Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nâng cao tăng cường hiệu quả quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Ngân hàng thương mại – chi nhánh Agribank HàThành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.63 KB, 78 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chức năng trung gian tín dụng 2
Chức năng trung gian thanh toán 3
Chức năng tạo tiền 3
23
2.1.2.1. Bộ máy lãnh đạo: 24
Bộ máy lãnh đạo của chi nhánh bao gồm: 24
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng Thương mại
NHN
0
&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
PGD : Phòng giao dịch
TTQT : Thanh toán quốc tế
CBVC : Cán bộ viên chức
CBNV : Cán bộ nhân viên
HĐQT : Hội đồng quản trị
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
SƠ ĐỒ
Chức năng trung gian tín dụng 2
Chức năng trung gian thanh toán 3
Chức năng tạo tiền 3
23
2.1.2.1. Bộ máy lãnh đạo: 24


Bộ máy lãnh đạo của chi nhánh bao gồm: 24
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, thời kỳ đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “phát huy nội
lực bên trong, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài
giữ vai trò quan trọng”. Đồng thời, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế
đang diễn ra hết sức sôi động. Điều đó đồng nghĩa với sự cạnh tranh đã, đang và sẽ
diễn ra ngày càng khốc liệt trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng
nói riêng. Chính vì vậy, việc khai thông nguồn vốn đối với hoạt động huy động vốn
của các NHTM nói chung được đặt ra rất bức thiết. Các Ngân hàng hiện nay hoạt
động đòi hỏi phải có hiệu quả cao, vấn đề huy động vốn không chỉ được quan tâm
“từ đâu?” mà phải được tính đến “như thế nào?”, “bằng cách gì” để có hiệu quả
cao nhất, đáp ứng nhu cầu cho vay của Ngân hàng nhưng lại đòi hỏi chi phí thấp
nhất.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong hoạt động của
Ngân hàng. Với những kiến thức đã học và qua thực tế tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam – chi nhánh Hà Thành, em xin chọn đề tài
“Nâng cao tăng cường hiệu quả quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại
Ngân hàng thương mại – chi nhánh Agribank HàThành”.
Ngoài phần mở đầu, kết thúc chuyên đề được trình bày theo 3 chương.
Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức thực tế không nhiều, bài chuyên
đề của em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót nhất định. Rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo cùng các bạn để chuyên đề của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, cán bộ hướng dẫn chuyên
đề cùng toàn thể các anh chị trong Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
– chi nhánh Agribank Hà Thành đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực

tập và nghiên cứu viết chuyên đề này. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn ThS. Lê
Thu Thuỷ đã hướng dẫn và giúp đỡ em viết chuyên đề này.
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN
HUY ĐỘNG TỪ TIỀN GỬI TRONG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân NHTM và nguồn vốn của NHTM
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng vay tiền của người gửi và cho các
công ty và cá nhân vay lại. Tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản nợ.
Tiền cho công ty và cá nhân vay lại cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số
trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản có. Phần chênh lệch giữa số tiền huy
động được và số tiền đem cho vay, gửi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự
có. Phần tài sản có tính thanh khoản được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào
ngân hàng bị rút ra đột ngột gọi là tỷ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của
ngân hàng được chia làm hai loại: vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Vốn cấp 1, còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ cộng với
lợi nhuận không chia cộng với các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi
nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài
chính và quỹ đầu tư phát triển.
Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản
của tổ chức tín dụng, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái
phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và dự
phòng chung cho rủi ro tín dụng.
1.1.2. Chức năng của NHTM.
Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của

ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng
vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng
này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là
người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và
người đi vay.
Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực
hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi
của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM
cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu,
khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các
chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp
người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào
đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được
rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình
chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu
chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM.
Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát
triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình
đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền
được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và
chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng

số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng
để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử
dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM
đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh
toán, chi trả của xã hội.
1.1.3. Các nghiệp vụ của NHTM.
Với ý nghĩa là một tổ chức “kinh doanh tài chính”, ba chức năng cơ bản của
NHTM gồm: Chức năng trung gian tín dụng (trung gian thanh toán giữa các doanh
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
nghiệp trong nền kinh tế); Chức năng tạo tiền (sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng
khối tiền tệ cho nền kinh tế); Chức năng sản xuất (huy động và sử dụng các nguồn
lực để tạo ra sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế). Ba chức
năng trên được cụ thể hoá trong ba nghiệp vụ chính của NHTM trong nền kinh tế
như sau: Nghiệp vụ huy động vốn, Nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ khác.
a, Nghiệp vụ huy động vốn:
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
Ngân hàng thương mại, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Đây là
hoạt động tạo nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện những nghiệp vụ khác như
cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác cho khách hàng. Huy động
các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là nền tảng quan trong nhất cho
sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của hệ
thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong bối cảnh kinh tế đầy biến động đã
khiến cho việc tìm kiếm nguồn vốn cho hoạt động của ngân hàng thương mại phải
đối đầu với sự cạnh tranh khốc liệt. Trước mắt các ngân hàng đặc biệt là ở các nước
phát đang triển luôn luôn xuất hiện vấn đề là làm thế nào để có đủ vốn đầu tư giữa
môi trường cạnh tranh đầy kịch tính. Về cơ bản các hình thức huy động vốn của
ngân hàng gồm có:

Nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được thống đốc Ngân hàng
Nhà nước chấp nhận.
Nhận tiền gửi của các tổ chức tài chính khác , gồm có: Nhận tiền gửi của các
tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước
ngoài; nhận nguồn tiền gửi ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
b, Nghiệp vụ sử dụng vốn:
Các nguồn vốn sau khi huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử
dụng vào các mục đích khác nhau với nguyên tắc dự trữ một phần dưới dạng tiền,
bao gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán. Phần còn lại được sử dụng vào các
nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Như
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
vậy, nghiệp vụ sử dụng vốn là những nghiệp vụ thực hiện sử dụng những khoản vốn
đã huy động nhằm mục đích sinh lời bao gồm hai hoạt động chủ yếu là cho vay và
đầu tư; ngoài ra còn có hoạt động bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá, hoạt động cho
thuê tài chính, góp vốn liên doanh…
Cho vay là một chức năng nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân hàng
thương mại. Bản chất của cho vay là ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng đối với
một lượng vốn nhất định trong khoảng thời gian xác định cho một bên thứ hai để
thu lãi. Đây là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Nghiệp vụ cho
vay được phân loại theo nhiều tiêu thức, căn cứ vào kỳ hạn cho vay thì bao gồm cho
vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; căn cứ vào đối tượng khách hàng thì cho vay bao
gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay nông nghiệp và cho vay tiêu dùng. Hiện nay
các ngân hàng đang rất chú trọng phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng.
c, Các nghiệp vụ khác: Ngoài hai nghiệp kinh doanh chính là huy động vốn

