các hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng được cấp
phép hoạt động với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện các chính sách của
Chính phủ ở một mức độ nào đó và phải tài trợ cho Chính phủ. (Thường là
các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên
tổng lượng tiền gửi mà các ngân hàng huy động được)
2.2. Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Dưới sự tác động của môi trường kinh tế - xã hội, của khoa học kĩ thuật…
Các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Ngày nay, các ngân
hàng không chỉ cung cấp các dịch vụ truyền thống của mình mà đã phát triển thêm
nhiều dịch vụ mới…

Một số yếu tố có tác động mạnh mẽ đế các hoạt động ngân hàng ngày nay:
 Sự gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng: để tăng lợi nhuận của
mình, các ngân hàng đã không ngừng nghiên cứu, đưa vào các dịch vụ mới
để thu hút khách hàng. Quá trình mở rộng các dịch vụ đã thực sự gia tăng từ
những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác và đặc biệt là từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của
khách hàng. Việc đưa vào triển khai các dịch vụ mới đã làm gia tăng chi phí
hoạt động của ngân hàng, dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn. Tuy nhiên các dịch
vụ mới này cũng có những ảnh hưởng tốt đến ngành ngân hàng thông qua
việc tạo ra những nguồn thu mới: các khoản lệ phí khi thực hiện dịch vụ -
đây là một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu
truyền thống từ lãi.
 Sự phi quản lý hóa của chính phủ: sự giảm bớt sức mạnh kiểm soát
của chính phủ cũng là một yếu tố thúc đẩy sự cạnh tranh và quá trình mở
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rộng dịch vụ vủa ngân hàng. Điều này bắt đầu từ những năm 80 ở Mỹ và đã
lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi đầu, chính phủ nâng lãi suất trần đối
với tiết kiệm nhằm giúp công chúng có thu nhập khá hơn từ khoản tiết kiệm
của mình. Việc làm này của chính phủ đã tạo ra sự cạnh tranh mới giứa ngân
hàng và các đối thủ chính của nó như hiệp hội tín dụng và cho vay, các công
ty dịch vụ tài chính… Cả hai bên đều đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới có
thể đem lại cho khách hàng nhiều lợi nhuận hơn. Sự nới lỏng luật lệ kết hợp
với gia tăng cạnh tranh đã làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản
tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Các ngân hàng phải trả lãi nhiều
hơn để có thể chiến thắng đối thủ cạnh tranh trong việc huy động vốn. Thêm
vào đó, chính phủ còn yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều
hơn để tài trợ cho tài sản của mình. Trước tình hình đó, các ngân hàng buộc
phải tìm cách cắt giảm các chị phí hoạt động khác như cắt giảm nhân công,
thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại… Đồng thời

tìm ra cách huy động các nguồn vốn mới bằng cách cung cấp thêm các tiện
ích cho người gửi tiền.
 Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Sự phát triển không ngừng của
khoa học kỹ thuật đã thực sự làm thay đổi bộ mặt của ngân hàng. Từ nhiều
năm nay, các ngân hàng đã đẩy mạnh việc ứng dụng các công nghệ mới, hiện
đại vào hoạt động của mình. Nhờ đó mà hoạt động của ngân hàng càng ngày
càng trở nên nhanh chóng, an toàn và đáng tin cậy hơn. Một ứng dụng nổi
bật của việc ứng dụng khoa học công nghệ vào ngân hàng là: các máy rút
tiền tự động ATM. Các máy rút tiền này cho phép khách hàng tiếp cận với
tài khoản của mình vào bất cứ lúc nào trong ngày mà không phải đến ngân
hàng… Ngoài ra, với hệ thống máy vi tính hiện đại các ngân hàng có thể xử
lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới và cung cấp
cho khách hàng các tiện ích như: ngân hàng điện tử, ngân hàng tại nhà…
 Quá trình toàn cầu hóa ngân hàng: Để sử dụng hiệu quả quá trình tự
động hóa và những đổi mới công nghệ đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có quy mô lớn. Vì vậy, các ngân hàng đã không ngừng mở rộng phạm vi
hoạt động của mình để thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn. Kết quả của
những nỗ lực mở rộng đó là sự bành trướng về địa lý và hợp nhất các ngân
hàng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia đơn lẻ và lan rộng ra
với quy mô toàn cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn trên thế giới đang cạnh
tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Vào những năm 80, các ngân hàng
Nhật, dẫn đầu là Dai-I Kangyo Bank và Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn
hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn đặt trụ
sở tại Pháp, tại Đức và tại Anh cũng trở thành những đối thủ nặng ký trên thị
trường cho vay Chính phủ và cho vay công ty. Quá trình phi quản lý hóa đã
giúp tất cả các tổ chức này cạnh tranh hiệu quả hơn so với các ngân hàng Mỹ
và nắm được thị phần ngày càng tăng trên thị trường toàn cầu về dịch vụ
ngân hàng.

