Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Nghiên cứu kỹ thuật ương giống cá chình hoa (Anguilla Marmorata Quoy & Gaimard, 1824) trong bể tuần hoàn khép kín, cung cấp oxy nguyên chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.1 MB, 56 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG






NGUYỄN THANH DŨNG




NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT ƯƠNG GIỐNG CÁ CHÌNH HOA
(ANGUILLA MARMORATA QUOY & GAIMARD, 1824)
TRONG BỂ TUẦN HOÀN KHÉP KÍN, CUNG CẤP OXY
NGUYÊN CHẤT





LUẬN VĂN THẠC SỸ










Khánh Hoà - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





NGUYỄN THANH DŨNG




NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT ƯƠNG GIỐNG CÁ CHÌNH HOA
(ANGUILLA MARMORATA QUOY & GAIMARD, 1824)
TRONG BỂ TUẦN HOÀN KHÉP KÍN, CUNG CẤP OXY
NGUYÊN CHẤT




LUẬN VĂN THẠC SỸ

Ngành : Nuôi trồng thuỷ sản
Mã số: 60620301



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS LÊ ANH TUẤN

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG KHOA SAU ĐẠI HỌC




Khánh Hoà - 2014
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả luận văn này là hoàn toàn do tôi nghiên cứu và thực
hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Lê Anh Tuấn và Th.S. Hoàng Văn Duật chủ
nhiệm dự án “Hoàn thiện công nghệ ương giống và nuôi thương phẩm cá chình
hoa (Anguilla marmorata) theo hình thức công nghiệp”
Các số liệu trong luận văn là hoàn toàn chính xác, trung thực và chưa từng có ai
công bố kết quả này. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những kết quả đã nêu
trong luận văn này.
Tác giả


Nguyễn Thanh Dũng














ii


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trung tâm Tư vấn, Sản xuất và Dịch
vụ Khoa học công nghệ Thuỷ sản, Ban lãnh đạo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ
sản III, đã tài trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để tôi
hoàn thành khoá học.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn TS. Lê Anh Tuấn
đã tận tình hướng dẫn và động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Hoàng Văn Duật chủ nhiệm dự án đã tạo mọi điều
kiện để giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin cảm ơn Ban lãnh đạo Công ty TNHH Nuôi trồng Thuỷ sản Vạn Xuân
cùng tập thể cán bộ, công nhân viên Công ty đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật
chất và trang thiết bị để tôi thực hiện đề tài.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cô giáo trong Viện Nuôi trồng thuỷ sản -
Trường Đại học Nha Trang, các bạn đồng nghiệp, các bạn cùng lớp khoá học 2012 –
2014 đã luôn sẵn lòng giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Cảm ơn gia đình đã luôn luôn ủng hộ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các tập thể, cá nhân đã giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện luận văn.













iii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN 3
1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá chình 3
1.1.1. Vị trí phân loại 3
1.1.2. Đặc điểm hình thái 3
1.1.3. Sự phân bố 3
1.1.4. Đặc điểm về dinh dưỡng 4
1.1.5. Sinh sản 5
1.2. Tình hình nuôi cá chình 5
1.2.1. Tình hình nuôi cá chình trên thế giới 5

1.2.2. Tình hình nuôi cá chình tại Việt Nam 8
1.2.3. Một số bệnh thường gặp trên cá chình 9
1.3. Một số nghiên cứu về mô hình ương nuôi cá chình 10
1.3.1. Tại Trung Quốc 10
1.3.2. Tại Nhật Bản 11
1.3.3. Một số mô hình ương cá chình tại Việt Nam 11
CHƯƠNG II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 14
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 14
2.1.2. Thời gian nghiên cứu 14
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu 14
2.2. Phương pháp nghiên cứu 14
2.2.1. Sơ đồ khối nghiên cứu 14
2.2.2. Nội dung nghiên cứu 15
iv

2.2.3. Hệ thống thiết bị phục vụ đề tài 16
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu 23
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 24
3.1. Mùa vụ, kỹ thuật thu vớt và vận chuyển cá chình bột trắng tại các tỉnh Quảng
Ngãi, Bình Định và Phú Yên 24
3.1.1. Mùa vụ cá chình xuất hiện 24
3.1.2. Dụng cụ và phương pháp khai thác 25
3.1.3. Lưu giữ và vận chuyển 28
3.2. Kết quả thí nghiệm ương giống cá chình cấp I 29
3.2.1. Các yếu tố môi trường trong quá trình thí nghiệm 29
3.2.2. Ảnh hưởng của mật độ ương lên TĐTT của cá chình giống cấp I 30
3.2.3. Ảnh hưởng của mật độ ương giống cá chình lên tỷ lệ sống và FCR 32
3.2.4. Hạch toán hiệu quả kinh tế của quá trình ương giống cá chình cấp I 33
3.3. Kết quả thí nghiệm ương giống cá chình cấp II. 34

3.3.1. Các yếu tố môi trường trong quá trình thí nghiệm 34
3.3.2. Ảnh hưởng của mật độ ương lên TĐTT của cá chình giống cấp II 34
3.3.3. Ảnh hưởng của mật độ ương giống cá chình lên tỷ lệ sống và FCR 37
3.3.4. Hạch toán hiệu quả kinh tế của quá trình ương giống cá chình cấp II 38
3.4. Dự thảo các quy trình 39
3.4.1. Dự thảo quy trình lưu giữ, vận chuyển và thuần hoá cá chình bột trắng 39
3.4.2. Dự thảo quy trình ương giống cá chình cấp I 40
3.4.3. Quy trình ương giống cá chình cấp II 42
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 43
4.1. Kết luận 43
4.2. Đề xuất ý kiến 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
PHỤ LỤC
v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BOD Nhu cầu oxy sinh học (Biological Oxygen Demand)
CDTB Chiều dài trung bình
DGR Tốc độ sinh trưởng hằng ngày (Daily Growth Rate)
DO Hàm lượng oxy hoà tan (Dissolved Oxygen)
FCR Hệ số chuyển đổi thức ăn (Food Conversion Ratio)
KLTB Khối lượng trung bình
NTTS Nuôi trồng thuỷ sản
SGR Tốc độ sing trưởng đặc trưng (Specific Growth Rate)
TĐTT Tốc độ tăng trưởng
TLS Tỷ lệ sống

