Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng tại Phòng giao dịch Phú Xuân - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thông huyện Bảo Thắng, Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.19 KB, 66 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng
triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội điều gửi
tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu
nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ
chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần
đối với đất nước. Đối với doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín
dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm
trang thiết bị. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ là nguồn tài
chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh
tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách
kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững.
Trong hoạt động của ngân hàng thì tín dụng là một lĩnh vực quan trọng.
Quan hệ tín dụng quyết định mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân và
nó còn là nguồn sinh lợi chủ yếu, quyết định sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
Nghiệp vụ tín dụng không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà nó còn có ý nghĩa
quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát triểm của ngân hàng. Chính vì
vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề quan trọng và cần thiết với bất
kỳ một ngân hàng thương mại nào để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình
trong một môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt và quyết liệt như hiện nay.
Chính vì nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, trong quá trình thực
tập tại Phòng giao dịch Phú Xuân - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn huyện Bảo Thắng, Lào Cai, em đã lựa chọn đề tài: "Nâng cao
chất lượng tín dụng tại Phòng giao dịch Phú Xuân - Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thông huyện Bảo Thắng, Lào Cai" làm nội
dung nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
2. Mục đích nghiên cứu
- Khái quát và hệ thống hoá các lý thuyết về chất lượng tín dụng tại ngân
hàng thương mại.
- Nghiên cứu, khảo sát và đánh giá thực trạng chất lượng công tác tín dụng
tại Phòng giao dịch Phú Xuân – Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn huyện Bảo Thắng, Lào Cai nhằm rút ra những ưu, nhược điểm của
hoạt động này, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế; từ đó đưa ra một số giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của PGD cũng như phát
huy những ưu điểm sẵn có.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề nghiên cứu chủ yếu về công tác tín dụng và những vấn đề còn
tồn tại của Phòng giao dịch Phú Xuân – Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn huyện Bảo Thắng, Lào Cai trong giai đoạn 2008 - 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra, thống kê, so sánh, phân tích các số liệu thực tiễn
nhằm lượng hoá vấn đề.
5. Kết cấu của chuyên đề thực tập
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài được chia thành 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Phòng giao dịch Phú
Xuân - Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bảo Thắng,
Lào Cai.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Phòng giao
dịch Phú Xuân - Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Bảo Thắng, Lào Cai.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
2

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước
trên thế giới. Ở một số nước thì khái niệm này dùng để chỉ một số tổ chức tài
chính tiền tệ mà hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ các cá
nhân hay tổ chức kinh tế rồi lại để cho các tổ chức này vay lại. Các ngân hàng
không được phép kinh doanh tổng hợp các dịch vụ khác như đầu tư tài chính,
cung cấp dịch vụ cho các nhóm ngành riêng biệt. Trong khi đó ở một số nước thì
lại cho rằng NHTM là ngân hàng được phép kinh doanh tổng hợp tất cả các dịch
vụ ngân hàng.
Ở Việt Nam, NHTM được quy định rõ trong luật Ngân hàng và các tổ chức
tín dụng: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện chiết khấu làm phương tiện thanh
toán”.
Trên thực tế, các NHTM ở nước ta ngoài việc thực hiện các hoạt động ghi
trong luật nêu trên thì còn phải thực hiện các hoạt động khác phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cho vay để phát
triển một số thành phần kinh tế, ưu đãi với một số dự án, một số đối tượng.
Do đó, ở Việt Nam các NHTM thường được hiểu như một ngân hàng thực
hiện các dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ như nhận tiền gửi của khách hàng
để cho vay, cung cấp lại vốn đầu tư … và chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhà
nước.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai

1.1.2 Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại:
Hoạt động cơ bản của NHTM xoay quanh việc kinh doanh tiền tệ. Cụ thể
là các nghiệp vụ sau:
* Nghiệp vụ tài sản nợ:
Nghiệp vụ nợ của NHTM là nghiệp vụ huy động vốn bằng nhiều hình thức
khác nhau để tạo nguồn vốn hoạt động. Các nguồn vốn cung cấp vốn cho NHTM
bao gồm các loại tiền gửi cá nhân, tổ chức kinh doanh, tổ chức phi thương mại
khác; các loại tiền vay ngắn hạn và dài hạn của các tổ chức đầu tư và các ngân
hàng khác; tiền kỳ phiếu, nhờ thu, chậm trả, … Những nguồn huy động quan
trọng nhất là:
- Các loại tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài
khoản thanh toán của khách hàng và có thể rút ra bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: gồm 2 loại, loại tới hạn được rút ra và loại rút ra phải
báo trước. Loại thứ nhất sẽ bị phong toả toàn bộ trong thời gian trước khi tới hạn
và chịu sự chi phối của toàn bộ ngân hàng. Nếu sau khi đáo hạn, khách hàng
không rút tiền ra thì số tiền đó sẽ được xử lý như một tài khoản tiền gửi không kỳ
hạn. Loại thứ hai là loại tiền gửi có kỳ hạn mà khi rút ra người gửi phải báo trước
cho ngân hàng theo các điều khoản mà khách hàng và ngân hàng đã thoả thuận.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn quan trọng của ngân
hàng. Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được ngân hàng giao cho
một quyển sổ tiết kiệm. Sổ này được coi như giấy chứng nhận có tiền gửi và quỹ
của ngân hàng.
- Nguồn vốn vay: Ngân hàng có thể huy động vốn vay bằng cách vay ngắn,
trung hoặc dài hạn từ ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác hoặc nhận uỷ thác đầu
tư của các tổ chức tài trợ (chính phủ hay quốc tế) để cho vay ưu đãi đối với một
số đối tượng được lựa chọn.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai

- Các nguồn vốn huy động khác: Ngân hàng có thể huy động vốn bằng
cách phát hành các loại chứng khoán (kỳ phiếu, trái phiếu, …) để huy động vốn
từ dân cư hay tổ chức, công ty nào đó …
* Nghiệp vụ tài sản có:
Nghiệp vụ có là nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn huy động của NHTM vào
các hoạt động kinh doanh chủ yếu sau:
- Nghiệp vụ cho vay: Là việc NHTM cho khách hàng vay một số tiền để họ
sử dụng trong một thời gian nhất định và khi hết hạn vay, người vay phải trả ngân
hàng một khoản tiền bao gồm cả gốc và lãi.
- Nghiệp vụ bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng
trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán. Cách cho vay như
vậy gọi là tín dụng bảo lãnh.
- Nghiệp vụ trung gian: trong hoạt động ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng
được coi là các nghiệp vụ bên thứ ba bên cạnh nghiệp vụ có và nghiệp vụ nợ.
Thông thương ngân hàng cung cấp các dịch vụ trung gian như:
+ Thanh toán, ngoại hối, vàng bạc đá quý, nhờ thu, …
+ Nhận uỷ thác, ký gửi, …
Trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ của mình, ngân hàng phải đối diện
với rất nhiều rủi ro: rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro quản lý, …
1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại:
1.2.1. Khái niệm về tín dụng:
Theo quan điểm cổ điển, tín dụng được coi là một quan hệ vay mượn lẫn
nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi
sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù
kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức
nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho
một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: thời gian hoàn
trả (gốc và lãi), lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi,
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
5

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
Đối tượng của sự chuyển nhượng bao gồm:
- Hình thái hiện vật - hàng hoá: đó chính là việc kéo dài thời hạn thanh
toán trong quan hệ mua bán.
- Hình thức giá trị: thực chất là việc “ứng trước” hay “đầu tư” trực tiếp
bằng tiền (cho vay bằng tiền).
Những điều kiện mà hai bên thường thoả thuận là:
- Khối lượng hàng hoá hay tiền tệ được chuyển nhượng;
- Thời hạn sử dụng của người vay;
- Thu nhập mà người cho vay được hưởng;
- Những điều kiện ràng buộc nghĩa vụ hoàn trả của người đi vay …
Những điều kiện này mà một trong hai bên không chấp nhận thì không thể
hình thành quan hệ tín dụng. Như vậy, tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản:
- Sự chuyển nhượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng.
- Sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban
đầu: thu hồi đúng thời hạn cả gốc và lãi.
- Việc chuyển nhượng được thực hiện trên cơ sở sự tin tưởng của người
chuyển nhượng với người sử dụng.
Ngoài ra, trong quan hệ tín dụng còn co những đắc trưng khác cần đề cập
như khả năng rủi ro, tính đảm bảo, quy luật cung cầu, cạnh tranh, giá trị và quy
luật lưu thong tiền tệ …
Trong lịch sử, quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển
lâu dài. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ lực lượng sản xuất còn thấp kém nên
xã hội chưa có sản phẩm dư thừa để dự trữ, chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống
của chế độ tư hữu. Trong xã hội này chưa có quan hệ trao đổi, mua bán và vay
mượn. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, phân công lao động được hình thành. Lúc này, con người sản xuất sản
phẩm không chỉ đủ tiêu dùng mà còn có một phần tích luỹ để dự trữ. Trong xã hội
bắt đầu xuất hiện mầm mống của chế độ tư hữu về tư liệu lao động và của cải làm
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39