Một số dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây:
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, các dịch vụ của ngân
hàng cũng ngày càng được đa dạng hóa. Bên cạnh các dịch vụ truyền thống, ngày
nay các ngân hàng đang cung cấp thêm một số dịch vụ mới như:
 Cho vay tiêu dùng: Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không chú ý
đến việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho
vay tiêu dùng nói chung có quy mô nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do
đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Bắt đầu từ những năm đầu
thế kỉ 20, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng
để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Dưới áp lực cạnh tranh khốc
liệt giữa các ngân hàng với nhau, việc thu hút những khách hàng lớn trở nên
khó khăn hơn. Các ngân hàng buộc phải hướng đến người tiêu dùng như là
một đối tượng khách hàng tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930,
nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập
những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai,
tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng đạt mức
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tăng trưởng nhanh nhất. Thời gian gần đây, tốc độ tăng trưởng của tín dụng
tiêu dùng đã chậm lại do ngày càng có nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ
này. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân
hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất của ngân hàng.
 Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu
thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân
hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị
về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị
trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng của họ.
 Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng phát hiện ra rằng
một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng rất cần thiết cho các
khách hàng và họ đã đem những dịch vụ đó ra kinh doanh. Một ví dụ điển

hình về các dịch vụ kiểu này là dịch vụ Quản lý tiền mặt, trong đó, ngân
hàng quản lý việc thu và chi tiền mặt cho các doanh nghiệp đồng thời nó sử
dụng số tiền thặng dư để đầu tư tạm thời vào các chứng khoán sinh lời, các
khoản tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần.
Hiện nay dịch vụ quản lý tiền mặt không chỉ dành riêng cho các
doanh nghiệp, các tổ chức nữa mà đang dân dần hướng đến người tiêu dùng.
Khuyên hướng này đang lan rộng ra vì các công ty môi giới chứng khoán,
các tập đoàn tài chính khác cũng cung cấp cho khách hàng dịch vụ tài khoản
với hàng loạt dịch vụ tài chính có liên quan ví dụ như: mua bán chứng
khoán, viết séc, sử dụng thẻ tín dụng…
 Dịch vụ thuê mua thiết bị: hoạt động chủ yếu của ngân hàng là cho
vay để khách hàng mua tài sản. Tuy nhiên trong một số trường hợp, khách
hàng không đủ điều kiện để vay (hoặc không muốn vay). Để mở rộng tín
dụng, các ngân hàng thương mại đã mua hoặc thuê các tài sản để cho khách
hàng thuê. Khi hết hạn thuê, khách hàng quyền chọn mua lại tài sản hoặc
không. Tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ
được. Điều này đã làm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
Có hai hình thức cho thuê là: cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Cho
thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn, người đi thuê
không có dự định mua tài sản đó để sử dụng lâu dài sau khi thuê. Còn cho
thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài và người đi thuê có
quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê. Hoạt động cho thuê của các
ngân hàng thương mại hiện nay chủ yếu là cho thuê tài chính.
 Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán
bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo cho việc chi trả trong
trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Hiện nay, hình thức
bán bảo hiểm chủ yếu của các ngân hàng là liên kết với các hãng bảo hiểm .