vi


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3. 1. Khả năng đánh bắt của các dụng cụ khai thác cá chình bột trắng 27
Bảng 3. 2. Các yếu tố môi trường trong quá trình ương giống cấp I cá chình 29
Bảng 3. 3. Kết quả tăng trưởng của cá chình giống cấp I 31
Bảng 3. 4. Kết quả theo dõi tỷ lệ sống và FCR của cá chình giống cấp I 32
Bảng 3. 5. Hạch toán hiệu quả kinh tế của quá trình ương giống cấp I 33
Bảng 3. 6. Các yếu tố môi trường trong quá trình ương giống cấp II cá chình 34
Bảng 3. 7. Kết quả tăng trưởng của cá chình giống cấp II 36
Bảng 3. 8. Kết quả theo dõi tỷ lệ sống và FCR của cá chình giống cấp II 37
Bảng 3. 9. Hạch toán hiệu quả kinh tế của quá trình ương giống cấp II 38


vii

DANH MỤC HÌNH

Hình 1. 1. Hình dạng ngoài của cá chình hoa 3
Hình 1. 2. Tổng sản lượng nuôi cá chình Nhật trên thế giới 7
Hình 1. 3. Tổng sản lượng nuôi cá chình Châu Âu trên thế giới 7
Hình 2. 1. Sơ đồ khối nghiên cứu 14
Hình 2. 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm ương giống cá chình hoa cấp I 15
Hình 2. 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm ương giống cá chình hoa cấp II 16
Hình 2. 1. Sơ đồ hệ thống sản xuất oxy 17
Hình 2. 5. Bình tam giác (Speece) trộn oxy 18
Hình 2. 6. Hệ thống chai khí oxy dự phòng khi điện lưới hoặc máy làm oxy có sự cố18
Hình 2. 7 . Sơ đồ cấu tạo bộ lọc sinh học 19
Hình 2. 8. Hộp phân tích nước dung loại bỏ các chất thải lơ lửng trong nước 20
Hình 2. 9. Mô tả sơ đồ bố trí thí nghiệm ương giống cá chình 21
Hình 3. 1. Mùa vụ xuất hiện của cá chình tại Phú Yên, Bình Định và Quảng Ngãi 24

Hình 3. 2. Lưới xúc dùng để vớt cá chình bột trắng 25
Hình 3. 3. Đăng đáy dùng để đánh bắt cá chình bột trắng 25
Hình 3. 4. Te dùng để khai thác cá chình bột trắng 26
Hình 3. 5. Dùng dụng cụ bổi để thu cá chình bột trắng 27
Hình 3. 6. Quá trình đóng cá chình bột trắng 28
Hình 3. 7. KLTB cá chình giống cấp I qua thời gian thí nghiệm 30
Hình 3. 8. CDTB của cá chình giống cấp I qua thời gian thí nghiệm 30
Hình 3. 9. KLTB của cá chình giống cấp II qua thời gian thí nghiệm 35
Hình 3. 10. CDTB của cá chình giống cấp II qua thời gian thí nghiệm 36
1

MỞ ĐẦU

Cá chình hoa (Anguilla marmorata) là loài cá có phần lớn đời sống ở nước
ngọt, giá trị dinh dưỡng cao, thịt thơm ngon. Vì vậy nghề nuôi cá chình ở một số nước
trên thế giới phát triển mạnh. Tuy nhiên, do kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá chình nói
chung và cá chình hoa nói riêng chưa có nhiều tiến bộ nên nguồn cá giống hiện nay
vẫn còn phụ thuộc hoàn toàn vào lượng cá chình bột trắng vớt ngoài tự nhiên.
Nuôi cá chình theo qui mô công nghiệp đã chứng tỏ tính ưu việt là có khả năng
nuôi với mật độ cao, năng suất lớn tốc độ sinh trưởng nhanh, rút ngắn thời gian nuôi,
hoàn toàn chủ động trong sản xuất và thời điểm thu hoạch đã mang lại lợi ích to lớn
cho nghề nuôi cá.
Tại Trung Quốc, để gia tăng nguồn lợi cá chình hoa của đất nước, cứu vãn nguy
cơ loài cá này bị tiêu diệt, đồng thời thoả mãn nhu cầu của thị trường, quốc gia này đã xúc
tiến việc nuôi cá theo phương pháp công nghiệp, sử dụng hệ thống tuần hoàn kín nhờ đó đã
thúc đẩy sự phát triển nghề nuôi cá chình nhằm mục đích sử dụng bền vững nguồn lợi [24].
Theo báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu công nghệ và xây dựng mô hình
ương cá chình (Anguilla spp.) lên giống theo phương thức công nghiệp” do công nghệ
ương chưa hoàn chỉnh nên tỷ lệ cá chết ngay trong tháng đầu có khi lên đến 35 - 45%.
Ở mật độ nuôi 2500 con/m

3
nhiệt độ nuôi 25 - 30
0
C thời gian ương để cá chình có kích
thước từ 4 - 6 cm/con lên thành cá giống 15 - 20 cm/con (5 - 6 g/con) kéo dài từ 6 - 8
tháng [5]. So với kết quả ương cá chình giống của Trung Quốc, Hàn Quốc và một số
nước lân cận thì kết quả này còn thấp. Nguyên nhân quan trọng là môi trường nuôi như:
nhiệt độ, DO, không ổn định, nước nuôi chưa được xử lý triệt để. Nhiều trường hợp thiết
bị xử lí nước không hoạt động phải thay toàn bộ nước dẫn đến cá bị sốc, ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả ương.
Trước nhu cầu thực tiễn của sản xuất, để làm cơ sở cho việc phát triển nghề
nuôi cá chình, với mong muốn giải quyết tốt nguồn cá chình giống đóng góp cho sự
phát triển nghề nuôi cá chình nước ta, cần thiết khắc phục những nhược điểm các thí
nghiệm ương cá chình trước đây nhằm đạt yêu cầu của đề tài đề ra là nâng cao mật độ
ương lên 2 - 3 lần, giảm tỷ lệ cá chết ở giai đoạn đầu để đạt tỷ lệ sống 80 - 90%, rút
ngắn thời gian ương 2 - 3 tháng và được sự đồng ý của Viện Nuôi trồng Thuỷ sản,
Trường Đại học Nha Trang, đề tài: “Nghiên cứu kỹ thuật ương giống cá chình hoa
(Anguilla marmorata Quoy & Gaimard, 1824) trong bể tuần hoàn khép kín, cung
cấp oxy nguyên chất” đã được thực hiện.
2

 Mục tiêu của đề tài: Nghiên cứu kỹ thuật ương cá chình giống với mật độ
thích hợp sử dụng oxy nguyên chất nhằm mục đích đạt tỷ lệ sống và tốc độ tăng
trưởng cao.
 Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu kỹ thuật thu vớt, lưu giữ, vận chuyển cá chình bột trắng.
- Kỹ thuật ương giống cá chình cấp I trong bể tuần hoàn kín cung cấp oxy
nguyên chất
- Kỹ thuật ương giống cá chình cấp II trong bể tuần hoàn kín cung cấp oxy
nguyên chất

- Dự thảo các quy trình kỹ thuật: Quy trình lưu giữ, vận chuyển và thuần hoá
cá chình bột trắng; quy trình ương giống cá chình trong bể tuần hoàn kín cung cấp oxy
nguyên chất
 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Cung cấp kỹ thuật ương cá chình giống trong hệ thống
tuần hoàn kín sử dụng oxy nguyên chất trong ương cá chình giống.
- Ý nghĩa thực tiễn: Dự thảo quy trình ương nuôi cá chình trong hệ thống tuần
hoàn kín sử dụng oxy nguyên chất thích hợp cho điều kiện tại Việt Nam.
3


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá chình
1.1.1. Vị trí phân loại
Lớp: Osteichthyes
Phân lớp: Actinopterygii
Bộ: Anguilliformes
Phân bộ: Anguillidei
Họ: Anguillidae
Giống: Anguilla
Loài: Anguilla marmorata (Quoy & Gaimard, 1824).