và sử dụng vốn, ngân hàng thương mại còn thực hiện một số nghiệp vụ sinh lời
khác như tham gia mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ; kinh doanh vàng bạc,
ngoại tệ; uỷ thác và nhận uỷ thác; cung ứng các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính,
bảo quản vật quý giá,… Những nghiệp vụ này có vai trò đa dạng hoá các loại hình
sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng,
tạo ra sự năng động trong hoạt động ngân hàng đồng thời đem lại nguồn thu đáng
kể để ngân hàng duy trì và phát triển quy mô.
1.1.4.Vốn và nguồn vốn của ngân hàng thương mại .
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy
động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng. Nguồn vốn của
NHTM bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các nguồn vốn khác.
1.1.5. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM là mà lượng tiền mà
ngân hàng phải có để hoạt động, là nguồn vốn riêng của ngân hàng do chủ sở hữu
đóng góp ( đối với NHTM cổ phần, NHTM góp vốn liên doanh ), do nhà nước cấp (
đối với NHTM nhà nước ) và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới
dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm nhiều loại khác
nhau và được phân thành vốn cấp một và vốn cấp hai.
Vốn cấp 1 gồm: Vốn điều lệ, thặng dư vốn cổ phần, các quỹ dự trữ ( Quỹ dự
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
trữ bổ sung vốn điều lệ, Quỹ dự phòng tài chính…)
Vốn cấp 2 gồm: Một số tài sản nợ khác như chênh lệch do đánh giá lại tài
sản, chênh lệch tỷ giá, vốn đầu tư xây dựng mua sắm do Nhà nước cấp, Lợi nhuận
chưa phân chia cho các quỹ.
Vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM (chiếm 8%
-10%)
Trong đó: Vốn cấp một (vốn cơ bản) được xem là sức mạnh và tiềm lực thực
sự của ngân hàng; vốn cấp hai (vốn bổ sung) được giới hạn tối đa bằng 100% vốn

cấp một.
Vốn chủ sở hữu của một NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các
hoạt động và đảm bảo cho ngân hàng phát triển lâu dài.
Thứ nhất, nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong hoạt đông kinh của các
NHTM, nguồn vốn của NHTM lớn và có tính ổn định cao sẽ giúp ngân hàng có tính
thanh khoản cao và chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh. Sự ổn định của
nguồn vốn có thê coi là yếu tố quan trọng. Nguồn vốn huy động của ngân hàng bao
gồm nguồn không kỳ hạn và nguồn có kỳ hạn. Nguồn có kỳ hạn có tính ổn đinh cao
hơn, nguồn không kỳ hạn không ổn định và thường có biến động trước những diễn
biến của thị trường tài chính.
Thứ hai, vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức
hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên.
Thứ ba, vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ
(gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải
đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng
các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Thứ tư, vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của
các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới.
Cuối cùng, vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp
đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định lâu dài.
Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn ngân
hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay
và những tài sản rủi ro khác. Do đó, “tấm đệm” dùng để chống đỡ những thua lỗ
cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. Một
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
ngân hàng mở rộng quá nhanh hoạt động huy động vốn và cho vay sẽ nhận được
những dấu hiệu của thị trường và của các cơ quan quản lý yêu cầu kiềm chế tốc độ
tăng trưởng hoặc ngân hàng cần phải bổ sung thêm vốn.

1.1.6. Vốn huy động
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu có tỷ trọng lớn (trên 80%) trong toàn bộ
vốn kinh doanh của NHTM. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí và
khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn này có xu hướng ngày
càng gia tăng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, trong điều kiện tái cơ
cấu và nâng cao chất lượng phục vụ của ngân hàng. NHTM huy động vốn dưới hình
thức tiền tệ (nội tệ và ngoại tệ) và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: vốn
huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá.
Vốn huy động từ tiền gửi ngày nay cũng rất đa dạng để phục vụ cho lựa chọn
của khách hàng với kỳ hạn và phương thức gửi tiền khác nhau. Mỗi công cụ huy
động tiền gửi mà các ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho
chúng phù hợp hơn với mục tiêu riêng có của từng đối tượng khách hàng. Cụ thể sẽ
được trình bày trong phần sau.
Vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá là nguồn vốn mà NHTM có
được bằng việc phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu
ngân hàng, các chứng chỉ tiền gửi,… Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng
và chứng chỉ tiền gửi là các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hay
phần thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh
đầu tư của người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư
trực tiếp. Các kỳ phiếu, trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi
cần thiết bằng cách bán, chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại
ngân hàng.
Với việc phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn, ngân hàng có khả năng
tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong
sử dụng. Hình thức này thường được thực hiện khi ngân hàng đã tiếp nhận được
những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng hay sau khi
đã cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong toàn hệ thống mà vẫn còn thiếu và
nhận sự đồng ý của Thống đốc ngân hàng Nhà nước
1.1.7. Nguồn tiền gửi của các tổ chức tín dụng.
Trong quá trình kinh doanh của các NHTM luôn có tình trạng tạm thời thừa

SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
vốn hay thiếu vốn, đó là khi huy động vốn nhưng chưa sử dụng hết hay khi nhu cầu sử
dụng vốn lớn hoặc khách hàng rút tiền trước hạn trong khi nguồn vốn cho vay chưa kịp
thu hồi. Khi đó các NHTM có thể nhận nguồn vốn của các tổ chức tài chính khác dưới
hình thức hợp đồng tiền gửi ký kết giữa ngân hàng với các tổ chức tài chính khác.
Trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, nguồn vốn nhận từ các tổ chức tài chính
khác là khoản mục đứng thứ hai bên tài sản nợ sau nguồn vốn huy động.
Trong môi trường cạnh tranh nhu hiện nay việc huy động nguồn vốn tư những
hợp đồng tiền gửi của các tổ chức tài chính và các tổ chức tín dụng là tương đối khó
khăn trong bối cánh nền kinh tế như hiện nay việc các tổ chức tín dụng và các tố
chức tìa chính thừa vốn kinh doanh là rất hiếm. Nguồn vốn này có được thường dựa
trên mối quan hệ lâu dài và tuơng trợ lẫn nhau trong những thời kỳ khó khăn về
nguồn vốn. Tuy nhiên một trở ngại lớn đối với nguồn vốn này là chi phí vốn – lãi
suất của các khoản tiền gửi này thường cao và thường dao động với biên độ lớn tuỳ
thuộc vào tình trạng tài chính của ngân hàng nhận gửi.
Chính vì vậy, ngân hàng thường dùng tới nguồn vốn này trong những trường
hợp lãi xuất thấp, chênh lệch thu chi khi nhận nguồn vốn này lớn dương. Nguồn
vốn này sau khi nhận thường được điều chuyển ngay về hội trụ sở chính. Hoạt động
kinh doanh, nhận nguồn của các TCTD khác. là hoạt động của phòng kinh doanh.
1.1.8. Các nguồn vốn khác
Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình
từ nhiều nguồn khác như vốn trong thanh toán, vốn tài trợ uỷ thác đầu tư của Chính
phủ hoặc của các tổ chức trong và ngoài nước cho các chương trình, dự án phát
triển kinh tế, văn hoá xã hội.
Nguồn vốn từ tiền gửi không kỳ hạn dùng để thanh toán của các tổ chức và cá
nhân trong nền kinh tế là số vốn có được do ngân hàng làm trung gian thanh toán
trong nền kinh tế. Nguồn vốn này do các tổ chức cá nhân mở tài khoản thanh toán
tại ngân hàng để phụ vụ mục đích thanh toan toán trong hoạt động kinh doanh

thuơng mại và đầu tư, nếu ngân hàng thu hút được nhiều tổ chức cá nhân mở tài
khoán thanh toán thì nguồn vốn không kỳ hạn sẽ tăng.
Nguỗn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư là nguồn vốn mà ngân hàng có được do làm
đại lý nhận uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho
những chương trình, dự án. Trong thời gian vốn đã được ngân hàng tiếp nhận nhưng
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
chưa giải ngân hết theo kế hoạch, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến
hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, ngân hàng có được một số vốn để kinh doanh. Mặt
khác khi thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng còn được hưởng phí hoa hồng .
Ngoài ra ngân hàng còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh
nghiệp cũng như thu hộ lợi tức từ đầu tư chứng khoán cho khách hàng… Những
nguồn vốn này có thể không nhiều và thời gian sử dụng đôi khi rất ngắn nhưng điều
quan trọng là nguồn vốn này ngân hàng không phải tốn kém chi phí huy động mà
lại có điều kiện phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng khác, phục vụ tốt
nhất nhu cầu của khách hàng.
1.2. Hiệu quả quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi của NHTM
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi của
NHTM.
Quản trị tổ chức là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra các
nguồn lực và hoạt động của tổ chức nhằm đạt được mục đích của tổ chức với kết
quả và hiệu quả cao trong điều kiện môi trường luôn biến động.
Quản trị doanh nghiệp là sự tác động của chủ thể quản trị tới đối tượng quản
trị (tập thể người lao động) để tổ chức phối hợp hoạt động của họ trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quản trị sản xuất bao gồm các hoạt động: sắp xếp, bố trí các yếu tố đầu vào
theo một thể thức, quan hệ hợp lý nào đó, đến các việc tiếp theo như tổ chức các
quá trình phối hợp hoạt động của các yếu tố, bộ phận trong quá trình sản xuất có
hiệu quả

Quản trị hoạt động khoa học - kỹ thuật và công nghệ là việc sử dụng một hệ
thống các biện pháp để bố trí, phối hợp và thực hiện có hiệu quả nhất các yếu tố
khoa học - kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất kinh doanh.
Quản trị nhân lực trong doanh nghiệp là quá trình tổ chức, khai thác, bảo vể và
phát triển nguồn tài nguyên nhân lực trong doanh nghiệp.
Quản trị tài chính là việc lựa chọn và đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức
thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động tài chính của doanh
nghiệp, đó là tối đa hóa lợi nhuận, không ngừng làm tăng giá trị doanh nghiệp và
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Có quan niệm lại cho rằng: Quản trị tài chính bao gồm các hoạt động làm cho
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
luồng tiền tệ của doanh nghiệp phù hợp trực tiếp với các kế hoạch, hoạt động của
doanh nghiệp.
Có nhiều khái niệm khác nhau về quản trị nhưng trong phạm vi đề tài nghiêm
cứu này có thể hiểu “Quản trị là những biện pháp tác động của chủ thể quản lý
lên đối tượng bị quản trị, nhằm đạt được những mục tiêu nhất định theo yêu cầu
của cơ quan quản lý”. Như vậy, quản trị có phạm vi hoạt động lớn và mang những
đặc điểm chung:
Thứ nhất, chỉ tồn tại quản trị khi có một hệ quản trị bao gồm hai phân hệ: chủ
thể và đối tượng bị quản trị. Chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra các tác động quản trị
nhằm dẫn dắt đối tượng quản trị đi đến mục tiêu dự định. Đối tượng quản trị tiếp
nhận các tác động của chủ thể quản trị để thực hiện những mục tiêu đó.
Thứ hai, phải có một hoặc một tập hợp mục đích thống nhất cho cả chủ thể và
đối tượng quản trị. Lý do tồn tại của quản trị là đạt mục đích theo cách tốt nhất
trong hoàn cảnh môi trường luôn biến động và nguồn lực hạn chế. Thứ ba, quản
trị bao giờ cũng phải liên quan đến việc trao đổi thông tin nhiều chiều. Hoạt động
quản trị suy cho cùng là quá trình thu thập và xử lý thông tin.
Thứ tư, quản trị bao giờ cũng có khả năng thích nghi. Đứng trước những thay