6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
ra. Xã hội có sự phân chia giàu nghèo và các giai cấp hình thành. Chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất
hàng hoá ra đời. Và những quan hệ vay mượn đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa
của các quan hệ tín dụng. Như vậy có thể khẳng định tín dụng là một phạm trù
kinh tế ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nền
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tín dụng ra đời là một yếu tố khách quan của sự
phát triển kinh tế xã hội.
Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng:
Trong suốt sự phát triển lâu dài của tín dụng thì hình thức tín dụng ngân
hàng tỏ ra ưu thế hơn các hình thức tín dụng trước nó như tín dụng cho vay vãng
lai, tín dụng thương mại, …
Hình thức tín dụng ngân hàng ra đời tỏ rõ ưu thế của mình bởi:
- Nguồn vốn cho vay rất lớn vì đó là toàn bộ nguồn vốn trong nền kinh tế
mà ngân hàng có thể tập trung và huy động được.
- Đây là hình thức tín dụng rất linh hoạt vì đối tượng vay mượn là tiền.
Hình thức tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh
tế thị trường và nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh
hoạt, kịp thời.
Là trung gian tài chính, ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một
bên là những người có tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu cần vay
vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp
dụng các phương pháp kỹ thuật hiện đại, tiên tiến, ngân hàng có khả năng thu hút
những nguồn vốn tiền tệ, tiết kiệm, dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi,
đúng lúc, phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ tín dụng
ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến
những đồng tiền nằm phân tán thành vốn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản
xuất kinh doanh và qua đó làm cho phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh,
giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển.

Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
1.2.2. Hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng vốn là hoạt động truyền thống và mang lại thu nhập
chính cho ngân hàng thương mại, đồng thời cũng là một lĩnh vực rộng lớn bao
gồm nhiều hình thức khác nhau. Tín dụng được phân chia theo nhiều hình thức
như sau:
1.2.2.1. Tín dụng phân chia theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng thương
mại, liên quan đến sự an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả
của khách hàng. Theo tiêu thức thời gian, tín dụng được phân chia thành:
a) Tín dụng ngắn hạn: là tín dụng có thời hạn dưới một năm nhằm tài trợ
cho việc đầu tư vào tài sản lưu động, phục vụ nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân.
Tín dụng này ít rủi ro vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra, ngân hàng
thương mại có thể dự tính được.
b) Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm nhằm tài
trợ cho đầu tư vào tài sản cố định, xây dựng các công trình nhỏ có khả năng thu
hồi vốn nhanh.
c) Tín dụng dài hạn: là tín dụng có thời hạn trên 5 năm nhằm đầu tư vào các
dự án đầu tư như xây dựng cơ bản, xây dựng xí nghiệp mới, các công trình thuộc
cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, bệnh viện…
Thông thường ở các ngân hàng thương mại hiện nay, tỷ trọng tín dụng ngắn
hạn thường cao hơn tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn. Nguyên nhân là do tín
dụng trung, dài hạn có độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm. Ngoài ra,
còn một số yếu tố ảnh hưởng đến nguồn tín dụng trung và dài hạn như tính kỳ hạn
và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trung, dài
hạn.
1.2.2.2. Tín dụng phân chia theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
a) Tín dụng không có bảo đảm: là hình thức tín dụng ngân hàng thương mại

cấp cho khách hàng có uy tín thường là khách hàng làm ăn thường xuyên, có lãi,
tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra trường hợp nợ nần dây dưa hoặc món vay
rất nhỏ so với vốn của người vay.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
b) Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng ngân hàng và khách hàng ký
hợp đồng bảo đảm. Khách hàng bảo đảm cho khoản tiền vay bằng tài sản thế
chấp, cầm cố tại ngân hàng hoặc phải có sự bảo lãnh của một bên thứ ba.
1.2.2.3. Tín dụng phân chia theo hình thức tài trợ
Theo tiêu thức này, tín dụng được phân chia thành:
a) Cho vay: là hình thức ngân hàng thương mại đưa tiền cho khách hàng với
cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Cho
vay cũng là hoạt động chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại. Ngày nay, các ngân hàng thương mại áp dụng
rất nhiều các hình thức cho vay khác nhau phù hợp với sự phát triển kinh tế và
nhu cầu khách hàng như:
 Cho vay thấu chi: là phương thức tài trợ ngắn hạn trong đó ngân hàng
thương mại cho phép khách hàng được rút tiền vượt quá số dư trên tài khoản vãng
lai trong phạm vi số tiền và thời hạn nhất định. Hình thức này mang lại nhiều lợi
thế cho khách hàng như: thủ tục đơn giản, không cần tài sản đảm bảo, giải ngân
nhanh chóng, cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân trong một thời hạn đã được hai
bên thỏa thuận phục vụ cho mục đích chi trả lương, mua hàng… của khách hàng.
Đối tượng của hình thức cho vay thấu chi này là các khách hàng truyền thống của
ngân hàng, có uy tín, có thu nhập ổn định.
 Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay đối tượng khách hàng
không có nhu cầu vay thường xuyên và không có điều kiện để được cấp hạn mức
thấu chi. Khách hàng thường sử dụng vốn chủ và tín dụng thương mại là chủ yếu,
chỉ khi nào xuất hiện nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất mới đi vay ngân hàng.
Ở hình thức cho vay này, vốn vay của ngân hàng thương mại chỉ tham gia vào

