Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Nâng cao chất lượng công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Hải quan của Cục CNTT&TKHQ-Tổng cục Hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.96 KB, 76 trang )

Chuyên đề thực tập
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
***
BẢN CAM ĐOAN
Tên em là : Hoàng Thị Tú
Mã SV : CQ503629
Lớp : Hải quan 50
Khoa : Thương mại và Kinh tế quốc tế
Em xin cam đoan rằng Chuyên đề thực tập cuối khoá này là hoàn toàn do
em tự nghiên cứu đề tài hoàn thành, không sao chép. Các số liệu sử dụng trong
bài là tài liệu em thu thập được hoàn toàn có nguồn gốc rõ ràng bám sát với tình
hình hoạt động của Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan-Tổng cục
Hải quan.
Nếu có điều gì vi phạm em xin chịu mọi hình thức kỷ luật của nhà trường!
Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
MỤC LỤC
2.2.1. Môi trường hoạt động 29
Những thay đổi về cơ chế, chính sách: 29
2.2.2. Về công tác xây dựng, thực hiện kế hoạch 30
2.2.3. Về hạ tầng công nghệ thông tin 30
2.2.4. Về công tác xây dựng, triển khai, quản lý phần mềm ứng dụng 32
2.2.5. Về hệ thống cơ sở dữ liệu 36
2.2.6. Về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực 37
2.3. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ 38
2.3.1. Những thành tựu đạt được: 38
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu: 50
Nâng cao năng lực điều hành, quản lý 59


Nâng cao năng lực quản lý nghiệp vụ 59
Giai đoạn 2011-2015: Tập trung xây dựng hệ thống thông tin đáp ứng yêu cầu hiện
đại hóa hải quan và triển khai cơ chế một cửa quốc gia 59
Phục vụ người dân và doanh nghiệp 59
3.2.4. Đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công chức, viên chức kỹ năng ứng dụng công
nghệ thông tin trong xử lý công việc; cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin:63
Chuyên đề thực tập
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNTT : Công nghệ thông tin
CNTT&TKHQ: Công nghệ thông tin và thống kê hải quan
TCHQ : Tổng cục Hải quan
XNK : Xuất nhập khẩu
XK : Xuất khẩu
NK : Nhập khẩu
NL : Nguyên liệu
SXXK : Sản xuất xuất khẩu
QLRR : Quản lý rủi ro
CSDL : Cơ sở dữ liệu
Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Định hướng phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế xã
hội của đất nước là: ”Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị – xã hội ổn định, đồng thuận, dân
chủ, kỷ cương, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt;
độc lập, chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao hơn trong giai đoạn sau”.
Công tác quản lý nhà nước về hải quan đóng vai trò quan trọng vào sự
phất triển kinh tế - xã hội thông qua việc tạo thuận lợi cho thương mại, du lịch

và đầu tư; bảo vệ nền kinh tế trong nước, đảm bảo an ninh an toàn xã hội; đóng
góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020 là một bộ phận quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 của đất nước;
những mục tiêu cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm vượt qua các khó khăn
thách thức và thực hiện thành công các nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước
về Hải quan.
Một trong các giải pháp quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển
Hải quan quốc gia là phát triển tối đa ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng
phát triển hệ thống hải quan điện tử.
Trong bối cảnh đó, Lãnh đạo ngành Hải quan đã sớm nhận thức được vai
trò không thể thiếu của CNTT đối với quá trình cải cách hành chính, hiện đại
hoá ngành Hải quan, đặc biệt là việc đưa các ứng dụng CNTT vào các hoạt động
nghiệp vụ hải quan, công tác quản lý và điều hành của các cấp lãnh đạo. Nhờ
vậy, trong những năm qua Lãnh đạo ngành Hải quan đã quan tâm chỉ đạo công
tác tổ chức, từng bước kiện toàn tổ chức tin học trong Ngành cho phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ. Với một Tổ Máy tính điện tử thuộc Văn phòng Tổng cục ở
ngày đầu thành lập năm 1987, nhiệm vụ cốt lõi là đưa ứng dụng điện toán vào
công tác quản lý hải quan, nhân sự chỉ vỏn vẹn 03 người. 03 năm sau đó, Tổ
được nâng lên cấp phòng (có tên là Phòng Thống kê- Máy tính, thuộc Tổng cục
Hải quan). Năm 1994, Trung tâm Tin học và Thống kê hải quan được thành lập,
chính là nền tảng quan trọng để trở thành một Cục nghiệp vụ tham mưu, giúp
việc thuộc tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan, đó là Cục CNTT&TKHQ
ngày nay.
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 1 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
Trải qua 10 năm xây dựng và phát triển, Cục CNTT & TKHQ đã góp
phần thúc đẩy công tác ứng dụng CNTT, đưa hoạt động quản lý hải quan có
những bước tiến vượt bậc, từ chỗ việc ứng dụng chủ yếu phục vụ công tác báo
cáo thống kê (vào những năm trước 1999), đến nay các hệ thống ứng dụng

CNTT đã có mặt tại tất cả các khâu trong qui trình nghiệp vụ hải quan và là
công cụ hỗ trợ không thể thiếu đối với cán bộ hải quan, góp phần thúc đẩy công
tác ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý hải quan. Quá trình phát triển
CNTT được đánh dấu bởi quá trình nghiên cứu, xây dựng, triển khai và phát
triển của một số hệ thống ứng dụng phục vụ các công tác nghiệp vụ hải quan
như: hệ thống tiếp nhận khai hải quan từ xa, hệ thống quản lý loại hình nhập
nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cấp hệ thống quản lý thông tin giá
tính thuế giai đoạn 2, thực hiện trao đổi thông tin về đối tượng nộp thuế với
Tổng cục Thuế, Kho bạc về số thu, tình hình nợ thuế và tăng cường trang bị
máy móc, trang thiết bị tin học cho toàn ngành. Cùng đó, Website của ngành Hải
quan (www.customs.gov.vn) hiện đã được nâng cấp thành Cổng Thông tin điện
tử để ngoài việc tuyên truyền thông tin của ngành, cung cấp kịp thời văn bản
chính sách còn triển khai giao dịch điện tử, tra cứu thông tin nợ thuế, đào tạo
trực tuyến…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ứng dụng CNTT vẫn còn
những tồn tại, như: Dữ liệu phát sinh ngày càng lớn dẫn đến việc quá tải đối với
hệ thống ở chi cục. Công chức hải quan phải thao tác với nhiều ứng dụng khác
nhau để hoàn thành một tác vụ dẫn đến thủ tục hải quan thực hiện chậm; Các hệ
thống ứng dụng được xây dựng theo mô hình quản lý phân tán dẫn đến việc
quản lý phiên bản, cập nhật, bảo trì các ứng dụng và cơ sở dữ liệu ứng dụng mất
thời gian. Hạ tầng CNTT nói chung mới chỉ cơ bản đáp ứng được nhu cầu, hệ
thống mạng vẫn thường xuyên bị sự cố ảnh hưởng không nhỏ đến các ứng dụng
nghiệp vụ hải quan, trang thiết bị CNTT nhiều nơi chưa đủ, công tác mua sắm
tập trung CNTT của ngành triển khai chậm. Đội ngũ cán bộ chuyên trách CNTT
nhiều nơi còn thiếu và yếu về chuyên môn đặc biệt là những đơn vị đã triển khai
thông quan điện tử,
Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng công tác ứng
dụng công nghệ thông tin trong ngành Hải quan của Cục CNTT&TKHQ-
Tổng cục Hải quan” làm Chuyên đề thực tập của mình.
2.Mục đích nghiên cứu:

Từ nghiên cứu một cách có hệ thống thực trạng công tác ứng dụng công
nghệ thông tin trong ngành Hải quan của Cục CNTT&TKHQ nhằm tìm ra giải
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 2 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
pháp nâng cao chất lượng công tác ứng dụng công nghệ thông tin của ngành
trong thời gian tới.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành Hải quan của Cục CNTT&TKHQ.
- Phạm vi nghiên cứu là những chính sách, kế hoạch của ngành Hải quan
và những kết quả, hạn chế trong công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành Hải quan của Cục CNTT&TKHQ. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2001
đến nay.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, phương pháp khảo sát thực tế ,thống kê, phân tích ,tổng hợp để
làm rõ nội dung nghiên cứu.
5.Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục , nội dung
Chuyên đề bao gồm 03 chương.:
Chương I: Những lý luận cơ bản về ứng dụng CNTT trong hoạt động của
ngành Hải quan
Chương II: Thực trạng công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành Hải quan của Cục CNTT&TKHQ
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác ứng dụng công
nghệ thông tin trong ngành Hải quan của Cục CNTT&TKHQ
Để hoàn thành đề tài này ,em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
cán bộ Cục CNTT&TKHQ, cán bộ thư viện trường Đại học Kinh Tế quốc dân
và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Văn Tuấn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quí báu đó.