Hình 1. 1. Hình dạng ngoài của cá chình hoa

1.1.2. Đặc điểm hình thái
Cá chình hoa (hay còn gọi là cá chình bông theo tập quán của địa phương) có
thân hình rắn chiều dài thân gấp 7 lần chiều dài đầu, không có vây bụng. Vây lưng và
hậu môn dài, phía sau thường gắn với vây đuôi, không có gai cứng. Ở cá trưởng thành

có vảy nhỏ. Khởi điểm vây lưng đằng sau vây ngực. Môi dày, mõm ở đầu mút, miệng
kéo dài đến phần sau dưới mắt. Răng nhỏ xếp thành hàng. Vây ngực lớn. Bong bóng
thông với ruột. Đường bên hoàn toàn nhưng lỗ rất nhỏ. Xương sống có 100 - 110 đốt.
Da có đốm xanh đen trên nền màu nâu của thân cho nên gọi là cá chình hoa. Đây là
đặc điểm nổi bật nhất giúp phân biệt loài này với các loài cá chình khác [37].
1.1.3. Sự phân bố
Cá chình hoa phân bố khá rộng trên thế giới. Khu vực Thái Bình Dương người
ta bắt gặp cá chình hoa từ nam Trung Quốc, Đài Loan, Philippine đến Indonesia, New
Zealand, Úc. Ở Ấn Độ Dương chúng phân bố đến Đông Phi, trên sông Mozambique
4

và vùng thấp của sông Zambezi. Đây là loài có kích thước lớn nhất trong giống
Anguiilla. Trung bình cá dài 50 – 80 cm nặng khoảng 5 kg. Con lớn nhất dài 2,3 m
nặng 45 – 50 kg. [39].
Cá chình hoa là một trong hai loài cá chình cỡ lớn phân bố ở sông Mê Kông
thuộc địa phận các nước Việt Nam, Campuchia, Lào và Thái Lan. Ở đây đã bắt được
con cá chình hoa lớn nhất nặng trên 10 kg dài hơn 1,5 m. Người ta bắt được cá chình
cỡ 1 m hàng năm vào cuối mùa mưa ở Campuchia. Có thể đây là những cá thể đang
trên đường đi đến bãi đẻ ngoài biển. Cá chình giống (elver) cũng bắt gặp một số nơi ở
Lào vào tháng 2 hàng năm. Số lượng nhiều đến nỗi người ta bắt nó để làm món đặc
sản [34].
Nguyễn Hữu Phụng (2001) trong Danh mục cá biển Việt Nam xác định có 3 loài
là: A. japonica, A. marmorata, A. Celebesensis [11]. Vũ Trung Tạng (1999) công bố ở
đầm Châu Trúc có 3 loài cá chình: A. marmorata, A. bicolor pacifica, A. borneensis [12].
Một số tác giả cho rằng nước ta hiện có 4 loài cá chình đó là: A. bicolor
pacifica, A. marmorata, A. bornensis, A. japonica [6].
Võ Văn Phú (1995) trong công trình nghiên cứu thành phần loài cá trong đầm
phá khu vực Thừa thiên Huế xác định có 2 loài cá chình là A. bicolor pacifica và A.
marmorata [10].
Từ dữ liệu trên ta thấy đến nay ở Việt Nam đã thống kê được tất cả 5 loài cá

chình đó là chình Nhật (A. japonica), chình Ấn (A. bengalensis), chình hoa (A.
marmorata), chình nhọn (A. borneensis) và chình mun (A. bicolor pacifica) [6,13,42].
Ở Việt Nam cá chình hoa chủ yếu phân bố ở sông, suối, đầm hồ nước ngọt các
tỉnh Hà Tĩnh (Sông Ngàn Phố), Quảng Trị (sông Thạch Hãn), Thừa Thiên Huế (sông
Hương), Gia Lai, (sông Ba), Quảng Ngãi (sông Trà Khúc), Bình Định (đầm Trà Ổ),
Phú Yên (sông Đà Rằng), Ninh Thuận (sông Cái). Thông thường thì cá chình cỡ nhỏ
chưa trưởng thành tập trung ở ven biển và cửa sông. Cá cỡ lớn ở sâu trong nước ngọt
có khi lên tận thượng nguồn các sông vùng núi cao. Tuy nhiên đến mùa sinh sản lại
xuất hiện cá chình cỡ lớn tập trung ở cửa sông chuẩn bị di cư sinh sản [3].
1.1.4. Đặc điểm về dinh dưỡng
Cá chình là loài cá dữ ăn động vật, chúng có tập tính bắt mồi chủ yếu vào ban
đêm [32]. Tùy theo từng giai đoạn phát triển của cá mà có sự chuyển đổi nguồn thức
ăn và cách bắt mồi. Cá con khi mới vào cửa sông trong ruột và dạ dày thường chứa
một lượng mùn bã hữu cơ. Ở giai đoạn giống, thức ăn của cá chủ yếu là động vật phù
du như: copepoda, daphnia, moina… Ở giai đoạn trưởng thành, thức ăn của cá chình
5

là cá, tôm, giáp xác… Lúc thiếu thức ăn chúng tranh cướp thức ăn lẫn nhau và có xu
hướng ăn thịt đồng loại [33].
1.1.5. Sinh sản
Cá chình hoa khi sống trong sông hồ tuyến sinh dục chưa phát triển [34]. Khi đã
trưởng thành nó tập trung xuôi dòng đến các cửa sông tuyến sinh dục mới bắt đầu phát
triển. Sau đó ra vùng biển sâu đẻ trứng [40]. Ở sông Cửu Long thuộc tỉnh Phúc Kiến,
Trung Quốc vào tháng 3 - 7 chúng sống trong hang ở các suối thượng nguồn. Đến tháng
10 - 11 khi bắt đầu có gió bắc, chúng di chuyển đến cửa sông, ra biển đẻ trứng [17, 31].
Người ta đã phát hiện vị trí bãi đẻ cá chình hoa ở khu vùng biển sâu nằm giữa
miền nam Philippine, đông Indonesia và Papua New Guinea [40]. Sau khi đẻ cá bố mẹ
đều chết. Trứng trôi theo hải lưu. Cá con mới nở có màu trắng, yếu ớt hình dạng như
chiếc lá. Khi gặp bờ biển chúng biến thái thành cá chình con, thân ngắn tròn, còn gọi
là chình chỉ, sau đó vào sinh sống hẳn trong nước ngọt [39].