một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay vốn,
khách hàng phải lập hồ sơ vay vốn theo quy định và ký hợp đồng tín dụng. Ngân
hàng thương mại sẽ căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh trong hồ sơ vay
vốn của khách hàng để xác định mức cho vay và xác định thời hạn cho vay phù
hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
 Cho vay theo hạn mức: là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương
mại mà theo đó khách hàng chỉ việc làm một bộ hồ sơ để vay trong một kỳ nhất
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
định với mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận. Trong hình
thức này, khách hàng chỉ lập hồ sơ một lần cho nhiều khoản vay, ngân hàng
thương mại cấp cho khách hàng một hạn mức, chỉ giới hạn dư nợ, không giới hạn
doanh số. Đối tượng cho vay theo hạn mức là khách hàng có nhu cầu vay vốn
thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng, tín nhiệm với ngân hàng. Vì vậy, ở
loại hình cho vay này, ngân hàng thương mại không ấn định trước ngày trả nợ,
khách hàng có thu nhập thì ngân hàng thu nợ tạo cho khách hàng chủ động trong
việc quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn
nợ cụ thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc kiểm soát hiệu quả sử dụng vốn
từng lần vay, ngân hàng khó phát hiện được những vấn đề bất ổn của khách hàng
là nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng.
 Cho vay luân chuyển: Là hình thức cho vay dựa vào sự luân chuyển của
hàng hóa, đáp ứng sự thiếu hụt vốn của doanh nghiệp khi mua hàng. Ngân hàng
cung cấp vốn cho doanh nghiệp để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán
hàng. Tài sản đảm bảo cho khoản vay trong hình thức này là các khoản phải thu
khi bán hàng và các hàng hóa trong kho của doanh nghiệp. Cho vay luân chuyển
thường áp dụng cho các doanh nghiệp thương mại hay các doanh nghiệp sản xuất
có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Nhìn chung, hình thức này thuận tiện cho khách hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu
vốn thiếu hụt. Tuy nhiên, cho vay luân chuyển lại không quy định thời hạn khoản

vay rõ ràng nên khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa sẽ gây
khó khăn cho ngân hàng thương mại trong việc thu hồi vốn.
 Cho vay trả góp: là hình thức cho vay mà ngân hàng thương mại cho phép
khách hàng được trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
Hình thức này thường áp dụng cho các khoản vay trung dài hạn, tài trợ cho tài sản
cố định. Cho vay trả góp thường rủi ro cao cho ngân hàng vì tài sản đảm bảo là
hàng hóa mua trả góp. Khả năng thu hồi nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của
khách hàng. Trong trường hợp khách hàng mất việc, thu nhập giảm thì ảnh hưởng
đến việc thu nợ của ngân hàng. Do vậy, lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất
trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại.
b) Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua
máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của
bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng
tài sản cho thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên
thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền mua lại tài sản thuê
hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài
chính. Nói chung, cho thuê tài chính là sản phẩm tín dụng mang lại nhiều lợi ích
cho doanh nghiệp như tránh được rủi ro khi sở hữu tài sản ( lạc hậu, xuống cấp,
mất giá), thu được lợi ích từ thuế ( chi phí thuê được tính vào chi phí trước khi
xác định lợi nhuận nộp thuế), đáp ứng nhu cầu tài sản cố định để mở rộng sản
xuất của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không đủ điều kiện tiếp
cận vốn vay trung, dài hạn của ngân hàng…
c) Bảo lãnh: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh đảm bảo
sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thể
thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên được bảo