Ngân hàng sẽ đóng vai trò là một người môi giới, với mỗi hợp đồng bảo
hiểm bán được (thường là những hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ô
tô, nhà cửa…) , ngân hàng sẽ được hưởng một khoản hoa hồng. Ngoài ra,
ngân hàng còn có thể thành lập ra các công ty con có chức năng kinh doanh
bảo hiểm. Ngân hàng cũng cung cấp các dịch vụ tiết kiệm gắn liền với bảo
hiểm như: tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí…
 Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: ngày nay, các
ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự,
cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi
nhu cầu tại một địa điểm. Để thực hiện mục tiêu này, các ngân hàng bắt đầu
cung cấp cho khách hàng của mình các dịch vụ môi giới chứng khoán, các cơ
hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ
đến người kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng thường làm điều này
bằng cách thành lập các công ty chứng khoán con hoặc liên kết với các công
ty chứng khoán đang hoạt động.
 Bảo lãnh: Các ngân hàng ngày nay thường dựa vào uy tín và khả
năng tài chính của mình để cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng. Bảo
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực
hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo
lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa
ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng là người được bảo lãnh; và người
hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
 Cung cấp các dịch vụ đại lý: Các ngân hàng trong quá trình hoạt động
không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi nhưng lại rất
muốn mở rộng phạm vi hoạt động của mình ra khắp thế giới. Để giải quyết
nhu cầu này, nhiều ngân hàng (thường là các ngân hàng lớn) đã cung cấp
dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác. Các ngân hàng đại lý sẽ

thực hiện các nghiệp vụ như: thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền
gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… cho các ngân hàng thuê đại
lý và thu phí làm dịch vụ đại lý của mình.
 Các dịch vụ thẻ
- Thẻ tín dụng (Credit Card) là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất
trên thế giới hiện nay. Theo đó người chủ thẻ được sử dụng một hạn mức tín
dụng không phải trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng đúng kỳ
hạn) để mua sắm hàng hóa dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận loại thẻ này.
Thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cho phép
người sử dụng có khả năng chi tiêu trước, trả tiền sau. Khoảng thời gian từ
khi thẻ được dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả
tiền cho ngân hàng có độ dài phụ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ
chức khác nhau. Thời gian này chủ thẻ được hoàn toàn miễn phí lãi đối với
số tiền phát sinh. Nếu hết thời gian miễn phí lãi này mà toàn bộ số tiền phát
sinh chưa được thanh toán cho ngân hàng thì chủ thẻ sẽ phải chịu những
khoản phí và lãi chậm trả. Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho
ngân hàng, hạn mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phục như ban đầu. Ngân
hàng phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bảo chi trả của từng khách hàng. Khả năng đảm bảo chi trả được xác định
dựa trên tổng hợp nhiều thông tin khác nhau như: thu nhập, tình hình chi
tiêu, mối quan hệ sẵn có đối với ngân hàng, địa vị xã hội của khách hàng…
Do đó, mỗi khách hàng có những hạn mức tín dụng khác nhau.
- Thẻ ghi nợ (Debit Card) là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn với
tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ. Để sử dụng loại thẻ này, chủ thẻ
phải có tài khoản hoạt động thường xuyên tại ngân hàng. Loại thẻ này khi rút
tiền tại các máy rút tiền tự động ATM hay mua hàng hóa dịch vụ tái các đơn
vị chấp nhận thẻ, giá trị những giao dịch sẽ được trừ ngay lập tức vào tài
khoản của chủ thẻ. Như vậy, người sử dụng thẻ này không phải lưu ký tiền