Do việc thu thập tài liệu gặp nhiều khó khăn, năng lực cá nhân còn hạn
chế, Chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô và các bạn./.
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 3 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ỨNG DỤNG
CNTT TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH HẢI QUAN
1.1. KHÁI NIỆM, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG NỀN KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information
Technology hay là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin
CNTT là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi,
lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Người làm việc trong ngành
này thường được gọi là dân CNTT (IT specialist) hoặc cố vấn quy trình doanh
nghiệp (Business Process Consultant)
Ở Việt Nam: Khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong Nghị quyết
số 49/CP của Chính phủ kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các
phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là
kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực
hoạt động của con người và xã hội.
1.1.2. Quá trình phát triển của công nghệ thông tin
Trong lịch sử phát triển nhân loại, cho tới cuối thế kỷ thứ XX, loài người
đã trải qua 5 cuộc cách mạng thông tin.
Tiêu chí để phân biệt các cuộc cách mạng thông tin là những thay đổi căn
bản về các công cụ tiếp nhận, lưu trữ, xử lý, truyền thông tin và về khối lượng
thông tin có thể phổ biến được cho mọi người.
Cuộc cách mạng thông tin lần thứ nhất được khởi đầu bằng việc con
người có được tiếng nói - đánh dấu điểm ngoặt căn bản trên bước đường phát

triển tiến hoá của loài người. Kể từ đây, con người tách hẳn khỏi thế giới động
vật . Nhờ có tiếng nói, thông tin tạo ra được thay đổi, truyền bá và lưu trữ và trở
thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình giao tiếp và phát triển kỹ thuật
ở những giai đoạn phát triển đầu tiên của thời đại nông nghiệp.
Cuộc cách mạng thông tin lần thứ hai đánh dấu bằng việc phát minh ra
chữ viết. Đây là một công cụ căn bản, làm thay đổi phương thức sinh hoạt của
cộng đồng, dẫn đến chỗ mở rộng phạm vi phát triển và tạo lập các hệ thống cộng
đồng mới vượt ra khỏi tầm phạm vi của các quan hệ huyết thống trong thời đại
nông nghiệp. Nhờ có chữ viết, thông tin đã được lưu trữ, truyền bá nhanh chóng
với khối lượng tri thức lớn để tư duy, phát triển và sáng tạo các kỹ thuật và công
nghệ mới. Chữ viết đã tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để phát triển và sáng
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 4 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
tạo kỹ thuật, công nghệ. Tri thức được ghi lại, tích luỹ, truyền bá, sử dụng đã
đưa kỹ thuật và công nghệ phát triển đến đỉnh cao rực rỡ, điển hình là các công
trình kim tự tháp Ai Cập, các hệ thống thủy lợi, kiến trúc nguy nga của các
thành phố nổi tiếng còn lưu giữ đến ngày nay ở Hy Lạp, La Mã. Nhờ chữ viết,
mà những công trình toán học kiệt xuất của Ơ-cơ-lít, Ac - si – met, Ptô - lê -
mê đã được ghi lại.
Cuộc cách mạng thông tin lần thứ hai đã thúc đẩy các cuộc di dân lớn,
những cuộc chinh phục các miền đất mới và khởi đầu quá trình toàn cầu hoá
giữa các nền văn hoá và các nền văn minh, góp phần tạo ra các tiền đề khởi phát
cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, cũng như tạo ra các xung lực
mạnh mẽ để phát triển khoa học công nghệ và giao lưu quốc tế.
Cuộc cách mạng thông tin thứ ba đánh dấu bằng sự ra đời kỹ thuật in, tạo
khả năng chưa từng thấy để thông tin và tri thức truyền bá qua thời gian và
không gian, vượt qua các rào cản ngăn cách giữa các nền văn hoá và văn minh,
tạo ra quá trình toàn cầu hoá mới với tốc độ nhanh gấp nhiều lần, đồng thời góp
phần thúc đẩy nhanh chóng diễn biến của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất. Nhờ cuộc cách mạng thông tin lần thứ ba, thông tin và tri thức của nhân

loại được nhân bản, xử lý, truyền bá rộng khắp và trở thành tài sản chung của
loài người.
Cuộc cách mạng thông tin thứ tư hình thành trên cơ sở các thiết bị truyền
thông bằng điện và điện tử (điện thoại, điện báo, radio, truyền hình) đ• thúc đẩy
sự truyền bá rất nhanh chóng mọi loại hình thông tin và tri thức trên quy mô
toàn cầu. Cuộc cách mạng thông tin này gắn liền với cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ hai và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình quốc tế hoá lực lượng sản
xuất và phân công lao động trên quy mô quốc tế.
Cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm: Những thành quả của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy
mạnh mẽ sự xuất hiện cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm với đặc điểm nổi
bật là các hệ thống siêu lộ cao tốc thông tin (super highways), các hạ tầng cơ sở
thông tin quốc gia (NII – National information infrastructure), hạ tầng cơ sở
thông tin khu vực (RII – Regional information infrastructure) và hạ tầng cơ sở
thông tin toàn cầu (GII – Global information infrastructure). Trong đó, biểu
trưng đặc sắc nhất và nổi bật nhất là mạng Internet.
Cuộc cách mạng thông tin lần thứ năm đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
toàn cầu hóa diễn ra trong tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, khoa học công
nghệ, chính trị, 20 quân sự , đồng thời đang tạo ra những thách thức mới đối
với các quan niệm truyền thống về tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài
người. Mặc dù chưa có thể dự đoán được hết các tác động của mạng Internet đối
với loài người nhưng trên thực tế, cuộc cách mạng thông tin lần này đang mở ra
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 5 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
một kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên số hoá làm đảo lộn tư duy và sinh hoạt của xã
hội loài người.
Trên cơ sở các thế hệ máy tính mới, các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
như Mỹ đang xây dựng thế hệ mạng thông tin toàn cầu mới - đó là Internet 2 và
Internet thuộc thế hệ tiếp theo (NGI – Next Generation of Internet ) với tốc độ
truy cập cao hơn tốc độ của mạng Internet hiện nay 1000 lần. Với những tác

động có tính cách mạng mà đến nay chỉ có thể so sánh được với các truyện viễn
tưởng.
1.1.3. Vai trò của công nghệ thông tin trong nền kinh tế
Đảng và Nhà nước ta đã nhận định công nghệ thông tin là một trong các
động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ
cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới
hiện đại.
Việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần
giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy
công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng
cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm
bảo an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của công nghệ thông tin, cho nên
ngay từ thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ
trương vận dụng công nghệ thông tin trong một số lĩnh vực. Bước sang thời kỳ
đổi mới, chủ trương ấy đã được nhấn mạnh và cụ thể hóa trong nhiều nghị quyết
của Đảng và Chính phủ: Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30/3/1991 của Bộ
Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đã nêu: ”Tập trung
sức phát triển một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn như điện tử, tin
học ”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII),
ngày 30/7/1994 đã xác định: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên
tiến, như công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền
kinh tế quốc dân”. Nghị quyết số 49/CP ngày 04/8/1993 về “Phát triển công
nghệ thông tin ở Việt Nam trong những năm 90”. Đặc biệt, cuối năm 2000, Bộ
Chính trị cũng chính thức ban hành Chỉ thị 58 (58-CT/TW) về đẩy mạnh phát
triển và ứng dụng CNTT. Từ thời điểm này, có thể nói CNTT đã trở thành một
phần trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị về CNTT chỉ rõ “CNTT là một trong các động

lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao
khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, vǎn hoá, xã hội của thế giới
hiện đại”. “Ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 6 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi
mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế…”. Chỉ thị 58 cũng chỉ
rõ phương hướng để phát triển CNTT cho Việt Nam gồm bốn hướng đồng thời:
Ứng dụng CNTT, Hạ tầng CNTT, Giáo dục đào tạo về CNTT và Công nghiệp
CNTT.
Một thập kỷ qua kể từ Chỉ thị 58, Việt Nam đã đạt được những bước phát
triển vượt bậc trong lĩnh vực CNTT. Từ vị trí không có tên trên bản đồ CNTT
thế giới những năm 90 của thế kỷ thứ 20, đến nay Việt Nam đã đạt tới mức phát
triển trung bình của thế giới và châu Á. Về hạ tầng CNTT, năm 1990, Việt Nam
chỉ có tổng cộng khoảng 140,000-150,000 thuê bao điện thoại, tức là khoảng
500 người chung 1 thuê bao. Đến 11/2010, tổng số thuê bao điện thoại cả nước
ước đạt xấp xỉ 163,8 triệu thuê bao, tức 2 thuê bao/1 người, tỷ lệ dân số Internet
của Việt Nam đã trên 30% cao hơn mức trung bình của thế giới (26,6%). Công
nghiệp CNTT tăng trưởng nhanh, đạt mức 20-25%/năm, gấp khoảng 3 lần tốc
độ tăng trưởng GDP. Tổng doanh thu ngành công nghiệp CNTT năm 2009 đạt
13 tỷ USD gấp 15 lần năm 2001, đóng góp 6,7% GDP của cả nước. Đã hình
thành ngành công nghiệp phần mềm với tốc độ phát triển cao, bình quân 33%
năm, với các hoạt động gia công xuất khẩu phần mềm được ghi nhận trong số 20
nước đứng đầu trên thế giới. Về ứng dụng CNTT, trong khu vực quản lý nhà
nước từ những năm 1996-1997 CNTT đã được đẩy mạnh ứng dụng theo Đề án
112 và vẫn đang tiếp tục. Trong lĩnh vực kinh doanh, hầu hết các DN đều sử
dụng CNTT để hỗ trợ các hoạt động của mình cho dù mức độ đầu tư cho CNTT
còn thấp và đơn giản (Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT 2010).
Chính phủ Việt Nam tiếp tục theo đuổi sự nghiệp phát triển CNTT. Tháng
9/2010, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Đề án Đưa Việt Nam sớm trở thành

nước mạnh về CNTT (Quyết định 1755/QĐ-TTg). Tháng 12/2010, Ban Chỉ đạo
quốc gia về CNTT tổ chức họp tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 58, trong đề
xuất kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước, Ban chỉ đạo nhấn mạnh quan điểm
“Ứng dụng và phát triển CNTT trong giai đoạn 2011-2020 là lĩnh vực cần ưu
tiên đầu tư, tạo sự đột phá chiến lược, là nền tảng và động lực cho hiện đại hóa
và tri thức hóa nền kinh tế, góp phần đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
1.2. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH HẢI QUAN:
1.2.1. Khái niệm về hoạt động của Hải quan:
Thực hiện các biện pháp hành chính – kinh tế (thuế quan hay phi thuế
quan) như kiểm tra, kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải và
hành khách xuất nhập cảnh; thu thuế xuất nhập khẩu; điều tra chống buôn lậu và
gian lận thương mại; kiểm tra sau thông quan, nhằm bảo hộ và thúc đẩy phát
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 7 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
triển sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu; bảo đảm
nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng; bảo vệ môi
trường, góp phần bảo vệ lợi ích chủ quyền kinh tế và an ninh quốc gia; bảo vệ
trật tự và an toàn xã hội là những hoạt động cụ thể của Hải quan.
Có thể hiểu hoạt động hải quan là hoạt động của các Cơ quan Hải quan
liên quan đến quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh qua
lãnh thổ của một quốc gia nhằm góp phần thực hiện chính sách nhà nước về phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia; phát triển
hợp tác và giao lưu quốc tế.
Hoạt động của Hải quan rất đa dạng, có thể phân chia thành các nhóm
hoạt động chủ yếu sau:
- Các hoạt động quản lý nhà nước về hải quan, bao gồm xây dựng và
trình Chính phủ, Bộ Tài chính các văn bản quy phạm pháp luật về hải quan.
Kiểm tra giám sát về thực thi pháp luật hải quan.

- Các hoạt động nghiệp vụ hải quan, bao gồm nghiệp vụ thông quan;
nghiệp vụ kiểm tra, giám sát hải quan; nghiệp vụ thu thuế xuất nhập khẩu hàng
hóa
- Hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, bảo vệ sản
xuất trong nước và giữ gìn an ninh quốc gia. Hoạt động này vừa có tính chất nội
ngành vừa có sự phối hợp liên ngành.
- Hoạt động hợp tác quốc tế của ngành Hải quan. Hoạt động trong
khuôn khổ Tổ chức Hải quan thế giới và hợp tác hải quan đa phương và song
phương khác.
1.2.2. Đối tượng hoạt động của Hải quan:
Đối tượng hoạt động của Hải quan là những đối tượng chịu sự điều chỉnh
của luật hải quan bao gồm:
- Tổ chức, cá nhân thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa,
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải. Hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối của người xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng
trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; kim khí quý, đá quý,
cổ vật, văn hóa phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động của Hải quan.
- Cơ quan Hải quan và công chức hải quan.
- Các cơ quan khác của Nhà nước trong việc phối hợp quản lý nhà nước
về hải quan.
1.2.3. Phạm vi địa bàn hoạt động của Hải quan:
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 8 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
Địa bàn hoạt động của Hải quan được quy định cụ thể trong Luật hải
quan. Tại Điều 6, Luật hải quan 2005 của Việt Nam quy định “địa bàn hoạt động
hải quan bao gồm các khu vực cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận quốc
tế, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, các
địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu, khu chế xuất, kho ngoại quan,
kho bảo thuế, khu vực ưa đãi hải quan, bưu điện quốc tế, các địa điểm kiểm tra

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong lãnh thổ và trên vùng biển thực hiện chủ
quyền của Việt Nam, trụ sở doanh nghiệp khi tiến hành kiểm tra sau thông quan
và các địa bàn hải quan kháctheo quy định của pháp luật. Trong địa bàn hoạt
động của Hải quan, Cơ quan Hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm
soát đối với hàng hóa, phương tiện vận tải”. Chính phủ quy định cụ thể phạm vi
địa bàn hoạt động của Hải quan Việt Nam.
Cửa khẩu biên giới đất liền bao gồm: cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính và
cửa khẩu phụ, được mở trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa
trong khu vực biên giới theo Hiệp định về Quy chế biên giới đã được ký kết
giữa Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ các
nước láng giềng để thực hiện việc xuất , nhập và qua lại biên giới quốc gia.
Cửa khẩu quốc tế được mở cho người, phương tiện, hàng hóa của Việt
Nam, nước láng giềng và nước thứ ba xuất, nhập và qua biên giới quốc gia.
Cửa khẩu chính được mở cho người, phương tiện, hàng hóa của Việt Nam
và nước láng giềng xuất, nhập và qua biên giới quốc gia.
Phạm vi cụ thể của khu vực cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh xác định sau khi đã thống nhất với Bộ Quốc phòng, Bộ Công
an, các Bộ, Ngành hữu quan và báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Trong
trường hợp cần thiết phải điều chỉnh phạm vi cụ thể địa bàn hoạt động hải quan
tại từng khu vực cửa khẩu đường bộ, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ
Quốc phòng và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố sở tại xem xét, trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định.
Cửa khẩu phụ được mở cho người, phương tiện, hàng hóa của Việt Nam
và nước láng giềng ở khu vực biên giới, vùng biên giới qua lại biên giới quốc
gia.
Phạm vi cụ thể khu vực cửa khẩu phụ do Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng
tỉnh xác định sau khi đã thống nhất với công an tỉnh, các ngành hữu quan và xin
ý kiến Ủy ban nhân dân cấp huyện có cửa khẩu về quy hoạch, báo cáo chủ tịch
ủy ban nhân dân tỉnh có cửa khẩu quyêt định.
1.2.4. Sự cần thiết của công nghệ thông tin trong hoạt động của Hải quan

GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 9 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
Ứng dụng CNTT hiện nay được coi là một cấu phần chính trong phương
pháp quản lý mới. đặc biệt, trong các biện pháp cải cách hành chính như cải
cách về thể chế, về hạ tầng cơ sở vật chất, về nguồn lực… thì CNTT là phương
tiện tiên quyết để thực hiện, triển khai các phương thức quản lý hiện đại, toàn
diện trong các tổ chức hành chính và doanh nghiệp.
Việc ứng dụng CNTT trong ngành Hải quan ở mức độ cao là “ngòi nổ”
giúp ngành Hải quan chuyển sang phương thức quản lý hải quan mới, hiện đại,
nó không chỉ là công cụ quan trọng mà còn trở thành chiến lược phát triển Hải
quan. Việc ứng dụng CNTT trong ngành Hải quan thời gian qua đã được thực
hiện toàn diện trên cả phương diện quản lý nghiệp vụ và quản lý hành chính nội
bộ, đem lại hiệu quả về nhiều mặt. Toàn bộ quy trình nghiệp vụ hải quan cốt lõi
hiện nay đều vận hành dựa trên hệ thống CNTT đã làm giảm thời gian thông
quan, giảm chi phí, giảm phiền hà cho doanh nghiệp, thông qua đó đã làm thay
đổi cách nhìn nhận, đánh giá của doanh nghiệp về hình ảnh Cơ quan Hải quan
theo chiều hướng ngày càng tích cực hơn.
Đối với công tác quản lý, CNTT giúp xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học,
an toàn phục vụ công tác quản lý, ra quyết định của người lãnh đạo. Nhờ ứng
dụng CNTT trong các khâu quản lý mà ngành cũng đảm bảo tính liêm chính và
chuyên nghiệp cao, xây dựng được quy chế dân chủ cơ sở bền vững, tạo sức
mạnh về nội lực. Đối với doanh nghiệp và các tổ chức xã hội và người dân,
ngành đã ứng dụng tốt CNTT để xây dựng các kênh thông tin tuyên truyền (báo
chí, website, cổng thông tin điện tử tư vấn trực tuyến…), thực hiện chức năng
cầu nối giữa cơ quan quản lý với người sử dụng; xây dựng và áp dụng hệ thống
thông quan tiên tiến, giảm giấy tờ, chi phí, thời gian, giảm phiền hà cho doanh
nghiệp; triển khai cơ chế một cửa, hình thành mối quan hệ tương tác hai chiều
giữa doanh nghiệp với cơ quan qua các dịch vụ hành chính công.
Kết quả nổi bật mà ứng dụng CNTT đem lại đó là đã làm thay đổi hình
ảnh cơ quan quản lý nhà nước trở thành cơ quan phục vụ mang tính chuyên

nghiệp cao, tích cực chủ động cung cấp nhiều dịch vụ hải quan cho doanh
nghiệp và người dân khi tham gia các hoạt động thương mại quốc tế.
Đối với công tác hải quan, CNTT đã và đang làm thay đổi toàn diện bộ
mặt của ngành Hải quan, giúp nâng cao năng lực và năng suất lao động của các
cán bộ, nhân viên, và đơn giản hoá các thủ tục đối với doanh nghiệp. Chỉ sau 10
năm ứng dụng CNTT, đến nay, hầu hết các nghiệp vụ hải quan đã được tin học
hoá, và với nhiều nhân viên trong ngành, chiếc máy tính đã trở thành công cụ hỗ
trợ thiết yếu.
Vai trò đắc lực của ứng dụng CNTT trong ngành Hải quan: Quản lý thông
tin xuất nhập khẩu nguyên liệu và sản phẩm gia công - Hình thức doanh nghiệp
Việt Nam nhập nguyên liệu của nước ngoài, sản xuất theo yêu cầu đối tác, sau
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 10 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
đó lại xuất khẩu ngược trở lại sản phẩm hoàn thiện. Đây là hình thức xuất khẩu
đang được Nhà nước khuyến khích, song việc quản lý các hợp đồng gia công
này lại rất phức tạp. Chúng ta có thể hình dung ra công việc của các công chức
Hải quan khi theo dõi một hoạt động xuất khẩu này như sau: Công chức Hải
quan phải theo dõi hợp đồng kể từ ngày ký, đến khi nhập nguyên liệu. Sau khi
doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thành phẩm từ các nguyên liệu đó hay còn
gọi là thanh khoản hợp đồng. Cơ quan Hải quan phải đảm bảo hàm lượng
nguyên liệu trong sản phẩm xuất khẩu phải tương đương lượng nguyên liệu
nhập về. Thời gian nhập nguyên liệu đến khi thanh khoản có khi cách nhau 6
tháng, thậm chí 1 năm, nên rất dễ xảy ra các sai số. Việc theo dõi cũng rất khó
khăn và tốn nhiều công sức của các công chức Hải quan. Sau khi áp dụng
CNTT, thời gian thông quan thủ tục hàng hoá đã được rút ngắn rất nhiều so với
cách làm thủ công trước đây. Tại thời điểm bất kỳ, Cơ quan Hải quan có thể biết
được lượng nhập, lượng xuất của doanh nghiệp, và doanh nghiệp cũng có thể
nắm được lượng nhập, lượng xuất của mình để tránh những sơ suất trong thực
hiệp hợp đồng gia công.
Từ khi hệ thống quản lý hàng gia công được đưa vào sử dụng ở một số chi

cục trọng điểm tại Cục hải quan Hải Phòng, Hà Nội, TP HCM, Đồng Nai ,
công việc của các công chức Hải quan đã thay đổi. Các công chức Hải quan chỉ
cần tiếp nhận tờ khai, nhập dữ liệu vào máy tính rồi đến khi thanh khoản hợp
đồng, lại nhập dữ liệu doanh nghiệp cung cấp vào máy tính, và phần mềm sẽ
giúp họ kiểm tra một cách chính xác và nhanh chóng. Trước đây, nếu làm thủ
công, toàn bộ cán bộ chỉ có thể tiếp nhận và giải quyết được 100 bộ hồ sơ của
doanh nghiệp/ngày. Sau khi áp dụng CNTT, Cơ quan Hải quan có thể tiếp nhận
khoảng 200 bộ hồ sơ/ngày mà vẫn đảm bảo quản lý chặt chẽ. Tiết kiệm thời gian
cho chủ hàng, còn công chức Hải quan thì đỡ vất vả ghi chép, theo dõi sổ sách.
Chỉ cần tra cứu thông tin về một doanh nghiệp thôi, bằng sổ sách chắc phải mất
một ngày. Với ứng dụng CNTT, việc tra cứu lại nhanh chóng hơn.
Công tác thống kê và quản lý hàng gia công chỉ là 2 mảng nghiệp vụ đầu
tiên trong ngành Hải quan có ứng dụng CNTT. Trong vòng 10 năm, cùng với
việc tạo lập một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tương đối mạnh, ngành Hải
quan còn xây dựng được một hệ thống các ứng dụng tương đối đầy đủ, bao gồm
hệ thống quản lý giá tính thuế, hệ thông quản lý loại hình sản xuất xuất khẩu, hệ
thống website hải quan điện tử. Những hệ thống ứng dụng này đã góp phần thay
đổi một cách toàn diện bộ mặt của ngành Hải quan, các ứng dụng này không
những giúp cán bộ trong ngành hoàn thành tốt nhiệm vụ, mà còn đơn giản hoá
các thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá cho doanh nghiệp.
Trên thực tế, việc ứng dụng tin học trong các hoạt động Hải quan không
chỉ giúp ngành quản lý hiệu quả hơn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, mà còn
giúp các doanh nghiệp rất nhiều trong quá trình hoạt động thương mại quốc tế.
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 11 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
Doanh nghiệp có thể nắm được các thông tin cụ thể về thuế, hạn ngạch, các
chính sách mới trên Website của ngành Hải quan, tại địa chỉ
www.customs.gov.vn. Các doanh nghiệp cũng có thể rút ngắn thời gian thực
hiện các thủ tục khai báo xuất nhập khẩu bằng cách khai báo điện tử. Thủ tục rất
nhanh, thuận lợi, kể cả thanh khoản hợp đồng cũng rất nhanh, số liệu trừ lùi