lãnh, bên bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh. Trong bảo lãnh ngân hàng, ngân hàng
là bên bảo lãnh, khách hàng là bên được bảo lãnh còn bên hưởng bảo lãnh là bên
thứ ba. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Khi bảo lãnh, ngân hàng
không phải bỏ tiền ngay, bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên,
khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ
chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này xếp vào tài sản xấu trong nội bảng, cấu
thành nợ quá hạn nên bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro như một khoản vay, đòi hỏi
ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi cho vay. Tùy theo mục tiêu bảo
lãnh mà càng ngày các ngân hàng thương mại phát triển nhiều loại bảo lãnh khác
nhau như:
 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là ngân hàng cam kết chi trả tổn thất thay
cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng hợp đồng như cam kết gây
tổn thất cho bên thứ ba.
 Bảo lãnh dự thầu: là ngân hàng cam kết với chủ đầu tư hay chủ thầu về
việc chi trả tiền phạt cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong
hợp đồng dự thầu.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
 Bảo lãnh vay vốn: là việc ngân hàng cam kết với người cho vay( tổ chức
tín dụng, các cá nhân…) sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng( người đi vay)
không trả được.
 Bảo lãnh đảm bảo thanh toán: là việc ngân hàng cam kết sẽ thanh toán tiền
theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân
hàng không thanh toán đủ.
d) Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng thương mại mua lại các giấy
tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của khách hàng dưới mệnh giá của
thương phiếu. Chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho cả khách hàng
và ngân hàng. Đối với khách hàng, chiết khấu thương phiếu cung cấp tiền kịp thời
cho khách hàng đáp ứng nhu cầu thanh toán, làm quá trình sản xuất của doanh

nghiệp được diễn ra liên tục. Đối với ngân hàng thương mại, chiết khấu thương
phiếu giúp ngân hàng không bị đóng băng vốn( ngân hàng có thể tái chiết khấu
thương phiếu khi cần vốn), lãi suất hiệu dụng cao, thủ tục đơn giản.
1.3. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm.
Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, quy mô và số lượng các doanh
nghiệp trong nền kinh tế càng ngày càng gia tăng. Để đứng vững trong điều kiện
cạnh tranh gay gắt của thị trường thì ngoài vấn đề số lượng và giá cả, vấn đề chất
lượng hàng hóa cũng là yếu tố quan trọng góp phần duy trì sự ổn định và phát
triển lâu dài của doanh nghiệp. Có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề chất
lượng. Theo quan niệm của một số nhà kinh tế, “ chất lượng là sự phù hợp mục
đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hóa nào đó” hay “
chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn nhu cầu khách
hàng”.
Trên cơ sở đó, chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại là sự đáp ứng
nhu cầu của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chính ngân hàng,
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Chất lượng tín dụng được hình thành và
đảm bảo từ hai phía: ngân hàng và khách hàng. Bởi vậy, chất lượng tín dụng của
ngân hàng không những phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào
chất lượng hoạt động của khách hàng. Khi nghiên cứu chất lượng tín dụng của
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
ngân hàng có thể nghiên cứu trên ba giác độ: từ phía khách hàng, từ phía nền kinh
tế và từ bản thân ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, đối với khách hàng: chất lượng tín dụng thể hiện đã thỏa mãn
được bao nhiêu trong số những yêu cầu đặt ra của khách hàng. Từ khía cạnh của
khách hàng vay vốn, chất lượng tín dụng tốt đảm bảo được các yêu cầu như thủ
tục đơn giản, giải ngân nhanh chóng, lãi suất thấp, ngân hàng cung cấp nhiều tiện
ích cho khách hàng như dịch vụ tư vấn, lập phương án kinh doanh cho khách