Ở cửa sông Đại Vũ phía đông Đài Loan vào trước rằm tháng tám hàng năm
phát hiện thấy cá chình con dài cỡ 70 mm. Ở sông Cửu Long thuộc Phúc Kiến tháng 3 - 4
phát hiện thấy cá chình con ở cửa sông. Còn ở đảo Hải Nam cá chình con vào cửa sông từ
tháng 2 - 4 [31]. Người ta cho rằng cá chình hoa còn có bãi đẻ ở đông Madagascar [18, 29].
Cá chình lá (Leptocephali) của loài A. marmorata hình dạng cũng giống chình
lá của các loài cá chình khác và thích ứng với đoạn đường di cư dài. Nó trải qua
khoảng 114 – 132 ngày sống trôi nổi cho đến khi tới được các cửa sông [17]. Một báo
cáo từ đảo Reunion ở Ấn Độ Dương xác nhận cá chình giống (elver) loài này đã đi vào
sông ở đây có kích thước 80 – 140 mm [36]. Budimawan (1997) cho rằng cá chình
giống vào 4 cửa sông ở Thái Bình Dương có kích thước trung bình 4,7 – 5,1cm ở 3-4
tháng tuổi với 73 – 86 ngày trong giai đoạn Leptocephlus [19].
Sau khi đi vào nước lợ hoặc nước ngọt, cá chình sinh sống ở đó khoảng 8 - 20
năm cho đến khi sinh sản thì di cư ra biển. Cá chình cái 15 tuổi đi ra biển dài 150 cm
nặng 11 kg [41]. Loài chình hoa có tuổi thọ khá cao, nó có thể sống đến 40 tuổi [21].
1.2. Tình hình nuôi cá chình
1.2.1. Tình hình nuôi cá chình trên thế giới
Cá chình được nuôi đầu tiên ở Nhật Bản từ năm 1879 [32] và gần thời gian này
chúng cũng được tiến hành nuôi ở Ý và Pháp [22, 23]. Thời gian đầu cá được nuôi
trong hệ thống bể nổi. Đến những năm thập niên 60 của thế kỷ 20 thì mới được quan
6

tâm. Đến những năm thập niên 70 Nhật Bản đã phát triển kỹ thuật đưa cá ra ao nuôi
sau đó kỹ thuật này mới được đưa sang Châu Âu. Mặc dù thời kỳ này ở Ý và Pháp đã
phát triển nghề nuôi cá chình mạnh mẽ. Nhật Bản là nước có nghề nuôi cá chình phát
triển và có nhiều kinh nghiệm nhất [22].
Cùng với sự phát triển nghề nuôi cá và yêu cầu bảo vệ môi trường ngày một
nâng cao, nghề nuôi cá thế giới trong hệ thống hở cổ điển dần dần được thay thế bởi
mô hình nuôi kiểu nhà máy không gây ô nhiễm môi trường. Mô hình nuôi cá theo kiểu
nhà máy hay còn gọi là nuôi cá trong hệ thống nước tuần hoàn kín bắt đầu từ những năm
60 thế kỷ trước đã trở thành nền tảng nuôi cá tiên tiến của nghề nuôi cá hiện nay [44].

Các nước Đông Nam Á và các nước Nam Á là nơi tập trung số lượng các loài
cá chình giống Anguilla lớn nhất, có đến 9 loài khác nhau. Mặc dù số lượng loài rất
lớn nhưng quá trình nuôi lại không phát triển. Do mức sống người dân của những nước
này còn thấp vì vậy họ không có điều kiện để dùng thức ăn cao cấp, từ những quan
điểm đó mà những nghiên cứu ứng dụng cho sự phát triển nuôi cá chình ở đây chưa
được quan tâm nhiều.
Trung Quốc là nhà sản xuất cá chình lớn nhất thế giới nhờ chi phí lao động rẻ
hơn Nhật Bản và Đài Loan. Hai tháng đầu năm 2013, Trung Quốc xuất khẩu 585 tấn
cá chình tươi, giảm 42,6% so với cùng kỳ năm 2012. Giá xuất khẩu trung bình đạt
36,68 USD/kg, giảm 14,6%. Sản xuất cá chình chủ yếu tập trung ở các tỉnh Phúc Kiến,
Quảng Đông và Giang Tô và phần lớn sản lượng được xuất khẩu sang Nhật Bản. Tiêu
thụ cá chình nội địa ở Trung Quốc tăng nhờ các chuỗi cửa hàng Nhật Bản tiếp tục mở
rộng kinh doanh ở Trung Quốc, điều này giúp bù đắp sự sụt giảm nhu cầu cá chình ở
Nhật Bản. Sản phẩm cá chình của Trung Quốc chủ yếu là cá chình Nhật và cá chình
hoa [14].
7



Hình 1. 2. Tổng sản lượng nuôi cá chình Nhật trên thế giới
(nguồn: FAO Fishery Statistic)
Trung Quốc là quốc gia đứng đầu về sản lượng nuôi cá chình Nhật (chiểm 73%
sản lượng cá chình Nhật trên thế giới), tiếp đến là Đài Loan, Nhật Bản. Một số quốc
gia khác cũng có tiềm năng nuôi cá chình Nhật như: Hàn Quốc, Malaysia.
Đứng đầu các nước có sản lượng nuôi cá chình Châu Âu (Aguilla anguilla) bao
gồm: Hà Lan, Ý và Đan Mạch. Tiếp theo là một số quốc gia khác được nuôi với quy
mô vừa như: Tây Ban Nha, Thủy Điển, Đức, Sản lượng cá chình Châu Âu theo
thống kê của FAO (2010) được thể hiện qua Hình 1.3.