ngay trên máy, không như trước đây, phải thống kê thủ công rất lâu.
Đối với các doanh nghiệp gia công thì cũng được lợi từ ứng dụng quản lý
hàng gia công, bởi khi các hợp đồng được thanh khoản nhanh chóng, hàng sản
xuất ra giảm được thời gian tồn đọng, vốn nhờ thế mà quay vòng nhanh hơn.
Không chỉ có vậy, ngành Hải quan cũng đã xây dựng một hệ thống trao
đổi thông tin mã số đối tượng nộp thuế, cho phép động bộ dữ liệu với các cơ
quan Thuế. Nhờ đó, doanh nghiệp không cần xin mã số hải quan và mã số thuế
nội địa như trước đây, mà chỉ cần xin mã số thuế và đăng ký xuất nhập khẩu. Hệ
thống CNTT kết nối giữa cơ quan Thuế với cơ quan Hải quan đã được xây
dựng. Theo đó, thông tin từ Tổng cục Hải quan sẽ truyền đến các Cục Hải quan.
Căn cứ trên những tờ khai moacong chức Hải quan đồng ý hay không đồng ý
cho doanh nghiệp đó xuất nhập khẩu đều dựa trên một hệ thống thông tin chung.
Nhờ ứng dụng CNTT mà ngành Hải quan có những bước tiến đáng kể
trong thời gian qua. Tính đến tháng 10/2010, việc triển khai mở rộng thủ tục
hải quan điện tử đã đạt những kết quả lớn, cụ thể đã có 13 Cục Hải quan lớn
triển khai thủ tục hải quan điện tử. Với cách làm này đã rút ngắn thời gian thông
quan trung bình còn từ 3 – 15 phút đối với luồng xanh (theo quy định của Bộ
Tài chính hàng luồng xanh gồm: Hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu là tài liệu,
chứng từ thương mại, hàng không có thuế, hàng có thuế nhưng được miễn thuế
theo quy định của pháp luật).
Bên cạnh đó, các danh mục chứng từ trong bộ hồ sơ hải quan điện tử cũng
giảm đáng kể và tiết kiệm được công sức đi lại, chi phí của doanh nghiệp.
Việc áp dụng hải quan điện tử thành công phải kể đến ứng dụng chữ ký
số, đến nay đã có 300 doanh nghiệp được cấp chứng thư số cùng thiết bị ký
miễn phí…
Tuy nhiên, Bộ Tài chính không dừng lại ở đó mà đang hướng đến mục
tiêu lớn hơn đó là xây dựng ngành hải quan một cửa quốc gia. Theo đó, cơ chế
một cửa dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin cho phép việc cung cấp, xử lý
dữ liệu điện tử một lần và ra quyết định ngay.
Hải quan Việt Nam đang hướng tới tầm các nước tiên tiến trong khu vực

Đông Nam Á (ASEAN). Đó là xây dựng ngành Hải quan theo mô hình một cửa
điện tử quốc gia để kết nối với khu vực ASEAN. Đây sẽ là tiền đề quan trọng
thúc đẩy phát triển thương mại điện tử và chính phủ điện tử ở Việt Nam.
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 12 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
Năm 2005, lần đầu tiên Hải quan Việt Nam triển khai thủ tục hải quan
điện tử với qui mô hẹp, nhưng đến nay mô hình này đã triển khai trên phạm vi
rộng. Việc làm trên đã cắt giảm được nhiều công đoạn không cần thiết và mang
lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp.
Không dừng lại ở đó, thời gian qua ngành Hải quan liên tục nâng cấp, nếu
những ngày đầu chỉ là mức mức độ 1 là cung cấp thông tin về quy trình thủ tục
hải quan, các giấy tờ cần thiết, các bước tiến hành, thời gian thực hiện, chi phí
thực hiện, tra cứu các biểu thuế trên mạng trên mạng, đến nay đã triển khai mức
độ 4. Với mức này các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu có thể tự
điền các thông tin khai hải quan tại trự sở doanh nghiệp và gửi đến cơ quan Hải
quan và nhận kết quả thông quan qua mạng Internet.
Đặc biệt, hiện nay ngành Hải quan đang thí điểm thu thuế, phí, lệ phí, bảo
lãnh qua ngân hàng bằng phương thức điện tử.
1.3. NỘI DUNG ỨNG DỤNG CNTT TRONG NGÀNH HẢI QUAN:
• Công khai, minh bạch thông tin trên môi trường mạng
- Cơ quan Hải quan có trách nhiệm thực hiện công khai thông tin về
chính sách , thủ tục hành chính và các thông tin khác có liên quan về hải quan
theo quy định của pháp luật trên môi trường mạng một cách kịp thời, chính xác.
- Triển khai và duy trì cập nhật thông tin đầy đủ, kịp thời trên Website
của ngành Hải quan và đơn vị.
- Tổ chức việc tiếp nhận ý kiến góp ý, các yêu cầu giải thích, hướng dẫn
và cung cấp thông tin về hải quan của các tổ chức, cá nhân qua hệ thống ứng
dụng CNTT trên Internet. Lưu giữ, xử lý, cập nhật cung cấp thông tin và trả lời
các yêu cầu hoặc chuyển yêu cầu đến đúng cơ quan có thẩm quyền xử lý kịp
thời.

- Tuyên truyền, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu tham gia
kê khai hải quan qua mạng với cơ quan Hải quan thông qua hệ thống ứng dụng
CNTT.
• Triển khai các hệ thống ứng dụng CNTT trong hoạt động nghiệp vụ
- Cơ quan Hải quan có trách nhiệm triển khai đầy đủ, kịp thời các ứng
dụng CNTT thống nhất của toàn ngành đến từng đơn vị, từng cán bộ hoặc doanh
nghiệp theo quy định.
- Tổ chức duy trì, vận hành an toàn cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT, các
ứng dụng và cơ sở dữ liệu trong phạm vi cơ quan mình, đảm bảo tuân thủ theo
quy định kỹ thuật của ngành Hải quan và Bộ Tài chính.
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ phận thuộc, trực thuộc để tổ
chức triển khai, khai thác đạt hiệu quả các ứng dụng CNTT của ngành Hải quan.
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 13 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
• Quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu
- Xây dựng nội quy đảm bảo an toàn thông tin; áp dụng, hướng dẫn và
kiểm tra định kỳ việc thực hiện các biện pháp bảo đảm cho hệ thống thông tin
trên hệ thống ứng dụng CNTT đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an
toàn thông tin.
- Đảm bảo cập nhật đầy đủ thông tin, tài liệu, hồ sơ xử lý các khâu công
việc trên hệ thống cơ sở dữ liệu của các ứng dụng hoặc các thư mục dùng chung
trên máy chủ của đơn vị.
- Thực hiện cơ chế duy trì an toàn và bảo mật dữ liệu. Xây dựng cơ chế
phân quyền truy nhập, chia sẻ và sử dụng thông tin đáp ứng các nhiệm vụ, chức
năng của từng bộ phận, đơn vị trong các cơ quan Hải quan. Định kỳ kiểm tra
việc sao lưu, an toàn dữ liệu của đơn vị và các đơn vị trực thuộc.
- Thực hiện cung cấp, truyền nhận, trao đổi dữ liệu theo yêu cầu và quy
định của ngành và đơn vị.
• Tăng cường sử dụng văn bản điện tử, ứng dụng CNTT trong công
tác quản lý

- Thực hiện số hoá thông tin quản lý hải quan (tờ khai hải quan, các
chứng từ hải quan, các quyết định xử lý, ) và thông tin quản lý nội bộ (hồ sơ
cán bộ, tài chính nội bộ, tài sản, ). Các thông tin lưu trữ thông qua các ứng
dụng CNTT trên mạng phải đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn, dễ quản lý,
truy nhập; tìm kiếm để khai thác sử dụng.
- Thực hiện ứng dụng CNTT để quản lý quá trình xử lý công văn, hồ sơ
về hải quan gửi tới cơ quan Hải quan.
- Cập nhật đầy đủ các nội dung văn bản do cơ quan Hải quan phát hành.
Tổ chức phân loại, sắp xếp tài liệu trên mạng đảm bảo dễ dàng tra cứu, tìm
kiếm. áp dụng rộng rãi việc tra cứu hoặc gửi văn bản, pháp quy trên mạng, giảm
dần việc sao chụp văn bản giấy để gửi cho các đơn vị trực thuộc.
- Thực hiện chia sẻ thông tin trên môi trường mạng theo yêu cầu các quy
trình, hành tự công việc quản lý hải quan và quản lý hoạt động nội bộ do Tổng
cục và thủ trưởng đơn vị ban hành.
- Mỗi cán bộ trong ngành Hải quan được cấp tài nguyên mạng, một tài
khoản (account) và mật khẩu để đăng nhập vào mạng của ngành, sử dụng hộp
thư điện tử (email) để trao đổi thông tin nội bộ và truy cập internet. Cán bộ cần
sử dụng đúng account của mình để truy cập hệ thống mạng phục vụ cho công
việc và định kỳ nên thay đổi mật khẩu của cá nhân để đảm bảo tính bảo mật
thông tin.
• Điều hành và làm việc trên môi trường mạng
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 14 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
- Cơ quan Hải quan các cấp có trách nhiệm cải tiến và chuẩn hoá các quy
trình công việc theo hướng phù hợp với chương trình cải cách hành chính hải
quan, và phát huy tối đa khả năng ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực công việc
- Cán bộ sử dụng máy tính để khai thác các ứng dụng CNTT hiện có
ngành Hải quan để xử lý, thực hiện công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ được
giao. Lãnh đạo là cấp trưởng trong cơ quan Hải quan các cấp thực hiện điều
hành, chỉ đạo công việc thông qua hệ thống ứng dụng CNTT.