đổi của đối tượng quản trị cũng như môi trường cả về quy mô và mức độ phức tạp,
chủ thể quản trị phải có những điều chỉnh, đổi mới cơ cấu, phương pháp, công cụ và
hoạt động của mình để đạt được hiệu quả hoạt động.
Với những đặc điểm trên có thể khẳng định rằng quản trị là một quá trình năng
động. Khi nghiên cứu về quản trị tổ chức, các nhà nghiên cứu thường xem xét trên
hai phương diện cơ bản: tổ chức - kỹ thuật và kinh tế - xã hội. Trong đó, phương
diện tổ chức - kỹ thuật của quản lý tổ chức giúp chúng ta trả lời các câu hỏi: Quản
trị là làm gì? Đâu là đối tượng chủ yếu của quản trị ? Quản trị được tiến hành khi
nào? Và mục đích của quản trị tổ chức ra sao?
Trả lời cho câu hỏi Quản trị là làm gì ? đem lại kết luận về quy trình quản lý
thống nhất ở mọi tổ chức bao gồm: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Lập
kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu và những phương thức hành động thích
hợp để đạt mục tiêu; tổ chức là quá trình xây dựng và bảo đảm những hình thái cơ
cấu nhất định để đạt mục tiêu; lãnh đạo là quá trình chỉ đạo và thúc đẩy các thành
viên làm việc một cách tốt nhất vì lợi ích của tổ chức; kiểm tra là quá trình giám sát
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
và chấn chỉnh các hoạt động để đảm bảo việc thực hiện theo các kế hoạch. Đây
cũng chính là những chức năng cơ bản chung nhất đối với mọi nhà quản lý không
phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và môi trường xã hội.
Chúng ta áp dụng quy trình này vào công tác quản trị nguồn vốn tại ngân hàng
thương mại.
1.2.2. Quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi.
Quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi là một hoạt động mà tất cả các ngân
hàng thương mại đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là:
Lập kế hoạch huy động vốn: Việc lập ra kế hoạch là hết sức quan trong nó
mang tính chiến lược trong hoạt động quản trị nguồn vốn, lập kế hoạch tốt phân tích
được những khó khăn và những thuận lợi sẽ giúp cho nhà quản trị chủ động hơn
trong hoạt động điều hành.

Tổ chức triển khai các kế hoạch huy động vốn : Khi kế hoạch đã được hoạch
định việc tổ chức triển khai kế hoạch cùng quan trong không kém. Bởi lẽ khi triển
khai kế hoạch sẽ phát sinh những thuận lợi, khó khăn khác nhau vì vậy việc tổ chức
thực hiện phải theo 1 kế hoạch đồng bộ và mang tính linh hoạt cao có như thế mới
đạt được hiệu quả.
Chỉ đạo thực hiện việc huy động vốn: Việc chỉ đạo thực hiện huy động vốn thể
hiện rõ ràng nhất vai trò của nhà quản trị, trong hoạt động quản trị nguồn vốn. Khi
đã lập nên một kế hoạch tốt một phương án hiệu quả mà việc chỉ đạo thực hiện chưa
được tốt thì đẫn tới hiệu quả của kế hoạch đã đưa ra cũng sẽ không hoàn hảo và đạt
được hiệu quả cao nhất.
Điều chỉnh và kiểm soát quá trình sử dụng vốn : Nhằm đánh giá lại kết quả
hoạt động tránh sảy ra những rủi ro, sai sót say ra trong quá trình thực hiệkế hoạch.
Tóm lại quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi chính là thực hiện kế hoạch,
tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
1.2.2.1. Tiền gửi của NHTM
Huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi là hình thức huy động cổ điển và
mang tính đặc thù riêng của hoạt động ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên
bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác.
Do nhu cầu và động thái gửi tiền của khách hàng rất đa dạng nên để thu hút được
nhiều khách hàng gửi tiền, các ngân hàng phải thiết kế và phát triển nhiều loại sản
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
phẩm tiền gửi khác nhau.
Phân loại tiền gửi theo đối tượng khách hàng: gồm tiền gửi của cá nhân, tiền
gửi của doanh nghiệp và tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác.
Tiền gửi của cá nhân
Khách hàng cá nhân chiếm đa số trong đối tượng hoạt động của ngân hàng.
Chính vì vậy các hoạt động dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nhóm khách hàng
này rất đa dạng cả trong lĩnh vực huy động vốn và cho vay. Với mục đích gửi tiền

chủ yếu là tiết kiệm, bảo quản và hưởng lãi, nhóm khách hàng cá nhân đã đem lại
cho ngân hàng một lượng vốn đáng kể với số tiền nhàn rỗi của mình. Bên cạnh đó,
vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của khách hàng cá nhân thường khá ổn định giúp
thuận lợi cho ngân hàng trong việc lập kế hoạch sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Tiền gửi của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế là khách hàng thường xuyên của các
ngân hàng thương mại nhất là trong việc ký kết những hợp đồng kinh tế lớn, đối với
hoạt động huy động vốn, đây cũng là nhóm khách hàng có vai trò quan trọng.
Lượng vốn huy động từ đối tượng khách hàng này cũng đóng góp một phần
không nhỏ vào nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên khoản vốn này thường chỉ lưu
lại ngân hàng trong ngắn hạn để phục vụ cho hoạt động thanh toán cũng như tiến
hành các giao dịch khác của doanh nghiệp mà ngân hàng có vai trò là trung gian
thanh toán nên khó khăn hơn cho ngân hàng trong việc chủ động sử dụng thời gian
nhàn rỗi của các khoản tiền gửi này cho các hoạt động đầu tư sinh lời. Tuy nhiên
không phải các doanh nghiệp chỉ gửi tiền phục vụ cho mục đích thanh toán, các
doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn gửi tiền có kỳ hạn để hưởng lãi, khi đó đây sẽ là
nguồn vốn không nhỏ mà lại tương đối ổn định.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác thực chất là vốn vay của ngân hàng
thương mại đối với các tổ chức đó nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân
hàng. Đây cũng có thể là vốn góp đồng tài trợ cho vay hoặc chiết khấu mà ngân
hàng nhận vốn góp đóng vai trò ngân hàng đầu mối. Nguồn tiền này giúp ngân hàng
giảm bớt một phần chi phí huy động vốn để có cơ hội sử dụng vốn với mục đích
đem lại lợi nhuận cao hơn.
Phân loại tiền gửi theo mục đích huy động: Đây là cách phân loại được sử
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
dụng một cách truyền thống và rõ ràng hơn. Dựa vào mục đích của khách hàng gửi
tiền có thể chia thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.