Hình 1. 3. Tổng sản lượng nuôi cá chình Châu Âu trên thế giới

(nguồn: FAO Fishery Statistic)

Sản lượng cá chình nuôi ở Châu Âu (chủ yếu là các nước Hà Lan, Đan Mạch và
Italy) năm 2000 cao nhất là 11.000 tấn và giảm dần đến năm 2009 chỉ còn 6.400 tấn.
8

1.2.2. Tình hình nuôi cá chình tại Việt Nam
Nghề nuôi cá chình ở Bình Định và Phú Yên bắt đầu vào năm 2000. Loài nuôi
chủ yếu là cá chình hoa (Anguilla marmorata) và cá chình mun (Anguilla bicolor
pacifica) trong đó cá chình hoa chiếm 90 - 95%. Hình thức nuôi chủ yếu là nuôi trong
lồng, trong ao hoặc bể xi măng với thức ăn chủ yếu là cá tạp, tôm tép; diện tích lồng 1
- 3 m
2
, mật độ thả 30 - 50 con/m
2
, năng suất đạt khoảng 30 - 50 kg/m
2
lồng. Tại Khánh Hoà
chủ yếu nuôi cá chình trong bể xi măng, trong ao và nuôi lồng. Tại Quảng Trị, nuôi lồng
trên sông, trong hồ chứa diện tích lồng 3 - 4m
2
, mật độ thả 50 - 100 con/m
2
[5].
Tại miền Bắc, trước đây đã có cơ sở nuôi cá chình quy mô công nghiệp liên
doanh Tân Đô Phát ở Vĩnh Phúc. Nguồn giống là cá chình Nhật (A. japonica ), cỡ 4 - 5
cm nhập từ Trung Quốc và dùng thức ăn công nghiệp (công nghệ Trung Quốc). Cá
thương phẩm đạt trên 0,5 kg/con được xuất sang Nhật Bản [1].
Năm 2004 được sự hỗ trợ của hợp phần SUFA, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thuỷ sản III thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ nuôi thương phẩm cá

chình (A. mamorata) tại miền Trung” do Chu Văn Công làm chủ nhiệm. Nguồn giống
mua của ngư dân tỉnh Bình Định và Phú Yên. Do phương tiện khai thác cá chình giống
lớn ở sông hồ là chích điện và câu làm cho cá khi bắt được bị tổn thương nghiêm trọng
ảnh hưởng lớn đến quá trình tăng trưởng và tỷ lệ sống cá thương phẩm. Kết quả nuôi
trong ao đất với mật độ 2 - 4 con/m
2
, tỷ lệ sống đạt 51 - 57%, năng suất 4,5 tấn/ha [2].
Tại các tỉnh thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tiền Giang, cá chình hoa được
nuôi trong lồng nổi. Hình thức nuôi cá chình trong ao đất đang phát triển mạnh ở Cà
Mau, Bạc Liêu. Qua thông tin thu thập từ ngư dân, trong năm 2005 đã có khoảng 40
hộ nuôi cá chình thương phẩm, với diện tích ao nuôi 1000 - 5000 m
2
. Thức ăn chủ yếu
sử dụng để nuôi cá chình là các loại cá nhỏ, ốc, trai, ếch, nhái. Các loài này được cắt
nhỏ để cho ăn. Đối tượng nuôi là cá chình hoa (Anguilla marmorata). Kết quả điều tra
cho thấy, với cỡ giống là 30 - 50 g/con và sau 12 tháng nuôi, cá chình có thể đạt tới
500 - 700 g/con, tỷ lệ sống đạt 40 - 50% [4].
Cà Mau hiện có khoảng 230 hộ nuôi cá chình ban đầu tập trung ở một số xã ven
thành phố Cà Mau nhưng đến nay bà con nông dân các huyện khác cũng bắt đầu tổ
chức nuôi loại cá này [15].


9

1.2.3. Một số bệnh thường gặp trên cá chình
Cá chình bị bệnh phần lớn là do kí sinh trùng và nấm ngoài ra còn một số loại vi
khuẩn, virus. Nguyên nhân gây bệnh có thể do nguồn lây nhiễm trong quá trình phát
triển từ tự nhiên nuôi với mật độ quá lớn, chất lượng thức ăn, nhiệt độ… [39, 25]. Mặt
khác với sự tiến bộ về kỹ thuật nuôi, nhu cầu cung cấp cá giống từ Châu Âu sang Châu
Á và ngược lại cũng là nguyên nhân lây lan dịch bệnh ở cá chình [32, 23]. Việc quản lý

dịch bệnh đã được các nhà khoa học và người sản xuất quan tâm nhưng hiện nay vẫn
chưa giải quyết được triệt để [20, 27, 43].
1.2.3.1. Bệnh do ký sinh trùng
Cá chình bị tấn công bởi một số đáng kể bệnh về ký sinh trùng. Nhiều bệnh phụ
thuộc vào nhiệt độ, ví dụ chúng chỉ phát triển mạnh trong một phạm vi nhiệt độ nhất
định. Ngoại trừ những tác nhân gây hại trong danh sách này, cá chình có thể bị suy
dinh dưỡng do khẩu phần ăn không cân bằng [24].
Hiểu biết về hầu hết các bệnh ở cá chình vào thời điểm này còn khá sơ khai và ở
một số trường hợp người nuôi cần cách ly bất cứ ao nào có bệnh xảy ra, loại bỏ cá
chình chết. Ở những bệnh dịch nghiêm trọng, tất cả cá chình trong ao có thể chết hoặc
có thể bị diệt bỏ, ao được phơi khô và sát trùng, thực hiện khởi đầu mới với cá giống
mới.
1.2.3.2. Bệnh do nấm
Đây là bệnh rất phổ biến, tác nhân gây bệnh bởi nấm Saprolegnia parasitica,
triệu chứng của bệnh này là những đốm trắng của nấm phát triển rất nhanh. Cá bị bệnh
này có thể chết từ 50 - 70% trong vòng từ 5-7 ngày, bệnh này thường phát sinh khi
nhiệt độ môi trường thấp từ 15 - 20
0
C. Để điều trị bệnh này có thể dùng kháng sinh
trộn vào thức ăn hoặc tắm cá bằng xanh Methylen [39].
1.2.3.3. Bệnh do vi khuẩn
Bệnh do vi khuẩn và hiện tượng cá chình chết liên quan đến vi khuẩn đã được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu trong nhiều năm. Các loại bệnh do vi khuẩn được chia
làm 2 loại: bệnh ở da và ở mang, bệnh trong nội tạng. Bệnh ở da và ở mang chỉ cần
phát hiện sớm, đem các loại thuốc hòa tan vào trong nước là có kết quả. Bệnh trong nội
tạng: nếu chỉ dùng các biện pháp hòa tan thuốc vào nước thì hiệu quả trị bệnh rất kém
mà phải sử dụng biện pháp trộn thuốc vào thức ăn và lặp lại nhiều lần, bình thường mỗi
10

liệu trình (thời gian sử lý thuốc kéo dài) từ 3 - 7 ngày thì kết thúc. Nếu bệnh chỉ mới