• Trao đổi thông tin điện tử với các cơ quan ngoài ngành Hải quan
- Cơ quan Hải quan có trách nhiệm kết nối mạng trao đổi thông tin và
cung cấp dịch vụ hải quan theo chức năng, nhiệm vụ quy định. Việc kết nối
mạng Internet trong ngành Hải quan tuân thủ theo quy định Pháp luật, quy định
của ngành Hải quan và các cơ chế phối hợp công tác với các cơ quan ngoài
ngành Hải quan.
- Việc trao đổi, cung cấp nội dung thông tin về hải quan phải đảm bảo
các quy định về bảo mật thông tin của nhà nước.
- Cán bộ không tự ý cắm hệ thống kết nối mạng không dây (wireless) và
các thiết bị mạng (accesspoint, thiết bị thu phát wifi, đường truyền ADSL, hub,
switch, ) để thực hiện kết nối trao đổi thông tin với bên ngoài.
• Phát triển hạ tầng CNTT
- Nhằm đảm bảo tốt hạ tầng kỹ thuật cho triển khai tin học hoá quy
trình nghiệp vụ Hải quan và thực hiện cải cách, hiện đại hoá Hải quan, Tổng cục
Hải quan đã quy hoạch hệ thống mạng, trang thiết bị trong Ngành, xây dựng kế
hoạch đầu tư trang bị hàng năm đảm bảo hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu sử
dụng và triển khai các phần mềm ứng dụng.
- Ưu tiên nguồn kinh phí hàng năm cho các dự án mua sắm CNTT tập
trung, đảm bảo đủ đáp ứng các nhu cầu về trang thiết bị cho các cấp Hải quan.
Đẩy nhanh các thủ tục để sớm giao dự toán để Tổng cục Hải quan sớm triển
khai các thủ tục mua sắm theo quy định, đảm bảo tiến độ giải ngân và đáp ứng
nhu cầu về trang thiết bị CNTT của các đơn vị Hải quan.
• Phát triển nguồn nhân lực CNTT
- Cơ quan Hải quan từng cấp phân công một lãnh đạo đơn vị trực tiếp
phụ trách công tác ứng dụng CNTT (giữ vai trò CIO - giám đốc CNTT). Lãnh
đạo phụ trách CNTT là người hiểu rõ cơ chế, hoạt động của cơ quan để chỉ đạo
cải tiến đưa CNTT vào áp dụng trong hoạt động của đơn vị.
- Bộ máy tổ chức tin học của ngành Hải quan gồm: Tổng cục Hải quan
có Cục CNTT&TKHQ thực hiện chức năng chỉ đạo, quản lý nhà nước về lĩnh
vực ứng dụng CNTT trong toàn ngành Hải quan. Cục Hải quan có Trung tâm

GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 15 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
Dữ liệu và CNTT có chức năng tổ chức triển khai ứng dụng CNTT trong toàn
đơn vị thuộc và trực thuộc. Chi cục Hải quan có nhóm tin học.
- Cơ quan Hải quan có trách nhiệm bố trí đủ cán bộ CNTT theo yêu cầu
kế hoạch triển khai ứng dụng CNTT của ngành; Tạo thuận lợi về điều kiện làm
việc, sử dụng cơ sở hạ tầng thông tin và trang thiết bị cho cán bộ tin học thực
hiện nhiệm vụ được giao; có chương trình, kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn tin học thường xuyên và dài hạn cho cán bộ tin học.
1.4. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN CỦA HẢI QUAN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.4.1. Công tác ứng dụng CNTT của Hải quan Singapore
Trong cộng đồng hải quan, Hải quan Singapore được nhìn nhận là một
trong những cơ quan đứng đầu trong tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thương
mại đồng thời vẫn đảm bảo kiểm soát hải quan chặt chẽ.
Để có được đánh giá như vậy, trong nhiều năm qua Hải quan Singapore
thực hiện các chiến lược, kế hoạch hành động cũng như đề ra được một lộ trình
hiện đại hoá một cách hợp lý và phù hợp với sự phát triển của quốc gia cũng như
quốc tế.
Cũng như hầu hết các chiến lược hiện đại hoá của Hải quan các nước trên
thế giới, điểm chung trong các trong chiến lược, kế hoạch này là tập trung vào
việc triển khai áp dụng nhiều kỹ thuật hiện đại, nhất là là công nghệ thông tin
nhằm cải cách hoạt động quản lý của cơ quan hải quan, đặc biệt là trong công
tác thông quan hàng hoá và phân loại hàng hoá. Chính công nghệ thông tin đã
góp một phần rất lớn trong việc thay đổi một phương pháp quản lý hải quan theo
hướng mới đó là chuyển từ việc xử lý các giao dịch dựa trên giấy tờ sang xử lý
các giao dịch điện tử, điều này cũng đã cho phép Hải quan Singapore vẫn hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình với một nguồn lực hạn chế.
Với nhận thức tiến trình tin học các qui trình nghiệp vụ, thủ tục hải quan
là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải có các bước đi thích hợp, không thể hoàn

thành trong một thời gian ngắn và càng không thể tách rời với chiến lược, kế
hoạch công nghệ thông tin của quốc gia, Hải quan Singapore đã chia lộ trình áp
dụng CNTT theo từng giai đoạn khác nhau, phù hợp với chiến lược phát triển
CNTT của quốc gia. Với cách thức thực hiện như vậy đã cho phép hải quan
Singapore tận dụng được nhiều cơ hội, nhiều lợi thế như: sự ủng hộ từ các chính
phủ, sự nhận thức thống nhất và phối hợp tốt trong các cơ quan chính phủ về
vấn đề hỗ trợ, trao đổi thông tin thông tin, sự ủng hộ và tham gia tích cực của
cộng đồng doanh nghiệp, hạ tầng về công nghệ thông tin…
Bên cạnh đó, để đảm bảo luôn cập nhật được các thành tựu hiện đại nhất
của công nghệ thông tin và đảm bảo tính chuyên nghiệp trong việc xây dựng cơ
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 16 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
sở hạ tầng công nghệ thông tin cho ngành hải quan, thiết kế triển khai phần mềm
ứng dụng Hải quan Singapore đã thực hiện theo cơ chế thuê các công ty công
nghệ thông tin trong và ngoài tham gia dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của
hải quan. Có thể kể đến một số ứng dụng công nghệ thông tin tiêu biểu mà Hải
quan Singapore hợp tác với các đối tác bên ngoài để xây dựng và đã đưa vào
ứng dụng như:
Hệ thống thông quan điện tử: Hệ thống thông quan điện tử của Hải quan
Singapore được thiết kết xây dựng và triển khai theo mô hình tập trung bao
gồm thành phần chính: một để phục vụ cho việc giao tiếp với bên ngoài (do
công ty CrimsonLogic quản lý) và một để phục cho công tác quản lý của cơ
quan hải quan sử dụng mạng (do công ty National Computer System xây dựng).
Bên cạnh đó, trong nỗ lực tiếp tục rút ngắn hơn nữa thời gian thông quan,
Hải quan Singapore ban hành các qui định và xây dựng các hệ thống CNTT cho
phép tiếp nhận trước các thông tin liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu từ
doanh nghiệp. Điều này cho phép Hải quan có nhiều thới gian và thông tin hơn
để phân tích, đánh giá về lô hàng từ đó có thể quyết định thông quan ngay (đối
với các lô hàng thuộc luồng xanh) hay tiến hành kiểm tra thực tế (đối với những
lô hàng thuộc luồng đỏ) khi hàng vừa đến cảng, vì vậy rút ngắn được thời gian