hàng vay vốn…
Thứ hai, đối với sự phát triển kinh tế xã hội: chất lượng tín dụng mang lại
những lợi ích gì cho xã hội, có tuân thủ đúng pháp luật, đóng góp bao nhiêu phần
trăm vào tốc độ phát triển kinh tế? Chất lượng tín dụng tốt phục vụ sản xuất và
lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng
tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, đối với ngân hàng thương mại: chất lượng tín dụng có thỏa mãn các
kế hoạch chỉ tiêu của nhà quản lý ngân hàng cũng như các chính sách cạnh tranh
của ngân hàng hay không? Ngoài ra, chất lượng tín dụng còn thể hiện hoạt động
tín dụng có đảm bảo tính an toàn vốn và sinh lợi cho ngân hàng?
1.3.2. Tiêu chí phản ánh chất lượng tín dụng
Ở phần khái niệm trên, cơ sở để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng
thương mại là hoạt động tín dụng của ngân hàng đáp ứng được bao nhiêu nhu cầu
khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế và đảm bảo tính an toàn cũng như
sinh lợi cho ngân hàng thương mại hay không? Tuy nhiên để đánh giá cụ thể và
chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng, ta phân tích một số chỉ tiêu sau:
1.3.2.1. Hiệu suất sử dụng vốn
“Đi vay để cho vay” là hoạt động chính của ngân hàng thương mại. Trong
hoạt động đi vay, ngân hàng là người phải trả các khoản lãi cho các nguồn vốn
huy động được, đồng thời sẽ thu lại từ hoạt động cho vay. Vậy phải phân bổ các
nguồn vốn đó như thế nào để đảm bảo tính hiệu quả? Nếu nguồn vốn huy động
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
lớn mà dư nợ thấp sẽ bị ứ đọng vốn. Ngược lại, dư nợ quá cao thì khả năng khống
chế rủi ro cũng khó khăn.
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng nguồn vốn huy động

Qua công thức trên cho thấy việc vận dụng linh hoạt giữa nguồn vốn đi vay
và sử dụng vốn đó để cho vay góp phần không nhỏ trong hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
1.3.2.2. Vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng thường là chỉ tiêu được các ngân hàng thương mại
sử dụng để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng
trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn tín dụng. Nếu tỷ lệ vòng
quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ kỳ luân chuyển vốn tín dụng nhanh, công
tác thu nợ của ngân hàng thương mại trong kỳ tốt và ngược lại, tỷ lệ này thấp
phản ánh việc thu nợ kém, vốn tín dụng bị đóng băng. Tuy nhiên, vòng quay vốn
tín dụng tăng quá nhanh kỳ này so với kỳ trước có thể là biểu hiện dư nợ giảm
trong kỳ, quy mô tín dụng bị thu hẹp ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín
dụng.
1.3.2.3. Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Thu nhập từ hoạt động tín dụng là nguồn thu nhập chủ yếu trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại. Ngân hàng có chất lượng hoạt động tín
dụng tốt, kinh doanh hiệu quả thì chỉ tiêu này cao và ngược lại. Thật vậy, thu
nhập từ hoạt động tín dụng cao chứng tỏ các khoản vay không những được thu
hồi cả gốc mà còn có lãi đảm bảo được độ an toàn của nguồn vốn vay.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
Thu nhập từ hoạt động tín dụng = Doanh thu hoạt động tín dụng – chi phí
hoạt động tín dụng
Tuy nhiên, chỉ tiêu này là tuyệt đối nên chưa phản ánh chính xác chất lượng
tín dụng. Trong trường hợp hai ngân hàng thương mại có thu nhập từ hoạt động

tín dụng như nhau nhưng quy mô dư nợ tín dụng lại khác nhau nên chất lượng tín
dụng sẽ khác nhau. Vì vậy, chỉ tiêu sinh lãi trên một đồng vốn sẽ phản ánh chính
xác hơn chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại có thực sự là tốt?
Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Hệ số sinh lãi trên 1 đồng vốn =
Tổng dư nợ
1.3.2.4. Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi khách
hàng đi vay không thể thực hiện hoặc cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối
với ngân hàng đúng hạn. Đây có thể coi là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá đúng
chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này thấp thì chất lượng và độ an toàn trong hoạt động tín dụng tại ngân
hàng thương mại cao và mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng thấp. Ngược lại,
tỷ lệ này cao phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại thấp, ngân
hàng có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận.
1.3.2.5. Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng thương mại với
nền kinh tế. Chỉ tiêu này cao thể hiện được quy mô hoạt động của ngân hàng
thương mại, thực lực đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế và uy tín hoạt động
của ngân hàng đối với khách hàng.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
1.3.2.6. Dư nợ bình quân một cán bộ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh trung bình một cán bộ tín dụng đảm nhiệm bao nhiêu
dư nợ.
Tổng dư nợ