Tiền gửi thanh toán
Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là
nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Tiền gửi thanh toán là
hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại bằng cách mở cho khách hàng
tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng
khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng
bằng các lệnh rút tiền đòi hỏi được thực hiện ngay lập tức trong đó có quy định rõ
đối tượng thụ hưởng.
Để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng đòi hỏi khách hàng
phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng, số dư trên tài khoản này cho biết
khả năng thanh toán và chi trả của khách hàng và có thể thực hiện ở bất kỳ thời
điểm nào theo yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên không phải lúc nào khách hàng
cũng sử dụng hết số dư trên tài khoản tiền gửi của mình để thực hiện các hoạt động
giao dịch, đôi khi số dư này tạm thời nhàn rỗi cho đến khi khách hàng phát sinh nhu
cầu thanh toán. Trong khoảng thời gian đó, số dư này trở thành nguồn vốn của ngân
hàng, ngân hàng có thể sử dụng cho các hoạt động sinh lời của mình. Nhưng đây là
loại tiền gửi không kỳ hạn và khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào gây khó
khăn cho ngân hàng trong việc chủ động kế hoạch sử dụng vốn, ngân hàng thường
mất chi phí quản lý lớn hơn so với các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Chính vì vậy, đối
với tiền gửi thanh toán, ngân hàng chỉ trả lãi suất rất thấp (khoảng 0,2%/tháng) hay
thậm chí không trả lãi.
Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi của từng khách hàng thường không lớn nhưng
do là trung tâm tiền tệ và cung cấp các dịch vụ thanh toán nên tại các ngân hàng
thương mại, số lượng khách hàng rất đông khiến cho tổng số vốn huy động qua tiền
gửi thanh toán trở nên lớn đáng kể.
Tiền gửi tiết kiệm
Tài khoản tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người muốn
dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính
được dự tính trong tương lai. Hai loại tài khoản tiền gửi tiết kiệm phổ biến nhất
hiện nay là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có những ưu nhược điểm tương tự như đối
với tài khoản tiền gửi thanh toán. Đối tượng của sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không
kỳ hạn là cá nhân hoặc tổ chức có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì
mục tiêu an toàn sinh lợi nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi
trong tương lai.
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn phù hợp
với đối tượng khách hàng có thu nhập ổn định thường xuyên, họ muốn gửi khoản
tiền nhàn rỗi của mình tại ngân hàng với mục tiêu an toàn sinh lợi và xác định được
kế hoạch sử dụng tiền trong tương. Theo quy định chung, khách hàng chỉ được rút
tiền khi đến hạn thanh toán, vì thế ngân hàng có thể sử dụng số dư tiền gửi trong kỳ
hạn lưu lại ngân hàng để cho vay hoặc đầu tư mà hoàn toàn yên tâm về tính ổn định
của nguồn vốn này. Do vậy lãi suất ngân hàng trả cho tài khoản tiền gửi có kỳ hạn
cao hơn tiền gửi không kỳ hạn rất nhiều, kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao. Trước
đây, ngân hàng từ chối cho khách hàng rút tiền trước hạn, nhưng để cạnh tranh
trong việc thu hút khách hàng gửi tiền, ngân hàng vẫn thực hiện thanh toán trước
hạn khi khách hàng có nhu cầu nhưng khách hàng phải chịu phạt hưởng mức lãi
suất bằng với lãi suất không kỳ hạn.
1.2.2.2. Sự cần thiết và quy trình quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi
Quy trình quản trị vốn huy động từ tiền gửi

Giống như một quy trình quản trị nói chung, quản trị nguồn vốn huy động từ
tiền gửi gồm bốn giai đoạn : lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra.
Bước 1: Xây dựng kế hoạch về tiền gửi (nằm trong kế hoạch nguồn vốn)
* Căn cứ xây dựng kế hoạch:
Chính sách nguồn vốn và chiến lược huy động vốn trong ngắn hạn của ngân
hàng. Chính sách và chiến lược là cần thiết đối với hoạt động quản trị của bất kỳ
một tổ chức nào. Với ngân hàng thương mại, chính sách nguồn vốn đòi hỏi phải

đảm bảo yêu cầu: tăng trưởng, ổn định và kinh doanh có lãi. Chiến lược huy động
vốn trong ngắn hạn do Hội sở chính hoạch định và phổ biến đến từng chi nhánh.
Kế hoạch về huy động tiền gửi và cho vay tại các chi nhánh ngân hàng hầu hết
được xây dựng ở Hội sở Chính sau đó được giao cụ thể cho từng Chi nhánh. Chi
nhánh không trực tiếp thực hiện từng giai đoạn trong quy trình lập kế hoạch về con
số tổng thể nhưng có thể cụ thể hoá cho từng chỉ tiêu về loại tiền gửi huy động và
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
mức dư nợ cho từng loại hình hoạt động tín dụng; bản kế hoạch đó bắt buộc phải
xuất phát từ những căn cứ cụ thể về chủ trương chính sách cũng như tình hình thực
tế của từng chi nhánh.
Chính sách phát triển kinh tế của cả nước, của địa phương và tình hình kinh tế
tài chính trong giai đoạn đó, đặc biệt là các thông số về tăng trưởng, lạm phát, chỉ
số giá tiêu dùng, mặt bằng lãi suất,… Từng biến động nhỏ trong tình hình kinh tế tài
chính, từng ngày từng giờ đều tác động đến quyết định đầu tư của khách hàng. Vì
vậy để đưa ra một bản kế hoạch với những thông số tin cậy nhất thiết phải căn cứ
vào việc phân tích những biến động đó trong thời gian gần nhất.
Mục tiêu tăng trưởng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thường được hoạch
định trong năm kế hoạch.
Kết quả kinh doanh của kỳ trước, về thị phần huy động vốn, trong đó tỷ trọng
của các loại tiền gửi như thế nào, dự đoán xu hướng tăng trưởng nguồn vốn trong
năm kế hoạch.
* Lập kế hoạch về nguồn tiền gửi :
Xây dựng kế hoạch huy động tiền gửi trên cơ sở kế hoạch của hội sở chính
giao và tổng hợp số liệu của các đơn vị kinh doanh trực tiếp như các phòng giao
dịch, phòng nguồn vốn, phòng tín dụng và các phòng chức năng.
Đơn vị chuyên trách trong việc xây dựng kế hoạch nguồn vốn có trách nhiệm
đưa ra các thông số chi tiết về cơ cấu nguồn tiền gửi cần huy động trong năm kế
hoạch cụ thể là tính toán tổng nguồn vốn, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu loại tiền, đối tượng