thông quan.
Hệ thống thông quan trước đối với vận chuyển hàng chuyển phát
nhanh: Hệ thống này ra đời năm 1994 nhằm thúc đẩy thông quan trước đối với
vận chuyển hàng hoá chuyển phát nhanh đường hàng không. Với hệ thống này,
các công ty chuyển phát nhanh theo đường hàng không có thể chuyển các thông
tin bằng điện tử tới Hải quan và nhận hướng dẫn kiểm tra trước thông quan và
kết quả này nhanh hơn so với thông quan qua cửa khẩu.
Hệ thống thông quan điện tử đối với Container: Hải quan áp dụng hệ
thống thông quan điện tử cho container ở tất cả các cửa khẩu từ tháng 8/1999.
Với hệ thống này, những người vận chuyển không cần xuất trình bản copy cứng
của giấy phép thông quan hàng hoá cho Hải quan, và kết quả đã rút ngắn được
thời gian thông quan.
Hệ thống xác định mục tiêu trọng điểm: Việc xác định mục tiêu trọng
điểm hàng hoá xuất nhập khẩu do hệ thống này thực hiện. Hệ thống này được
kết nối với các hệ thống của các cơ quan có liên quan khác để thực hiện việc
trao đổi các thông tin phục vụ cho việc phân luồng dữ liệu khai hải quan. Trong
hệ thống này đã được thiết lập các tiêu chí lựa chọn, theo định kỳ hoặc trong
trường hợp cần thiết hải quan sẽ thiết lập hay thay đổi các tiêu chí này để đảm
bảo luôn phù hợp với tình hình thực tế của hoạt động xuất nhập khẩu, bên cạnh
đó trên hệ thồng còn lưu giữ các thông tình báo phục vụ cho công tác phân tích
dữ liệu kiểm tra thông quan hàng hoá. Các dữ liệu khai hải quan của các nhà
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 17 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
nhập khẩu, xuất khẩu khi chuyển đến (qua hệ thống Tradenet) sẽ được hệ thống
phân luồng kiểm tra dựa trên việc so sánh với các tiêu chí cũng các thông tin
tình báo hải quan sau đó truyền kết quả cho các đơn vị Hải quan tại các cửa khẩu
để quyết định về hình thức, mức độ kiểm tra hàng hoá hay thông quan ngay.
Hiện nay, trung bình các lô hàng được thông quan trong vòng 10 phút.
Hệ thống nộp thuế và lệ phí điện tử: Theo qui định của Singapore việc
nộp thuế hải quan và các khoản lệ phí khác được thực hiện trên cơ sở tự khai, tự

tính và tự nộp. Nhà nhập khẩu, xuất khẩu sẽ thực hiện việc khai hải quan, tự tính
thuế và tự nộp thuế và các loại lệ phí khác quan hệ thống liên ngân hàng tại hệ
thống máy tính được kết nối với hệ thống TradeNet, khoảng vài phút sau sẽ
nhận được thông báo cụ thể về thông tin liên quan đến thông quan lô hàng, trong
trường hợp lô hàng được thông quan thì lệnh thông quan sẽ được gửi đến hệ
thống máy tính của nhà nhập khẩu/xuất khẩu, trong trường hợp ngược lại thì hệ
thống gửi một thông báo nêu rõ lý do từ chối hay các yêu cầu cung cấp thêm các
số liệu cần thiết.
Mở rộng kết nối thông qua mạng giá trị gia tăng: Ở Singapore có một số
tổ chức, công ty cung cấp mạng giá trị gia tăng (VAN) tuy nhiên hiện tại chỉ duy
nhất mạng TradeNet do công ty CrimsonLogic là đơn vị xây dựng, quản lý và
duy trì hoạt động là được sử dụng để khai hải quan. Doanh nghiệp khi thực hiện
các giao dịch địên tử liên quan đến hải quan có thể lựa chọn kết nối với
TradeNet theo nhiều hình thức khác nhau như quay số, kênh thuê riêng, mạng
riêng ảo, Internet trong đó hình thức kết nối Internet là phổ biến nhất (hơn
50%). Tuy nhiên để tăng tính cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, Hải quan
Singapore đang có kế hoạch tìm thêm nhà cung cấp dịch vụ khác. Chính phủ
Singapore cũng chủ trương cho phép nhiều công ty cung cấp dịch vụ VAN hoạt
động.
Một kết quả rõ ràng là nhờ vào các hệ thống trên và các chính sách, qui
định phù hợp, hiệu quả hoạt động của cơ quan Hải quan không ngừng được nâng
cao. Đến năm 1996 các thủ tục hải quan liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu
đều đã được đơn giản hoá, minh bạch hoá và được thực hiện một cách thống
nhất trên toàn quốc. Thời gian thông quan trung bình cho một lô hàng giảm từ
vài ngày xuống chỉ còn vài phút. Hiện nay tất cả các doanh nghiệp tại Singapore
đều thực hiện các thủ tục hải quan và các giao dịch liên quan đến hải quan qua
các hệ thống tự động, không có trường hợp nào thực hiện theo phương pháp thủ
công.
1.4.2. Hệ thống thông quan NACCS của Hải quan Nhật Bản
Để đạt được mục tiêu hiện đại hoá tất cả quy trình nghiệp vụ hải quan,

Hải quan Nhật Bản đã phải nỗ lực từng bước khắc phục những khó khăn và cản
ngại. Một trong những điều mà Hải quan Nhật Bản coi trọng trong quá trình
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 18 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
hiện đại hoá là ứng dụng toàn diện quy trình tin học vào công tác nghiệp vụ,
trong đó trọng tâm là hệ thống thông quan điện tử NACCS.
1.4.2.1. Triển khai thành công hệ thống thông quan NACCS
Hải quan Nhật Bản tiến hành đề án tin học hoá ngành hải quan bắt đầu từ
năm 1978 với việc áp dụng Hệ thống tin học hải quan tự động (NACCS), xử lý
các vấn đề liên quan đến thủ tục thương mại nhằm cải thiện và đẩy nhanh quá
trình thông quan hàng hoá. Hệ thống này đóng vai trò then chốt trong việc tiến
đến mục tiêu chính của Hải quan Nhật Bản là thiết lập dịch vụ thông quan “một
cửa” cho khách hàng.
Cuộc cách mạng tin học hoá trong Hải quan Nhật Bản mang lại lợi ích
không chỉ đối với ngành Hải quan mà còn cả đối với cả giới doanh nghiệp.
Quá trình thông quan hàng hoá diễn ra nhanh hơn, tiết kiệm đáng kể thời
gian và tiền bạc cho giới doanh nghiệp, trong khi đó công tác quản lý của ngành
Hải quan được chuyển từ quản lý và giao dịch trên giấy tờ sang quản lý và giao
dịch bằng tin học, giúp công việc đơn giản và hiệu qủa hơn rất nhiều.
Việc áp dụng tin học hoá của Hải quan Nhật Bản thực sự nhảy vọt trong
tiến trình cải cách, hiện đại hoá. Hệ thống NACCS của Hải quan Nhật Bản hiện
nay được coi như mô hình giao diện chuẩn cho các cơ quan hữu trách có liên
quan khác phát triển hệ thống tin học của mình.
1.4.2.2. Hàng hóa XNK được thông quan nhanh chóng
Theo quy định chung đối với hàng hóa XNK, việc khai báo thực hiện qua
Hệ thống thông quan tự động NACCS. Hệ thống NACCS được vận hành như
sau: Đầu tiên người khai thuê sẽ nhập dữ liệu thông tin cần thiết để khai báo về
lô hàng XNK bằng máy vi tính của mình.
Sau khi xử lý thông tin, hệ thống sẽ “chạy” và tự động hiện ra những quy
định hiện hành có liên quan, tự động tính ra số thuế phải nộp để hoàn thiện tờ