giảm mà chưa khỏi thì tiếp tục liệu trình thứ 2 với nồng độ tăng và thời gian kéo dài
hơn liệu trình thứ nhất [26, 27].
Ngoài ra cũng còn rất nhiều bệnh gây tổn hại đến nghề cá nói chung như: bệnh
đốm trắng gây nên bởi Ichthyophthirins - Multifiliis, bệnh cong thân do động vật kí sinh,
bệnh phù do protozoa [39]. Để điều trị bệnh cá chình nói chung có thể dùng kháng sinh trộn
vào thức ăn hoặc dùng nước muối tắm… tuy nhiên hiệu quả không cao [20].
Phương châm phòng bệnh luôn được đặt lên hàng đầu trong quá trình ương
nuôi cá chình. Một số phương pháp phòng trị bệnh, những phương pháp này căn cứ
vào tình hình phát sinh của bệnh mà quyết định [30].
1.3. Một số nghiên cứu về mô hình ương nuôi cá chình
1.3.1. Tại Trung Quốc
Nuôi cá theo phương pháp công xưởng hoá chiếm vị trí khá quan trọng trong
nghề nuôi cá ở Trung Quốc. Vì thế nó là mô hình tất yếu cho việc phát triển nghề nuôi
một cách bền vững.
Xưởng nuôi cá được thiết kế tường bao và mái đều sử dụng tấm cách nhiệt làm
như vậy vừa ngăn cản xâm nhập của các mầm bệnh vừa cách nhiệt, cách âm đồng thời
duy trì điều kiện quản lí dễ dàng. Trong xưởng chia thành 2 phân khu: phân khu nuôi
và phân khu quản lí. Phân khu quản lí bao gồm: kho thức ăn, thiết bị sửa chữa, vệ sinh,
chỗ thay quần áo khi vào xưởng, máy tính và bàn làm việc. Phân khu nuôi bao gồm 4
bộ phận: bộ phận kiểm dịch cá con, ương cá giống, nuôi cá thịt cấp 1 và nuôi cá thịt
cấp 2. Bộ phận ương cá giống chia thành bộ phận bể ương cá, hệ thống xử lí nước và
bộ phận thiết bị động lực.
Có 4 bể ương cá đường kính 5 m, cao 1,1m, dung tích 20 m
3
. Bể nuôi cá thịt
đường kính 8 m, cao 1,1 m dung tích 50 m
3
. Bề mặt phủ sơn đặc biệt giữ cho nó nhẵn
bóng không độc với cá. Bề mặt nhẵn bóng có 3 tác dụng: 1/ Ngăn cản vi sinh cư trú; 2/
làm cho cá bơi lội dễ dàng tiện làm vệ sinh; 3/ Không làm xây xát cá.

Hệ thống xử lí nước do 2 bộ lọc cơ học và lọc sinh học cấu thành. Thành bể lọc
cũng được phủ sơn đặc biệt. Các đầu cảm biến cho các chỉ tiêu như: độ hoà tan oxy,
pH, nhiệt độ, ôzone được máy tính ghi lại giúp người điều khiển có biện pháp xử lí kịp
thời. Chu trình xử lí nước trong hệ thống nuôi tuần hoàn khép kín [24].

11

1.3.2. Tại Nhật Bản
Tất cả các ao nuôi cá chình ở Nhật đều theo loại hình nước tĩnh. Trang trại được
thiết kế gồm 4 bể nuôi được bố trí theo sơ đồ sau [39].
Bể cá chình con thứ 1, thường nằm trong nhà kính.
Bể cá chình con thứ 2, thường nằm trong nhà kính.
Ao cá giống, chủ yếu trong nhà kính, ngoài trời vào mùa hè.
Ao cá chình thương phẩm, chủ yếu trong nhà kính, ngoài trời vào mùa hè
Bể nuôi cá chình con thường được xây dựng trong nhà kính và được làm nóng
lên trên 25
0
C bằng thiết bị nung chìm điều khiển nhiệt tĩnh. Việc làm nóng này giúp cá
chình con hoạt động lanh lợi vào mùa xuân, kỹ thuật này cũng được áp dụng trong
nuôi cá hồi và nuôi hầu. Bể nuôi thứ nhất thả cá chình con mới được khai thác từ tự
nhiên và ương khoảng 1 tháng. Đây là bể xi măng, hình tròn, có đường kính 5 m, sâu
60 cm. Nước được phun lên bề mặt nhờ các vòi phun được đặt chéo góc, tạo ra một
dòng xoáy nước tròn. Lỗ thoát nước được đặt ở giữa bể.
Bể thứ 2 thả nuôi cá chình con từ cỡ 8-12 cm, có diện tích từ 30-100 m
2
, sâu 1
m. Cả 2 loại bể nuôi cá chình con đều được sục khí nhờ máy sục khí cũng như các vòi
phun cấp nước bề mặt.
Nước dùng cho các bể nuôi cá chình con từ giếng khoan, đảm bảo nguồn cung
nước sạch cho cá chình con vốn khá nhạy cảm. Ở những kích cỡ lớn hơn có thể dùng

nước sông.
Ao ương cá chình giống thường có hình chữ nhật với diện tích dao động từ 200
- 300 m
2
, sâu 1 m và có đáy bùn. Để ngăn ngừa những con cá chình nhỏ trốn thoát vào
những đêm mưa, khi mà nước mưa chảy vào những ao ngoài trời, thì bờ ao bằng bê
tông phải có mép nhô ra. Cá chình có chiều dài lớn trên 20 cm thường không cố gắng
thoát khỏi ao và vì vậy ở các bờ ao nuôi thương phẩm không cần có mép nhô ra.
Đài Loan và Hàn Quốc đã học theo các phương pháp nuôi cá chình của Nhật
Bản. Ở Châu Âu, Úc và New Zealand cũng có nhiều quan tâm đến việc khởi động nuôi
cá chình [7].
1.3.3. Một số mô hình ương cá chình tại Việt Nam
Cá chình giống của Việt Nam chủ yếu được khai thác từ nguồn lợi cá chình tại
các tỉnh miền Trung như: Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi,… Tuy nhiên mô hình
ương giống thì phát triển rộng khắp các tỉnh thành cả nước [5].
12

Nghề nuôi cá chình ở Bình Định và Phú Yên bắt đầu vào năm 2000, Quảng Trị
năm 2005, hình thức nuôi chủ yếu là nuôi trong lồng diện tích lồng 3 - 4 m
2
, mật độ thả 50 -
100 con/m
2
, trong ao hoặc bể xi măng với thức ăn chủ yếu là cá tạp, tôm tép [2].
Trước nhu cầu con giống ngày càng cao, tai các địa bàn xuất hiện cá chình bột
trắng đã tiến hành ương trong bể xi măng và đạt được một số kết quả khả quan. Năm
2008, trại trung tâm giống tỉnh Phú Yên đã tiến hành ương giống cá chình từ giai đoạn
cá chình trắng đến giai đoạn cá chình giống trong hệ thống bể xi măng trong nhà, hàng
ngày thay nước 30%, tuy nhiên do chưa có nhiều kinh nghiệm nên tỷ lệ sống đạt thấp
(52,5%) [9].