khách hàng cần tập trung khai thác, xác định nhóm khách hàng tiềm năng. Bên cạnh
đó là việc xây dựng chính sách lãi suất phù hợp với quy định chung của chính sách
tiền tệ quốc gia và mức lãi suất của các ngân hàng khác để đảm bảo cạnh tranh và
kinh doanh có lãi.
Tóm lại việc xây dựng kế hoạch huy động nguồn vốn từ tiền gửi mang tính
định lượng là định hướng để ngân hàng có kế hoạch sử dụng, kinh doanh nguồn vốn
này sao cho có hiệu quả nhất. Việc xây dựng kế hoạch thể hiện rõ vai trò quản trị
nguồn vốn.
Bước 2: Cơ cấu tổ chức thực hiện kế hoạch
* Ban lãnh đạo:
Ban lãnh đạo công tác quản trị tiền gửi gồm ban giám đốc và trưởng bộ phận
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
nguồn vốn có trách nhiệm điều hành quy trình, thủ tục huy động và phân bổ sử
dụng vốn, ra quyết định cần thiết trong từng giai đoạn tương ứng với tình hình hoạt
động cụ thể.
* Đội ngũ cán bộ nguồn vốn
Là những người trực tiếp thực hiện kế hoạch của ban lãnh đạo, trực tiếp tiếp
khảo sát thị trường, tiếp xúc với khách hàng trong các giao dịch gửi tiền, theo dõi
quá trình huy động vốn.
* Hệ thống thông tin
Bao gồm các phương tiện thông tin liên lạc và các cán bộ chịu trách nhiệm thu
thập xử lý thông tin, có nhiệm vụ thông tin liên tục và báo cáo về tình hình nguồn
vốn.
Bước 3: Triển khai hoạt động nhận nguồn tiền gửi:
Ban lãnh đạo giao chỉ tiêu kế hoạch chi tiết về huy động và sử dụng vốn theo
tháng hoặc theo quý cho các phòng, các quỹ và giám sát quá trình thực hiện.
Triển khai các hoạt động theo kế hoạch. Đây là giai đoạn quan trọng quyết
định kết quả kinh doanh của Ngân hàng; thể hiện trình độ điều hành của các nhà

quản lý và trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên ngân hàng. Các đơn vị lập
báo cáo về nhu cầu chi trả hàng tuần, hàng tháng, hàng quý để từ đó bộ phận
chuyên trách của chi nhánh xây dựng báo cáo lưu chuyển tiền tệ làm căn cứ điều
hành vốn. Trong quá trình triển khai, dựa vào kết quả cụ thể của từng thời kỳ để có
những điều chỉnh các chỉ tiêu cho phù hợp.
Bước 4: Giám sát và kiểm tra
Định kỳ (tháng, quý, năm) chi nhánh thực hiện đánh giá hiệu quả quản trị tiền
gửi nó mang tính định lượng, so sánh kết quả thực hiện với kế hoạch đặt ra, so sánh
việc thực hiện kỳ này với kết quả thực hiện những kỳ trước để chỉ rõ những mặt đạt
được, mặt hạn chế để rút kinh nghiệm, kiến nghị các điều kiện cần thiết cho việc
xây dựng kế hoạch kỳ sau được tốt hơn.
Trong quá trình đánh giá phải chỉ rõ những thành công, hạn chế gắn với trách
nhiệm của từng cá nhân cụ thể và có hình thức khen thưởng, kỷ luật kịp thời. Đến
đây hoàn thiện công đoạn cuối cùng trong quy trình quản trị.
Qúa trình kiểm tra giám sát là khâu cuối cùng đánh giá lại toàn bộ hoạt động
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
quản trị nguồn vốn có đạt được hiệu quả tốt nhất hay không, chính vì thế bước kiểm
tra giám sát là rất quan trọng để nhà quả quản trị nhìn nhận lại toàn bộ công việc,
rút ra được những bìa học kinh nghiệm cho những năm tiếp theo.
Sự cần thiết quản trị nguồn vốn huy động từ tiền gửi

Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Năng lực
thu hút tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ các doanh nghiệp và cá nhân là
một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng với ngân hàng, khả năng
huy động vốn với mức lãi suất hợp lý và đáp ứng các yêu cầu xin vay là chỉ số đánh
giá tính hiệu quả của đội ngũ nhân sự và bộ máy quản lý ngân hàng. Tiền gửi là cơ
sở chính của các khoản vay và do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự
phát triển trong ngân hàng.

Tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn huy động của ngân hàng thương
mại và có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc duy trì hoạt động lành mạnh và
phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng. Từ đó việc quản trị nguồn vốn huy động
từ tiền gửi trở nên hết sức cần thiết đối với bất kỳ một ngân hàng nào.
Quản trị tiền gửi của NHTM cũng như quản trị nguồn vốn nói chung, là một
khái niệm rất rộng, nó bao gồm toàn bộ những hoạt động từ xác định quy mô và chi
phí của nguồn tiền gửi cần huy động đến việc điều chỉnh các hoạt động sao cho
luồng tiền được sử dụng hiệu quả và an toàn. Chủ thể của hoạt động quản trị tiền
gửi là các cán bộ quản lý từ ban lãnh đạo ngân hàng đến trưởng phòng, trưởng bộ
phận nguồn vốn; đối tượng của quản trị tiền gửi là số dư trên các tài khoản tiền gửi
của khách hàng. Những vấn đề nêu trên làm nổi bật hai vấn đề mang tính quyết định
cần phải giải quyết trong công tác quản trị tiền gửi:
(1) Ngân hàng có thể huy động vốn ở đâu với chi phí thấp nhất?
(2) Nhà quản lý cần làm gì để đảm bảo rằng ngân hàng luôn luôn có đủ tiền
gửi để đáp ứng những nhu cầu xin vay cũng như đáp ứng các dịch vụ tài chính khác
mà xã hội yêu cầu và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng?
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, thật không dễ
dàng để trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Nói chung không thể làm công tác quản trị tiền
gửi chỉ bằng một hoạt động riêng lẻ nào, mà nó là một hệ thống các công việc bao
trùm lên toàn bộ các giai đoạn hoạt động của ngân hàng.
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
1.2.2.3. Cơ sở đánh giá hoạt động quản trị tiền gửi tại NHTM
Kết quả tích cực mà các quyết định quản trị đem lại thể hiện ở việc các kế
hoạch đặt ra được thực thi một cách nghiêm túc và đạt được mục tiêu chung của
ngân hàng là tối đa lợi nhuận ròng. Như vậy để đánh giá hoạt động quản trị tiền gửi
tại NHTM cần thiết phải thực hiện phân tích ở những mặt cụ thể sau:
So sánh kết quả thực tế với kế hoạch (gồm cả kế hoạch huy động và sử dụng
tiền gửi). Kế hoạch đã được đưa ra là kết quả của quá trình phân tích lôgic chặt chẽ