vào tài khoản đảm bảo thanh toán thẻ, căn cứ để thanh toán là số dư tài
khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng và hạn mức thanh toán tối
đa của thẻ do ngân hàng quy định.
Trong số các loại thẻ ghi nợ, thẻ ATM là hình thức phát triển đầu
tiên, nó cho phép chủ thẻ tiếp cận trực tiếp với tài khoản của mình tại ngân
hàng từ máy rút tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao dịch khác
nhau tại máy rút tiền tự động ATM, bao gồm: xem số dư tài khoản, chuyển
khoản, rút tiền, in sao kê…Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của chủ
thẻ ATM. Bằng cách nhập mã số cá nhân PIN, chủ thẻ có thể tiếp cận tài
khoản cá nhân của mình tại các máy rút tiền tự động 24/24h một ngày và 7
ngày trong tuần. Điều này có nghĩa là nhiều giao dịch được thực hiện ngoài
giờ làm việc của ngân hàng và các ngày nghỉ. Tuy nhiên, sử dụng thẻ ATM,
chủ thẻ chỉ có thể tiếp cận với tài khoản của mình từ những máy rút tiền tự
động. Đây là một hạn chế bởt tài khoản cá nhân chưa được tận dụng triệt để
trong thanh toán hàng hóa, dịch vụ.
- Thẻ trả trước(Prepaid Card) là loại thẻ mới được phát triển trên thế
giới, khách hàng không cần phải thực hiện các thủ tục phát hành thẻ theo yêu
cầu của ngân hàng như điền vào yêu cầu phát hành thẻ, chứng minh tài
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chính… họ chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền và sẽ được ngân hàng bán
cho một tấm thẻ với mệnh giá tương đương. Đặc tính của loại thẻ này giống
như mọi thẻ bình thường khác, chỉ có điều thẻ này chỉ được giới hạn trong số
tiền có trong thẻ và chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất định tùy vào
quy định của mỗi ngân hàng, tức là hạn mức của thẻ không có tính chất tuần
hoàn.
 Dịch vụ ngân hàng điện tử E-Banking: E-banking đang ngày càng
phát triển mạnh mẽ, tạo ra môi trường tài chính năng động, đã có hàng ngàn
cá nhân và các doanh nghiệp trên thế giới sử dụng các dịch vụ ngân hàng
điện tử mà không gặp bất kỳ một vấn đề nào. Ngân hàng điện tử bao gồm

hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ như chuyển tiền, thanh toán hoá đơn, rút
tiền ATM ... đã giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn thông qua
các hoạt động tự động của ngân hàng và các giao dịch điện tử với ngân hàng.
Dịch vụ này giúp các doanh nghiệp có thể kiểm soát tài chính của
mình tại nhà, văn phòng hoặc khi đi công tác chặt chẽ hơn. Kết quả là, ngân
hàng điện tử có thể giúp cá nhân và doanh nghiệp giảm được các chi phí
hành chính, nâng cao năng suất và quản lý tiền mặt tốt hơn- trong một môi
trường hoàn toàn an toàn.
- Các mô hình Ngân hàng điện tử:
• PC banking – là hình thức theo đó ngân hàng có thể cung cấp
phần mềm được cài đặt tại các văn phòng của người sử dụng. Sau đó người
sử dụng có thể truy cập tài khoản của mình thông qua modem và đường nối
điện thoại với ngân hàng. Đồng thời họ có thể chuyển tiền từ tài khoản vãng
lai sang tài khoản tiết kiệm của cùng một chủ tài khoản. Cách truy cập này
không cần thiết phải thông qua Internet.
• Internet Banking – Internet banking đóng một vai trò tích cực
hơn. Mỗi trang chủ của ngân hàng được coi là một cửa sổ giao dịch. Thông
qua trang chủ của ngân hàng, người sử dụng có thể truy cập tài khoản của
mình và các dịch vụ trực tuyến khác như mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư vào
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chứng khoán.... Mỗi lần nhấp chuột sẽ là một cơ hội để kinh doanh và đầu tư,
theo đó ngân hàng thay mặt khách hàng thanh toán và trừ các chi phí dịch vụ
thông qua tài khoản của họ tại ngân hàng.
Ngày nay, các dịch vụ ngân hàng đã trở nên ngày càng đa dạng, phong phú
và hướng tới mục tiêu tạo ra sự thuận lợi nhất cho khách hàng. Khách hàng có thể
hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu về dịch vụ tài chính của mình thông qua
một ngân hàng và tại một địa điểm. Các ngân hàng hiện đại đang giữ một vai trò
ngày càng quan trọng trong mỗi nền kinh tế.
3. Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại

Với các dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú, ngày nay các ngân hàng
đang giữ những vai trò hết sức quan trọng và không thể thay thế trong mỗi nền
kinh tế. Những vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại là:
 Vai trò trung gian tài chính: Thực hiện vai trò này, ngân hàng chuyển
các khoản tiết kiệm từ các hộ gia đình thành các khoản tín dụng cho các đơn
vị, tổ chức có nhu cầu về vốn để đầu tư. Trong nền kinh tế luôn có các cá
nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu
tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Bên cạnh
đó lại có những cá nhân và tổ chức có thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập
hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ
có tiền để tiết kiệm. Nếu việc cho vay tiền đem lại lợi ích cho cả 2 bên thì tất
yếu những người có tiền tiết kiệm sẽ đem tiền của mình cho những người cần
vốn vay. Tuy nhiên trong nền kinh tế để những người có tiền tiết kiệm và
những người có nhu cầu về vốn tự tìm đến được với nhau là rất khó khăn và
tốn kém. Để giải quyết điều này, các ngân hàng đã đứng ra làm trung gian môi
giới. Ngân hàng nhận tiền gửi của những người có tiền tiết kiệm với lãi suất là
a% và sẽ cho những người cần bổ sung vốn vay với lãi suất là b% (b<a). Phần
chênh lệch giữa a và b chính là thu nhập của ngân hàng. Như vậy cả người
cho vay và người đi vay đều đạt được mục đích của mình mà chỉ phải tốn ít
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chi phí cho trung gian (chi phí này nhỏ hơn chi phí mà 2 bên phải bỏ ra để tự
đi tìm đối tác cho mình) Sự xuất hiện của ngân hàng với vai trò trung gian tài
chính đã giúp cho việc phân phối các nguồn vốn trong nền kinh tế trở nên hiệu
quả hơn.
 Vai trò trung gian thanh toán: Ngày nay, ngân hàng trở thành trung
gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân
hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán
được nhanh chóng và thuận lợi, tiết kiệm chi phí, ngân hàng đã cung cấp cho
khách hàng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, thanh toán

bằng ủy nhiệm chi, các loại thẻ… Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với
nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc qua các trung tâm thanh toán.
Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử
dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại
qua ngân hàng thường được các nhà quản lý áp dụng rộng rãi. Nhiều hình
thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán
không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng
trên toàn thế giới.
 Vai trò tạo phương tiện thanh toán: Theo quan điểm hiện đại, đại lượng
tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (M
0
), thứ
hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại các ngân
hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì
hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng số tiền đó để mua hàng hóa dịch
vụ. Do đó, thông qua việc cho vay, các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh
toán (M
1
). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi
các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trên
cơ sỏ cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để
chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu của một khách hàng tại một ngân hàng khác.
Từ đó sẽ tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có
thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
CHƯƠNG 2
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TẠI VPBANK

1. Sự hình thành và phát triển của VPBank
VPBank tên đầy đủ là Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp
Ngoài quốc doanh Việt Nam được thành lập theo Giấy phép hoạt động số
0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8
năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày
04 tháng 9 năm 1993. Sau 13 năm hoạt động, trải qua nhiều khó khăn thử thách,
đến nay có thể nói VPBank đã bước đầu thành công trong việc xây dựng thương
hiệu của mình.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm:
 Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và
dân cư
 Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế
và dân cư
 Kinh doanh ngoại hối
 Dịch vụ Thanh toán quốc tế
 Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác
 Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền trong nước và Quốc tế
 Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ
ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam
Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu
phát triển,VPBank đã tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ VND theo quyết định số
193/QÐ-NH5 ngày 12/9/1994 và tiếp tục tăng lên 174,9 tỷ VND theo QÐ số
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
53/QÐ-NH5 vào ngày 18/3/1996 của NHNN. Đến cuối năm 2004, VPBank
nhận được quyết định số 689/NHNN -HAN7 của Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận cho VPBank được nâng vốn điều lệ lên 198,4 tỷ đồng. Trong quý I năm
2005, theo Công văn chấp thuận số 134/NHNN-HAN7 ngày 25/02/2005,
NHNN đã chấp thuận cho VPBank nâng vốn điều lệ lên 243,7 tỷ đồng. Hiện nay
số vốn điều lệ của VPBank đã là 500 tỷ đồng với 2 cổ đông chiến lược nước ngoài