khai và in nội dung đó ngay tại máy tính trạm của người sử dụng. Sau đó, một
chuyên gia về hải quan (là người được cơ quan Hải quan cấp chứng nhận và làm
việc trong công ty khai thuê, không phải công chức hải quan) xác nhận và
chuyển tờ khai này tới cơ quan Hải quan qua hệ thống. Hệ thống NACCS sẽ tự
động lựa chọn cách thức, quy trình kiểm tra dựa trên khai báo.
Có 3 hình thức kiểm tra hải quan: kiểm tra đơn giản, kiểm tra chứng từ và
kiểm tra thực tế hàng hóa. Đối với hình thức kiểm tra đơn giản, cơ quan Hải
quan sẽ chấp nhận cho hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ngay lập tức, đó là đối
với các trường hợp hàng hóa miễn thuế; thuế đã được nộp qua tài khoản điện tử
hoặc được chấp nhận nợ thuế.
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 19 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
Đối với hình thức thứ 2 (kiểm tra chứng từ), người XNK phải xuất trình
một bản photocopy tờ khai cho cơ quan Hải quan cùng với các chứng từ cần
thiết như invoice Việc kiểm tra chứng từ do công chức hải quan thực hiện, sau
đó hàng hóa XNK khai báo được chấp thuận (đối với hàng có thuế, sau khi việc
nộp thuế được xác nhận). Lệnh chấp nhận thông quan sẽ được cung cấp cho máy
tính trạm của người nhập khẩu hoặc người khai thuê.
Đối với hình thức thứ 3 (kiểm tra thực tế hàng hóa), thủ tục như đối với
hình thức thứ 2, nhưng công chức hải quan sẽ tiếp tục kiểm tra thực tế hàng hóa
sau khi đã kiểm tra chứng từ. Cơ quan Hải quan có thể kiểm tra thực tế hàng hóa
tại: nơi lưu giữ hàng hóa; lấy mẫu về kiểm tra; kiểm tra trong khu vực kiểm tra
hải quan. Khi hoàn thành việc kiểm tra, hàng hóa sẽ được chấp nhận thông quan
thực sự, riêng đối với hàng NK có thuế, chỉ sau khi doanh nghiệp nộp thuế.
Theo thống kê của Hải quan Nhật Bản, có khoảng 70% lượng hàng hóa
XNK áp dụng hình thức kiểm tra đơn giản, 25% lượng hàng hóa kiểm tra hồ sơ,
còn lại chỉ có 5% hàng hóa phải kiểm tra thực tế.
1.4.2.3. Các bước thủ tục đối với hàng xuất khẩu
Sau khi khai báo qua mạng thông tin, trước hết hàng hóa XK sẽ được đưa
vào khu vực Hozei (khu vực dành riêng cho hàng hóa XNK); Người làm thủ tục

hải quan sẽ xuất trình invoice và các chứng từ khác như chấp nhận thông quan
(trước đó đã được xử lý qua NACCS), giấy phép khác nếu có.
Cơ quan Hải quan tiến hành kiểm tra một lần nữa tờ khai XK đã được cho
phép XK và các chứng từ khác. Việc kiểm tra chứng từ được thực hiện trong
trường hợp: sự phân loại đúng theo Danh mục dữ liệu hàng xuất khẩu; hàng hóa
phù hợp; việc áp dụng cho hàng hóa được phép miễn thuế là chính xác.
Khi kiểm tra những chứng từ được xuất trình, cơ quan Hải quan quyết
định hàng hóa nào sẽ phải kiểm tra thực tế để xác định chắc chắn rằng việc phân
loại hàng hóa là chính xác, cũng như phù hợp với quy định của các luật khác.
Trong một số trường hợp, chủ hàng XK phải xin giấy phép của các cơ
quan chức năng khác trước khi làm thủ tục hải quan như Bộ Kinh tế và Thương
mại; Bộ Sức khoẻ và Lao động Việc làm
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 20 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG NGÀNH HẢI QUAN
CỦA CỤC CNTT&TKHQ
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CỤC CNTT&TKHQ
2.1.1. Đặc điểm, tình hình đơn vị:
Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan (Cục CNTT&TKHQ)
thuộc Tổng cục Hải quan được thành lập theo Quyết định số 40/2001/QĐ-TTg
ngày 26/03/2001 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Tin
học và Thống kê Hải quan. Đây là lần đầu tiên Chính phủ quyết định thành lập
một cục công nghệ thông tin trong khối các cơ quan thuộc Chính phủ.
Kết quả xây dựng, phát triển và trưởng thành trong 10 năm qua của Cục
CNTT&TKHQ chính là nhờ vào nền tảng hơn 22 năm xây dựng và phát triển từ
các đơn vị tiền thân trước kia là Tổ Máy tính điện tử thuộc Văn phòng Tổng cục
(thành lập tháng 3/1987), Phòng Thống kê - Máy tính thuộc Tổng cục Hải quan
(thành lập tháng 2/1990) và sau đó là Trung tâm Tin học và Thống kê hải quan
thuộc Tổng cục Hải quan (thành lập tháng 3/1994).

2.1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ:
Cục CNTT&TKHQ có chức năng và các nhiệm vụ chính sau:
a) Chức năng:
- Giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra các đơn vị trong ngành Hải quan thực hiện ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động hải quan và thống kê nhà nước về hải quan; trực tiếp tổ chức
ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động hải quan và thống kê nhà nước
về hải quan thuộc phạm vi nhiệm vụ được giao.
b) Nhiệm vụ:
- Chủ trì nghiên cứu xây dựng hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy
định về công nghệ thông tin ứng dụng vào hoạt động hải quan và các văn bản
quy định thống kê nhà nước về hải quan trình cấp có thẩm quyền ban hành.
- Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị trong ngành Hải quan trong việc thực
hiện ứng dụng công nghệ thông tin và thống kê nhà nước về hải quan.
- Thống nhất quản lý và chủ trì xây dựng, triển khai, duy trì, đảm bảo an
ninh an toàn đối với hệ thống phần cứng, mạng máy tính, phần mềm hệ thống,
phần mềm ứng dụng và các trang thiết bị kỹ thuật có kết nối với hệ thống công
nghệ thông tin trong ngành Hải quan.
- Xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu điện tử của ngành Hải quan; Quản lý và
vận hành các Trung tâm cơ sở dữ liệu của Tổng cục Hải quan.
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 21 SV: Hoàng Thị Tú
Chuyên đề thực tập
- Chủ trì thực hiện kết nối, trao đổi dữ liệu điện tử giữa ngành Hải quan
với các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng, phát triển và đảm bảo hoạt động cho cổng thông tin điện tử
của ngành Hải quan.
- Tổ chức thực hiện thống kê nhà nước về hải quan, bao gồm: chuẩn hóa
chứng từ thu thập thông tin, xử lý dữ liệu thống kê, đề xuất báo cáo thống kê,
cung cấp và lưu trữ thông tin thống kê hải quan, phân tích dự báo, tổ chức điều
tra đo lường các chỉ số liên quan đến các hoạt động hải quan.

- Tham mưu, đề xuất các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, chấn chỉnh, cải tiến
trong công tác ứng dụng công nghệ thông tin và thống kê nhà nước về hải quan
cho phù hợp với hoạt động của ngành Hải quan.
- Nghiên cứu khoa học, tham gia xây dựng chương trình, nội dung và
giảng dạy về công nghệ thông tin và thống kê tại các cơ sở đào tạo nghiệp vụ hải
quan.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức:
Hiện tại Cục CNTT&TKHQ có tổng số 68 người (54 công chức, 13 hợp
đồng lao động không xác định thời hạn chuyên trách công tác công nghệ thông
tin, 01 hợp đồng lao động lái xe theo nghị định 68/2000/NĐ-CP), trong đó 66/68
người (97,1 %) có trình độ đại học trở lên, 11/68 người có trình độ thạc sỹ và
tiến sỹ (16,2%) và 2/68 trình độ trung cấp (2,9%).
Lãnh đạo Cục gồm 5 đồng chí: Cục trưởng và 4 Phó cục trưởng.
Cục CNTT&TKHQ hiện tại có 4 Phòng và 1 Trung tâm cơ sở dữ liệu hải
quan:
- Phòng Tổng hợp
- Phòng Công nghệ thông tin
- Phòng Quản lý đảm bảo hệ thống
- Phòng Thống kê hải quan
- Trung tâm cơ sở dữ liệu hải quan
2.1.1.3. Tổ chức Đảng và đoàn thể:
a) Tổ chức Đảng:
Chi bộ Cục CNTT&TKHQ là chi bộ thuộc Đảng bộ cơ quan Tổng cục
Hải quan, có 28 đảng viên. Chi ủy có 5 đồng chí (Bí thư, Phó bí thư và Chi ủy
viên).
b) Tổ chức Công đoàn:
GVHD: PGS.TS Nguyễn Văn Tuấn 22 SV: Hoàng Thị Tú

×