dựa trên những căn cứ như đã nói ở trên, là cơ sở đảm bảo cho những hoạt động
tiếp theo được diễn ra suôn sẻ. Nhưng nếu trách nhiệm của Nhà quản trị chỉ dừng
lại ở những bản kế hoạch trên giấy tờ thì hoàn toàn vô nghĩa. Nhà quản trị cần phải
thể hiện vai trò của mình trong tất cả các công đoạn tiếp theo để đảm bảo rằng
những con số lập ra sẽ được thực thi.
Phân tích cơ cấu nguồn tiền gửi huy động, bao gồm phân tích về loại hình huy
động, kỳ hạn, loại tiền, về thành phần kinh tế. Cơ cấu nguồn tiền huy động phản ánh
chất lượng của các khoản tiền ở mức độ ổn định và khả năng sinh lời cũng là một
thước đo về hoạt động quản trị.
Phân tích sự phù hợp giữa quy mô tiền gửi huy động và cho vay. Như đã phân
tích ở trên, một câu hỏi quan trọng đặt ra đối với công tác quản trị tiền gửi là làm
sao để đảm bảo đủ vốn đáp ứng nhu cầu xin vay của khách hàng. Thiếu vốn là biểu
hiện của sự hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Nếu thiếu vốn, Ngân hàng không thể
thực hiện các khoản cho vay, đầu tư hoặc phải sử dụng vốn điều hoà với lãi suất
nhất định và tất nhiên nhiều khả năng bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh sinh lời lớn.
Thiếu vốn cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng vốn là hoạt động
hết sức quan trọng và mang lại nguồn thu cho các ngân hàng thương mại. Thiếu vốn
cùng với việc nguồn vốn huy động không ỏn định dễ dẫn đến mất tinh thanh thoản.
Song nếu lượng vốn huy động dư thừa quá nhiều tức là lãng phí vốn, ngân hàng
phải điều chuyển số vốn này cho trụ sở chính để trụ sở chính điều chuyển vốn đến
các chi nhánh thiếu vốn trong hệ thống, nếu nguồn dư thừa nhiều sẽ được gửi tại
các tổ chức tài chính khác để nhận khoản chênh lệch thu chi. Tuy nhiên trong thời
kỳ lãi suất biễn động mạnh thì hiện tượng thừa vốn cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất
định. Đó là việc khi các ngân hàng thương mại huy động nguồn vốn có kỳ hạn dài
với mức lãi xuất cao, ngay sau khi huy động lãi xuất có biến động giảm và lãi suất
cho vay cũng điều chỉnh giảm theo. Có khi lãi xuất cho vay tại thời điểm hiện tại
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
xuống thấp hơn rất nhiề so với lãi xuất huy động nguồn tiền gửi có kỳ hạn trước đó

như vậy ngân hàng đã bị lỗ, lúc này chênh lệch thu chi nhỏ hơn không.
Phân tích chi phí hoạt động của các tài khoản tiền gửi và đánh giá thu nhập
thông qua chênh lệch lãi suất. Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân hàng
sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí thấp nhất, hay
thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi
đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy động toàn bộ tiền gửi từ các
nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân
hàng sẽ tối đa hoá mức chênh lệch lãi suất, và có thể tối đa hoá thu nhập ròng.
Để đánh giá một cách toàn diện về công tác quản trị tiền gửi tại ngân hàng
thương mại thì còn phải phân tích chất lượng tín dụng. Nhưng đây là vấn đề phức
tạp có tính chất bao quát không kém và cần thiết được phân tích sâu sắc riêng về
quản lý tín dụng. Trong phạm vi đề tài này, chỉ xin được tập trung phân tích ở khâu
huy động vốn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản trị nguồn vốn huy động từ
tiền gửi của NHTM
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Nghiệp vụ quản trị nguồn vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố trong
đó bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan.
Nhân tố khách quan là một trong những nhân tố quan trọng yêu cầu nhà quản
lý phải có một cái nhìn bao quát, dự đoán đúng được những diễn biến trong tương
lai bởi các NHTM hoàn toàn thụ động trước những nhân tố này nên nhà quản lý cần
có khả năng dự đoán để lường trước, chủ động tận dụng những tác động tích cực
cũng như hạn chế các tác động tiêu cực.
Trong phạm vi bài luận văn, tôi đưa ra ba yếu tố khách quan tác động đên hoạt
động này, đó là: Môi trường kinh tế xã hội, Khách hàng và đối thủ cạnh tranh.
* Môi trường kinh tế xã hội
Hoạt động của các ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng trực tiếp của các chỉ
tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập quốc dân, tốc độ chu
chuyển vốn, tỷ lệ lạm phát… Khi thị trường tiền tệ tài chính khu vực và thế giới ổn
định, kinh tế trong nước tăng trưởng vững chắc, thu nhập quốc dân cao sẽ tạo nguồn

tiền gửi dồi dào cho ngân hàng. Ngược lại, những biến động trên thị trường tài
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
chính, tỷ lệ lạm phát tăng, mức sống của các tầng lớp dân cư suy giảm thì nguồn
tiền gửi đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng thương mại cũng sẽ gặp khó khăn.
Môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quản trị tiền gửi
của ngân hàng thương mại. Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là cơ sở để
ngân hàng xây dựng chiến lược kinh doanh, xác định đối tượng người dân và khu
vực cần tập trung khai thác. Tuy nước ta được đánh giá thị trường còn rất nhiều
tiềm năng để khai thác phát triển kinh doanh ngân hàng nhưng hiện nay chỉ có một
bộ phận người dân thành thị và các khu vực xung quanh với thu nhập tương đối ổn
định ở mức cao tham gia sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Thói quen sinh hoạt, tập
quán tiêu dùng và tiết kiệm cũng tác động không nhỏ tới nguồn tiền gửi huy động.
Nhà quản lý phải quan tâm tới tất cả những yếu tố trên nếu muốn nguồn tiền gửi của
ngân hàng được quản lý một cách hiệu quả.
* Khách hàng
Đối với bất kỳ một loại hình sản xuất kinh doanh nào, mục đích cuối cùng
cũng là tối đa hoá lợi nhuận, làm tăng giá trị doanh nghiệp; mục đích đó đạt được
chính là trên cơ sở sự hài lòng của khách hàng với sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà
doanh nghiệp cung cấp. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, khách hàng của ngân hàng
thương mại là tất cả các tầng lớp dân cư, các loại hình doanh nghiệp với nhu cầu vô
cùng đa dạng; bất kỳ một phản ứng không hài lòng nào từ phía khách hàng cũng có
thể tạo ra làn sóng làm suy giảm nghiêm trọng uy tín của ngân hàng. Ngân hàng
phải có các chính sách phù hợp để thu hút được tối đa khách hàng sử dụng dịch vụ
của mình, có được kết quả kinh doanh tốt nhất.
* Đối thủ cạnh tranh
Trên thị trường có rất nhiều ngân hàng cũng như các tổ chức phi ngân hàng cung
cấp các sản phẩm dịch vụ tương tự. Sự linh hoạt hơn trong chính sách quản lý của Nhà
nước dẫn đến sự ra đời của hệ thống rất nhiều ngân hàng thương mại làm cho áp lực