là Quỹ đầu tư Dragon Capital và ngân hàng OCBC.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc
mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Tính
đến hết tháng 1 năm 2006, hệ thống VPBank có tổng cộng 31 điểm giao dịch gồm
có: Hội sở chính tại Hà Nội, 12 Chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành phố của đất
nước là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Ðà Nẵng, Cần Thơ,
Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc Giang, 14 chi nhánh cấp 2 và 4 Phòng Giao dịch.
Trong năm 2005 và 2006, VPBank dự kiến sẽ mở thêm khoảng 20 điểm giao dịch
mới tại các Tỉnh, Thành là trọng điểm kinh tế của cả nước.
Số lượng cán bộ, nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến cuối
năm 2005 là 782 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ Ðại
học và trên Ðại học (chiếm 87%). Với đội ngũ cán bộ, nhân viên năng động, nhiệt
tình và có trình độ nghiệp vụ cao, nguồn nhân lực của VPBank luôn được đánh giá
cao và sẽ là một trong những tiền đề cho sự phát triển của Ngân hàng trong tương
lai.
Năm 2000 đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển
của VPBank. Đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu chiến
lược của VPBank cho tới năm 2010 là xây dựng VPBank trở thành ngân hàng bán
lẻ hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Khách hàng tiềm năng quan trọng
nhất của VPBank sẽ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể và
phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của dân cư. Việc xác định lại mục tiêu chiến
lược nói trên là một quyết định táo bạo và kiên quyết của Hội đồng quản trị dựa
trên những phân tích khoa học xác đáng. Xác định lại chiến lược, nhằm vào các
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đối tượng khách hàng chính, VPBank thiết kế lại toàn bộ các sản phẩm của mình
và sắp xếp, chấn chỉnh lại toàn bộ bộ máy tổ chức để phục vụ tốt nhất nhu cầu của
khách hàng, đồng thời VPBank đã không ngừng cải tiến phong cách phục vụ, tích
cực nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa ra các sản phẩm dịch vụ đa dạng
và có tính cạnh tranh cao.

Một số chỉ tiêu về tài chính của VPBank từ năm 2001 - 2004
Các chỉ tiêu về tài sản
Đơn vị: Triệu VND
Các chỉ tiêu về tài sản (Đến 31/12) 2004 2003 2002 2001
Tổng Tài sản có 4.149288 2.491.867 1.476.468 1.292.696
Tiền huy động 3.872.813 2.192.945 1.183.074 921.750
Cho vay 1.865.364 1.525.212 1.103.426 852.910
Vốn cổ phần 198.409 174.900 174.900 174.900

Kết quả kinh doanh
Đơn vị: Triệu VND
Kết quả kinh doanh (Trong năm) 2004 2003 2002 2001
Tổng thu nhập hoạt động 286.170 187.325 93.562 85.899
Tổng chi phí hoạt động (226.092) (144.497) (72.998) (83.985)
Lợi nhuận trước thuế 60.078 42.828 20.564 1.914