Tại Thành phố Hồ Chí Minh các mô hình ương cá chình bột trắng trong các bể
xi măng sau đó đưa vào ao nuôi thương phẩm ngoài trời. Tỷ lệ sống đạt khoảng 50%,
thời gian ương kéo dài từ 6 - 8 tháng. Các tỉnh miền tây Nam Bộ xuất hiện mô hình
ương giống cá chình trong các ao đất lót bạt ngoài trời, tuy nhiên do chưa kiểm soát
được các yếu tố môi trường và dịch bệnh nên tỷ lệ sống thấp (30%), cá thường không
đồng đều và hiệu quả kinh tế đạt thấp [9].
Tại Bình Định mô hình ương giống cá chình cũng đã được tiến hành thử
nghiệm trong bể xi măng với hai giai đoạn ương từ cá chình bột trắng lên cá hương và
từ cá hương lên cá giống. Kết quả sau thời gian 8 tháng cá hương đạt kích cỡ bình
quân 2,5 g/con, tỷ lệ sống trung bình 59% và cá giống thời gian ương 14 tháng đạt
20,2 g/con, tỷ lệ sống 68,9%. Kết quả của mô hình thử nghiệm cho thấy cá chình có
tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ hao hụt trong thời gian đầu cao, chưa chủ động được
nguồn thức ăn và công tác phòng trị bệnh [16].
Năm 2012 tại Quảng Ngãi, Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật nông - lâm nghiệp Dung Quất
đã đưa ra quy trình ương giống cá chình từ 3 - 4cm lên 10 - 12cm trong bể xi măng đạt tỷ lệ
sống 70%. Tuy nhiên do chưa được thiết kế hệ thống đồng bộ về xử lý nước, thức ăn và
điều chỉnh các yếu tố môi trường nên thời gian ương kéo dài 12 tháng [8].
Nhược điểm của các mô hình ương giống cá chình tại Việt Nam là thời gian
ương quá dài (7 - 8 tháng), tỷ lệ sống thấp (dưới 50%), chủ yếu sử dụng thức ăn tươi
sống, dịch bệnh chưa kiểm soát được do đó con giống chưa đạt chất lượng tốt. Quá
trình thực hiện đề tài sẽ tìm cách giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng con
giống nhằm mục đích cung cấp con giống chất lượng cao, đấy mạnh sự phát triển bền
vững của nghề nuôi cá chình. Trong các yếu tố cần thiết để tăng mật độ ương cá chình
đó là tăng hàm lượng oxy hoà tan trong nước [1].
13

Để duy trì hàm lượng oxy trong bể ương cần phải được bổ sung vào một lượng
tương đương với mức cá và vi khuẩn tiêu thụ. Mức tiêu thụ oxy trong hệ thống nuôi
nước tuần hoàn khó tính chính xác. Tuy nhiên con số này lại cần thiết để thiết kế hệ
thống nuôi thích hợp. Tổng mức tiêu thụ oxy cho hệ thống sẽ bao gồm: lượng oxy do

hô hấp của cá, nhu cầu oxy của vi khuẩn phân giải chất thải hữu cơ và thức ăn thừa
(còn được gọi là BOD) và nhu cầu oxy của vi khuẩn nitrat hóa trong bộ lọc sinh học.
Hàm lượng oxy hòa tan cao đảm bảo cho cá chình hoạt động nhanh nhẹn, trao
đổi chất tốt, cá lớn nhanh, ít bệnh tật. Thông thường cá ưa tìm đến những nơi có hàm
lượng oxy hòa tan cao [38]. Trong điều kiện nuôi bình thường hàm lượng oxy thích
hợp nhất đối với cá chình là trong khoảng 5 - 7 mg/L. Trong điều kiện nuôi mật độ
cao, yêu cầu hàm lượng oxy phải từ 7 mg/L trở lên.
Hiệu quả sử dụng oxy được định nghĩa là tỷ lệ trọng lượng oxy được nước hấp
thụ so với trọng lượng oxy đã sử dụng thông qua thiết bị khuếch tán. Hiệu quả này là
>40% nếu sử dụng đá bọt. Thiết bị để khuếch tán oxy nếu thiết kế đúng (bình chữ U,
bình tam giác) có thể nâng hiệu quả hấp thụ oxy lên >90%.
Khi oxy tinh khiết được sử dụng nồng độ bão hòa oxy trong nước có thể tăng
lên gấp gần 5 lần (43 mg/L dưới áp suất khí quyển). Cá chình có thể sống trong điều
kiện hàm lượng oxy cao gấp 2 - 3 lần độ bão hòa, tức là khoảng 20 mg/L. Khi nuôi cá
chình trong hệ thống nước tuần hoàn thường sử dụng oxy tinh khiết để đạt được hàm
lượng oxy cao như vậy.
Kỹ thuật pha trộn nước quá bão hòa vào hồ nuôi là rất quan trọng. Oxy trên bão
hòa sẽ thoát hết vào không khí nếu khuấy động nước quá mạnh mẽ. Nếu tốc độ pha
trộn quá chậm, các khu vực quá bão hòa có thể gây ra bệnh bọt khí. Các bọt khí trong
cơ thể cá có thể dẫn đến tử vong. Cá giống đặc biệt nhạy cảm với tình trạng quá bão
hòa. Khái niệm bình trộn oxy hình nón (bình tam giác) đã được phát triển bởi tiến sĩ
Richard Speece tại Đại học Vanderbilt tại Nashville, Tennessee, Hoa Kỳ, do đó bình
còn có tên là bình Speece. Kỹ thuật trộn oxy này đã khéo léo sử dụng sự thay đổi vận
tốc nước trong đường ống có đường kính khác nhau để đảm bảo hòa tan triệt để bọt
khí oxy tinh khiết [35].
Trong thí nghiệm ương cá chình của chúng ta sẽ sử dụng oxy tinh khiết ở dạng
khí. Trong tương lai nếu điều kiện cho phép sẽ dùng oxy lỏng thay thế. Oxy lỏng dễ sử
dụng và cho hiệu quả kinh tế cao hơn khi dùng oxy dạng khí.
14