cạnh tranh trong ngành ngân hàng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Muốn tồn tại và
phát triển đòi hỏi ngân hàng phải có chính sách, chiến lược hợp lý, không chỉ đa dạng
hoá các sản phẩm dịch vụ mà còn phải không ngừng nâng cao chất lượng của các sản
phẩm dịch vụ đó để nâng cao sức cạnh tranh và uy tín với khách hàng.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan.
* Nguồn nhân lực
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển và thay thế dần con người trong
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
các công đoạn của hầu hết mọi quá trình sản xuất, nhưng con người vẫn luôn khẳng
định vị trí trung tâm của mình, khoa học càng phát triển, càng đòi hỏi con người có
trình độ kiến thức cao hơn. Đội ngũ nhân sự của ngân hàng đặc biệt là các cán bộ
quản lý ngân hàng chính là nhân tố quyết định thành bại trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động quản trị tiền gửi nói riêng.
Nhà quản lý chính là người lập kế hoạch và đưa ra quyết định về quy mô tiền
gửi huy động, về chính sách lãi suất và các quyết định đầu tư cho vay. Các cán bộ
nguồn vốn chính là người trực tiếp thực hiện quá trình huy động và kiểm soát luồng
tiền gửi. Tất cả các quan hệ giao dịch, tiếp xúc với khách hàng cũng đều cần đến vai
trò của con người. Vì vậy, nguồn nhân lực chính là nhân tố chủ quan có ảnh hưởng
lớn nhất đến hoạt động quản trị tiền gửi tại ngân hàng thương mại. Một nguồn nhân
lực chuyên nghiệp năng động tạo nên một phần vị thế của ngân hàng. Muốn đảm
bảo thực hiện tốt công tác quản trị tiền gửi nhất thiết phải quan tâm đến đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực.
* Chính sách lãi suất của ngân hàng
Lãi suất được coi là giá cả của các khoản vốn tín dụng. Nguồn thu chủ yếu của
ngân hàng thương mại chính là thu nhập lãi trên những khoản cho vay và đầu tư.
Nguồn chi chủ yếu của ngân hàng thương mại là chi lãi cho các nguồn vốn huy
động. Nhiệm vụ của quản lý tiền gửi là xác định chính sách lãi suất với mức lãi suất
huy động và cho vay hợp lý để có thể thu hút tối đa nguồn tiền gửi mà vẫn đảm bảo

kinh doanh có lãi trong môi trường cạnh tranh đầy biến động. Lãi suất tiền gửi và
tiền vay thường có những biến động nhất định chính vì vậy việc cân đối giữa tiền
gửi và tiền cho vay thường phải đuợc cân đối, nhất là trong giai đoạn năm 2008 khi
nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng lạm phát tăng cao vì vậy ngân
hàng nhà nước liên tục thay đổi lãi suất tiền gửi. Khi tăng lãi suất tiền gửi thì lãi
suất tiền vay cũng được điều chỉnh sao cho phù hợp, nhưng khi lãi suất tiền gửi tăng
quá cao khiến cho lãi suất tiền vay tăng cao làm cho nhiều doanh nghiệp hạn chế
vay hoặc vay cầm chừng. Thêm vào đó khi lãi suất huy động tăng làm cho nguồn
tiền gửi tăng dẫn đến mất cân bằng giữa tiền huy động và tiền cho vay như vậy sẽ
gây ra những khó khăn nhất định.
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Thu Thuỷ
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TỪ
TIỀN GỬI TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT HÀ THÀNH
2.1. Khái quát chung về NHNo&PTNT Hà Thành.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chi nhánh NHNo&PTNT Hà
Thành
Thành lập ngày 26-3-1988 theo Luật các tổ chức Tín dụng đến nay
NHNo&PTNT Việt Nam là Ngân hàng Thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và
chủ lực trong đầu tư vốn và phát triển kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn
cũng như đối với các lĩnh vực kinh tế khác của nền kinh tế Việt Nam. Đứng trước
tình hình đổi mới của nền kinh tế đất nước, nhu cầu về vốn cho phát triển ngành
kinh tế ngày càng tăng. Xuất phát từ những yêu cầu và nhiệm vụ chính trị mới trong
giai đoạn đó, cùng với sự ra đời của một số chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tại
các thành phố lớn: thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế… Ngày 27/12/2007
Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam ra quyết
định số: 334/1996/QĐ-NHNNo-02 thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển Nông thôn Hà Thành. Chi nhánh đi vào hoạt động từ ngày 01/4/2008.

Chi nhánh Ngân hàng NNo&PTNT Hà Thành là chi nhánh cấp I, đơn vị phụ
thuộc của Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh có con dấu riêng và có
nhiệm vụ thực hiện một phần các hoạt động của Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam
theo sự uỷ quyền của Ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam.
Chi nhánh đã tổ chức được một mạng lưới cơ sở rộng khắp, trụ sở chính tại:
Số 75 Phương Mai, quận Đống Đa, TP. Hà Nội.
Bên cạnh đó chi nhánh có 6 phòng giao dịch:
+ PGD Kim Liên: Số 135, Lương Định Của - Kim Liên - Đống Đa - Hà Nội.
+ PGD Kim Đồng: Số 3, Kim Đồng – Giáp Bát – Hoàng Mai - Hà Nội.
+ PGD Trương Định: Số 396 Trương Định – Hoàng Mai - Hà Nội.
+ PGD Chợ Mơ: Số 486 Bạch Mai – Hoàng Mai - Hà Nội
+ PGD Lê Đại Hành: Số 48B+50A Lê Đại Hành – Hai Bà Trưng - TP. Hà Nội.
+ PGD số 9: Số 54 - Lê Thanh Nghị - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Ngay từ khi mới thành lập chi nhánh NHNo&PTNT Hà Thành đã được phép
thực hiện mọi hoạt động kinh doanh, thanh toán trong và ngoài nước, tham gia các
hoạt động mua bán ngoại tệ. Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong các
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội.
SV: Bùi Minh Quân Lớp: Tài chính doanh nghiệp
22

×