Thực tế đã chứng minh rằng định hướng phát triển trở thành ngân hàng bán
lẻ của VPBank là hoàn toàn đúng đắn. Năm 2005 VPBank đã chính thức thoát
khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng kéo dài (1997
– 2004), VPBank đã vươn lên khẳng định được mình với uy tín thương hiệu ngày
càng vững mạnh, tình hình tài chính lành mạnh và chất lượng hoạt động được
kiểm soát tốt. Kết thúc năm tài chính 2005, tỷ lể chia cổ tức của VPBank đạt 20%.
Có thể nói VPBank đang hoàn thiện trên từng bước tiến của mình.
Năm 2006, VPBank tiếp tục kiên trì đường lối cải tổ toàn diện đã đặt ra,
nhất quán thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ, phấn đấu đạt mức tăng trưởng về
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mọi mặt năm sau cao hơn năm trước. Một trong những giải pháp quan trọng là
phải nâng cao được sức cạnh tranh của Ngân hàng đồng thời phấn đấu hết sức
mình để phục vụ Khách hàng tốt hơn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã

hội của đất nước.
2. Phát triển dịch vụ ngân hàng tại VPBank
Việc định hướng phát triển thành các ngân hàng bán lẻ đã là một hướng đi
phổ biến đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên theo
ông Lê Đắc Sơn, Tổng giám đốc ngân hàng VPBank, để thực hiện thực sự đúng
chiến lược ngân hàng bán lẻ là điều không dễ. Khác với nhiều nước (đây là mảng
thị trường mang lại lợi nhuận bền vững cho các ngân hàng), ở Việt Nam, cho dù
có bền vững và an toàn, nhưng do mới phát triển, nên lợi nhuận thu về từ các
khách hàng trên còn thấp. Đây là lý do khiến nhiều ngân hàng ngoài việc định
hướng trở thành bán lẻ, vẫn phải nhắm tới các dự án lớn để đáp ứng yêu cầu lợi
nhuận. Cũng theo ông Sơn, các khách hàng của một ngân hàng bán lẻ rất đa dạng,
do đó nhu cầu tài chính cũng đa dạng từ tín dụng, thanh toán đến các dịch vụ thẻ,
séc..., do đó một ngân hàng muốn thực sự là bán lẻ phải đa dạng hóa dịch vụ với
hệ thống nhân viên chăm sóc khách hàng tốt. Để thực hiện được mục tiêu này,
phải có sự đầu tư và cách làm cụ thể chứ không chỉ mang tính định hướng rồi vẫn
hoạt động trên “mọi mặt trận”. Hiện nay ở VPBank, ngoại trừ những khách hàng
truyền thống, những dự án mới vay vốn trên 15 tỷ đồng đều bị từ chối. Điều này
cho thấy, VPBank đang muốn dồn lực phục vụ những đối tượng khách hàng mục
tiêu của mình, đồng thời hướng tới đầu tư cho hệ thống công nghệ để đa dạng hóa
dịch vụ.
Tại thời điểm này, hầu hết các ngân hàng vẫn hoạt động đa năng, mục tiêu
trở thành các ngân hàng bán lẻ hàng đầu đã được nêu ra, nhưng tất cả vẫn đang
trên đường đua tới mục tiêu đó. Với định hướng phát triển chiến lược là trở thành
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam vào năm 2010, VPBank đang không ngừng
phát triển và hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ của mình.
2.1. Sự phát triển các dịch vụ ngân hàng ở VPBank
Khi mới thành lập, khách hàng mục tiêu của VPBank chính là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động, ban lãnh đạo