CHƯƠNG II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Cá chình hoa (Anguilla marmorata Q&G, 1824), giai đoạn giống từ 0,15 – 50
g/con.
Tên tiếng Anh: Giant mottled eel.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 01/2013 đến tháng 1/2014
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
Tìm hiểu kỹ thuật thu vớt, phương pháp lưu giữ, đóng gói và vận chuyển cá chình
bột tại một số điểm thuộc các tỉnh miền Trung: Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi.
Bố trí thí nghiệm ương cá chình giống tại Công ty TNHH Nuôi trồng Thuỷ sản
Vạn Xuân, thuộc thôn Suối Lau, xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hoà.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Sơ đồ khối nghiên cứu
























Hình 2. 2. Sơ đồ khối nghiên cứu
“Nghiên cứu kỹ thuật ương giống cá chình hoa trong bể
tuần hoàn khép kín, cung cấp oxy nguyên chất”
Kỹ thuật ương gi
ống cấp I (từ
0,15→5 g/con)
cá chình hoa
trong bể tuần ho
àn khép kín,
cung cấp oxy nguyên chất.
Kỹ thuật ương giống cấp II (t

5→50 g/con) cá chình hoa
trong
bể tuần hoàn khép kín, cung c
ấp
oxy nguyên chất.

K
ỹ thuật thu vớt,

lưu giữ và v
ận
chuyển
cá chình
bột trắng
- Mùa vụ
- Dụng cụ khai thác
- Lưu giữ
- Vận chuyển

- Tốc độ tăng trưởng
- Tỷ lệ sống
- FCR
- Hiệu quả kinh tế
- Dự thảo các quy trình kỹ thuật:
+ Lưu giữ, vận chuyển và thuần hoá cá chình bột trắng
+ Ương giống cá chình trong bể tuần hoàn khép kín cung cấp oxy nguyên chất
15

2.2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.2.1. Nội dung 1: Tìm hiểu kỹ thuật thu vớt và vận chuyển cá chình bột trắng
cỡ 4-6 cm tại các tỉnh miền Trung: Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi.
a. Mùa vụ xuất hiện và kỹ thuật thu vớt cá chình bột trắng
- Thống kê các dụng cụ và các phương pháp đánh bắt cá chình bột trắng.
- Phân tích ưu điểm, nhược điểm của một số ngư cụ, xác định ngư cụ thích hợp.
b. Phương pháp lưu giữ và vận chuyển
- Đánh giá các phương pháp khai thác và lưu giữ.
- Tìm hiểu quá trình đóng gói vận chuyển tại các địa phương
- Lựa chọn mật độ và phương thức vận chuyển thích hợp.
- Dự thảo quy trình lưu giữ, vận chuyển và thuần hoá cá chình.

2.2.2.2. Nội dung 2: Nghiên cứu kỹ thuật ương giống cá chình hoa cấp I (từ 0,15
→5 g/con) trong bể tuần hoàn khép kín, cung cấp oxy nguyên chất.
Thí nghiệm được bố trí với 4 nghiệm thức về mật độ 2.000; 2.500; 5.000 và
7.500 con/m
3
trong hệ thống bể tuần hoàn kín sử dụng oxy nguyên chất, mỗi nghiệm
thức được lặp lại 3 lần, sử dụng cùng loại thức ăn dạng bột mịn do công ty Quán
Phong, Phúc Kiến, Trung Quốc sản xuất. Thí nghiệm được bố trí trong bể có thể tích
3m
3
/bể, dạng hình tròn. Khẩu phần cho ăn hàng ngày từ 5-10% trọng lượng thân. Thời
gian thực hiện trong 5 tháng (tháng 4/2013 - 9/2013). Sơ đồ bố trí thí nghiệm ương
giống cấp I được thể hiện qua Hình 2.2. Cá chình bột trắng có nguồn gốc từ các tỉnh
Phú Yên, Bình Định và Quảng Ngãi.














Hình 2. 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm ương giống cá chình hoa cấp I
Các ký hiệu từ G1 – G12 là các bể ương cá chình giống có ký số từ 1 – 12 bể.

Nghiên cứu kỹ thuật ương giống cá chình hoa cấp I

2500 con/m
3

G1

G2

G3

Đánh giá các chỉ tiêu kỹ thuật: FCR, TLS, TĐTT

5000 con/m
3

G4 G5

G6

7500 con/m
3

G7

G8

G9

2000 con/m

3

G10

G11

G12

Kết luận và đề xuất

16

2.2.2.3. Nội dung 3: Nghiên cứu kỹ thuật ương giống cá chình hoa cấp II (từ 5 →
50 g/con) trong bể tuần hoàn khép kín, cung cấp oxy nguyên chất.
Thí nghiệm được bố trí với 04 nghiệm thức (800; 1.000; 1.500 và 2.000 con/m
3
)
trong hệ thống bể tuần hoàn kín sử dụng oxy nguyên chất, mỗi nghiệm thức được lặp
lại 3 lần, sử dụng cùng loại thức ăn dạng bột mịn do công ty Quán Phong, Phúc Kiến,
Trung Quốc sản xuất. Thí nghiệm được bố trí trong bể có thể tích 5 m
3
/bể, dạng hình
tròn. Khẩu phần cho ăn hàng ngày từ 3 - 5% trọng lượng thân. Thí nghiệm được thực
hiện trong 6 tháng (tháng 06/2013 - 12/2013). Sơ đồ bố trí thí nghiệm ương giống cấp
II được thể hiện qua Hình 2.3. Cá chình giống bố trí thí nghiệm được thuần hoá tại
Công ty Vạn Xuân từ giai đoạn 0,15 – 5 g/con.













Hình 2. 4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm ương giống cá chình hoa cấp II
Các ký hiệu N1 – N12 là các ký hiệu bể ương cá chình giống cấp II thứ tự từ 1 – 12.
2.2.2.4. Nội dung 4: Dự thảo quy trình ương cá chình giống sử dụng oxy nguyên
chất phù hợp với điều kiện Việt Nam
Quá trình nghiên cứu và đánh giá kết quả thực hiện mô hình ương giống cấp I,
cấp II, đề tài đưa ra dự thảo quy trình ương giống phù hợp với điều kiện Việt Nam.
2.2.3. Hệ thống thiết bị phục vụ nghiên cứu
a. Mô tả về thiết bị cung cấp oxy
+ Nguồn oxy
Máy sản xuất oxy tinh khiết công suất 8 m
3
/giờ của Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thuỷ sản III do Đan Mạch sản xuất (Hình 2.4) đủ để cung cấp oxy cho toàn bộ
Nghiên cứu kỹ thuật ương giống cá chình hoa cấp II

1000
N
1

N2

N3


Đánh giá các chỉ tiêu kỹ thuật: FCR, TLS, TĐTT
1500
N
4

N5

N6

2000
N
7

N8

N9

800
N1
0

N1
1

N1
2

Kết luận và đề xuất

×