của ngân hàng đã quyết định thay đổi chiến lược kinh doanh để thích hợp với tình
hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như điều kiện của ngân hàng. Bắt
đầu từ năm 2000, VPBank được định hướng phát triển trở thành một ngân hàng
bán lẻ. Để làm được điều này, VPBank đã phải thiết kế lại toàn bộ sản phẩm của
mình hướng tới mục tiêu phục vụ đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể và phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của dân
cư. Đến nay, sau hơn 5 năm phát triển các dịch vụ của mình, VPBank cũng đã thu
được những kết quả đáng khích lệ. Nhìn chung các sản phẩm mà VPBank đang
cung cấp cho khách hàng trong thời gian qua đã phát huy hiệu quả khá tốt. Đem
lại lợi nhuận tăng trưởng ổn định qua từng năm cho ngân hàng.
Để thực hiện mục tiêu chiến lược là trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng
đầu Việt Nam thì VPBank phải liên tục phát triển các sản phẩm dịch vụ của mình.
Phát triển ở đây không chỉ đơn thuần là đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng mà
còn phải làm sao cho các dịch vụ đó phát huy được hiệu quả tối đa và đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Muốn làm được điều đó, trước hết VPBank cần phải triển
khai thêm các dịch vụ mới để đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng, phức tạp
của khách hàng. Đồng thời cũng cần thông qua các kênh phân phối, các biện pháp
giới thiệu, quảng cáo để làm cho việc khách hàng tiếp cận với sản phẩm của ngân
hàng trở nên đơn giản và dễ dàng nhất.
Với dân số hơn 80 triệu người, Việt Nam là một trong những nền kinh tế
tăng trưởng nhanh nhất ở Châu Á, có tiềm năng lớn về ngân hàng bán lẻ. Dân số
VN trẻ và năng động, trong đó 75% lực lượng lao động là dưới 45 tuổi. Đây là
động lực chính của nền kinh tế trong nước. Việt Nam là nước có mức tăng trưởng
GDP vào loại cao nhất tại Châu Á, và có khả năng tiếp tục duy trì tốc độ tăng
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trưởng như vậy cho đến năm 2010. Với tốc độ phát triển kinh tế như vậy, mức tiết
kiệm và tiêu dùng trong nước cũng đã tăng lên. Tốc độ tăng trưởng tổng tiêu dùng
cá nhân hàng năm đạt mức 23%, cao nhất Châu Á. Tiền gửi tiết kiệm trong ngân
hàng cũng tăng ở tốc độ 28% mỗi năm. Những kết quả đó cho thấy thị trường

trong nước đang là thị trường rất tiềm năng cho VPBank phát triển các dịch vụ
ngân hàng của mình.
Quá trình phát triển các dịch vụ ngân hàng ở VPBank
Năm 2000, VPBank đã đưa vào triển khai các dịch vụ mới như cho vay trả
góp mua nhà – sửa chữa nhà ở, cho vay trả góp mua ô tô – xe máy. Các dịch vụ
này đã được khách hàng đánh giá cao nhờ có các ưu đãi về lãi suất và thủ tục xét
duyệt cho vay nhanh chóng. Kết quả đem lại là doanh số cho vay đạt 1.150,2 tỷ
đồng; Doanh số thu nợ là 1.085,3 tỷ đồng; Dư nợ tín dụng là 804,7 tỷ đồng, tăng
12% so với năm 1999.
Năm 2001, VPBank đã tập trung nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm mới
hấp dẫn khách hàng như: tiết kiệm an sinh, tiết kiệm trả lãi trước đồng thời thực
hiện cải tiến quy trình nghiệp vụ giao dịch, tăng cường công nghệ thông tin để
phục vụ khách hàng tốt hơn…Kết quả là năm 2001, tổng nguồn vốn hoạt động
của VPBank là 1.292,7 tỷ đồng, tăng 112.,2 tỷ đồng so với năm trước. Trong đó
tiền gửi và các khoản vay tăng 69,9 tỷ đồng so với năm 2000 và chiếm 74% tổng
nguồn vốn hoạt động. Hoạt động cho vay được chú trọng phát triển theo hướng
tăng cường cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. Trong đó,
cho vay tiêu dùng được coi là hướng quan trọng theo chiến lược Ngân hàng bán lẻ
mà Hội đồng Quản trị đã lựa chọn. Chính vì vậy, trong năm 2001, Ban điều hành
đã có nhiều chính sách trong việc thu hút khách hàng, đặc biệt là khách hàng vay
tiêu dùng, trả góp và cầm cố chứng từ có giá. Hướng đi này không những hạn chế
được rủi ro mà còn đảm bảo tạo cho ngân hàng một khoản thu nhập ổn định.
Doanh số cho vay năm 2001 đã đạt 920 tỷ đồng, trong đó cho vay ngắn hạn đạt
25

×