Dư nợ bình quân một cán bộ tín dụng =
Số cán bộ tín dụng
Chỉ tiêu này cao chứng tỏ một cán bộ tín dụng được đảm nhiệm một khoản
dư nợ tín dụng lớn, tạo ra nhiều lợi nhuận cho ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,
chỉ tiêu này lớn quá lại tạo áp lực cho cán bộ tín dụng, khả năng phân tích kiểm
tra cũng như giám sát khoản vay bị hạn chế.
1.3.2.7. Cơ cấu dư nợ theo các loại hình tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng thương mại đã phát triển những hình thức
tín dụng nào? Tỷ trọng mỗi hình thức tín dụng là bao nhiêu? Hình thức tín dụng
nào cần ngân hàng thương mại tập trung phát triển hơn nữa? Đa dạng hóa các loại
hình thức tín dụng không những giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng mà đem
đến cho khách hàng nhiều sự lựa chọn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như
hiện nay, cơ cấu dư nợ theo các loại hình tín dụng không đa dạng phong phú sẽ
không có khả năng thu hút khách hàng, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
cho ngân hàng thương mại được.
1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương
mại.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại (NHTM),
hoạt động tín dụng phát triển kéo theo các hoạt động khác của NHTM phát triển.
Chất lượng tín dụng được nâng cao góp phần tăng khả năng sinh lời cho ngân
hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng luôn là cái đích mà tất cả các NHTM
muốn hướng tới. Có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của
NHTM, không chỉ từ phía chính NHTM, khách hàng ( KH) mà còn có một số các
nhân tố khác.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
1.4.1. Nhân tố chủ quan
a. Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng là đường lối,
chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, liên quan đến việc

mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Chính sách tín dụng bao gồm: hạn mức tín dụng,
kỳ hạn của các khoản vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí. Các điều khoản của
chính sách tín dụng được xây dựng dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như các điều
kiện kinh tế, chính sách tiền tệ và tài khóa của Chính phủ và ngân hàng nhà nước
( NHNN), khả năng tài chính của NHTM và nhu cầu của khách hàng. Tùy theo
từng điều kiện của mỗi NHTM mà có những chính sách tín dụng khác nhau. Ví
dụ đối với những khách hàng uy tín có quan hệ lâu năm với ngân hàng thì có thể
thực hiện cho vay không cần các điều kiện bảo đảm như thế chấp, tín chấp, hay
bảo lãnh có hạn mức cao hơn, lãi suất ưu đãi hơn. Một chính sách tín dụng đúng
đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng
trên cơ sở hạn chế rủi ro, tuân thủ đường lối chính sách của Nhà nước. Điều đó
cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc xây dựng chính sách tín
dụng của ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không? Bất cứ NHTM nào
muốn có chất lượng tín dụng tốt cũng đều phải có chính sách tín dụng đúng đắn,
phù hợp với thực tế ngân hàng cũng như của thị trường.
b. Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng là tập hợp những nội dung, nghiệp
vụ cơ bản, các bước tiến hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an
toàn vốn tín dụng, bao gồm các bước bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền
vay, kiểm tra trong quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay là rất quan trọng ( khách
hàng nộp hồ sơ vay vốn). Bước này gồm: khai thác và tìm kiếm khách hàng;
hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và thành lập hồ sơ vay; phân tích
thẩm định khách hàng về phương án và dự án vay vốn. Chất lượng tín dụng phụ
thuộc chủ yếu vào chất lượng công tác thẩm định và quy chế về điều kiện, thủ tục
cho vay của từng NHTM.
Kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay giúp NHTM nắm được diễn biến của
khoản tín dụng đã cung cấp cho khách hàng để có những hành động điều chỉnh
can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
17

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
dụng hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được hệ thống phòng ngừa hữu
hiệu, giảm rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng.
Thu hồi và giải quyết nợ là khâu quyết định đến chất lượng tín dụng. Sự
nhạy bén của NHTM trong việc kịp thời phát hiện những biểu hiện bất lợi xảy ra
với khách hàng cũng như có những biện pháp xử lý kịp thời tư vấn cho khách
hàng giảm thiểu được những khoản nợ quá hạn sẽ tác động tích cực tới chất lượng
hoạt động tín dụng.
Quy trình tín dụng của NHTM không mang tính cứng nhắc. Thực vậy, đối
với mỗi khách hàng khác nhau, ngân hàng có thể chủ động, linh hoạt thực hiện
các bước trong quy trình tín dụng cho phù hợp. Ví dụ, với những dự án lớn thì
bước phân tích là quan trọng; đôi khi có những dự án phức tạp, NHTM phải thành
lập tổ thẩm định riêng. Còn với cho vay tiêu dùng, việc giám sát mục đích sử
dụng vốn cần được chú trọng nhiều hơn.
c.Công tác tổ chức ngân hàng: Ngân hàng thương mại được tổ chức một
cách khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng
ban, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn hệ thống cũng như với các cơ quan
liên quan khác. Trong công tác tổ chức ngân hàng thương mại cần chú trọng công
tác kiểm tra kiếm soát nội bộ. Thông qua công tác này giúp các nhà lãnh đạo ngân
hàng nắm được những gì đang diễn ra, phát hiện những thuận lợi cũng như những
khó khăn sai trái để từ đó đưa ra các biện pháp giải quyết kịp thời. Chất lượng tín
dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những quy định, thể chế, chính sách và mức
độ phát hiện kịp thời các sai sót cũng như nguyên nhân dẫn đến các lệch lạc trong
quá trình thực hiện một khoản tín dụng.
d. Phẩm chất và trình độ cán bộ: Chất lượng đội ngũ cán bộ trong ngân hàng
là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Thực vậy, cán bộ tín dụng tham gia
vào mọi khâu của quy trình tín dụng từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng. Cán bộ
tín dụng mà không có đạo đức nghề nghiệp, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm,
cố ý làm trái pháp luật sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Ngoài ra, trình

độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng tới công tác tín
dụng. Một cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ có kỹ năng và kinh nghiệm sẽ đánh
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
giá chính xác tính khả thi của dự án, xác định được tính chân thực của các báo
cáo tài chính, xác định được các hành vi cố tình lừa đảo của khách hàng (như sửa
chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ thế chấp giả, dùng một tài sản thế chấp đi vay ở
nhiều nơi…). Từ đó, họ sẽ phân tích được năng lực thực sự và khả năng quản lý
của khách hàng để đưa ra quyết định có nên cho vay hay không? Bên cạnh đó, cán
bộ tín dụng cần có sự hiểu biết rộng về pháp luật, môi trường kinh tế xã hội,
đường lối phát triển của đất nước, sự thay đổi của thị trường… để dự báo được
những biến động có thể xảy ra để tư vấn cho khách hàng xây dựng lại phương án
kinh doanh cho phù hợp.
1.4.2. Nhân tố khách quan
a. Khách hàng: khách hàng là người lập phương án và dự án xin vay. Sau
khi được ngân hàng chấp nhận, khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay để
kinh doanh. Vì vậy, khách hàng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng như sau:
Thứ nhất, năng lực của khách hàng là nhân tố quyết định đến việc sử dụng
vốn vay của khách hàng có hiệu quả hay không? Nếu năng lực của khách hàng
yếu kém, thể hiện ở việc không dự đoán được những biến động lên xuống của nhu
cầu thị trường , không hiểu biết nhiều trong việc sản xuất, phân phối, khuếch
trương sản phẩm thì sẽ dễ dàng bị “ gục ngã” trong cạnh tranh. Do đó, nó làm ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, chất lượng tín dụng của ngân hàng bị
giảm. Ngược lại, năng lực khách hàng càng cao, khả năng cạnh tranh trên thị
trường tốt, tình hình sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng hiệu quả vốn vay ngân hàng
góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Thứ hai, sự trung thực của khách hàng ảnh hưởng khá lớn tới chất lượng tín
dụng của NHTM. Nếu các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không cung cấp các
số liệu trung thực, vi phạm chế độ kế toán được ban hành thì sẽ gây khó khăn cho

ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc quản
lý vốn vay của khách hàng để qua đó có thể đưa ra quy định cho vay đúng đắn.
Nếu khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng không đúng đối tượng kinh doanh,
phương án và mục đích khi xin vay thì sẽ không trả được nợ đúng hạn.
Thứ ba, rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng: Rủi ro là thuật
ngữ chỉ những nguy cơ hay khả năng gây ra tổn thất. Rủi ro trong kinh doanh là
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
một yếu tố tất yếu. Trong sản xuất kinh doanh, rủi ro phát sinh dưới nhiều hình
thái khác nhau như thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, năng lực sản xuất kinh doanh
yếu kém, bị lừa đảo, trộm cắp… ví dụ như giá nguyên vật liệu đầu vào của ngành
sản xuất bia tự nhiên tăng cao, bắt buộc doanh nghiệp phải đẩy giá sản phẩm tăng,
làm giảm số lượng tiêu thụ bia vì họ chuyển sang dùng nước khoáng thay bia.
Điều này làm giảm doanh thu của doanh nghiệp trong khi đó chi phí lại tăng, khả
năng thu hồi vốn chậm, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ảnh hưởng tới khả năng trả
nợ ngân hàng.
Thứ tư, tài sản đảm bảo : quyền sở hữu tài sản là một trong những tiêu chuẩn
để được cấp tín dụng ( tài sản thế chấp, tín chấp, cầm cố…). Tuy nhiên hiện nay
có rất nhiều tài sản đảm bảo của các pháp nhân không có giấy chứng nhận sở hữu.
Tài sản cố định phần lớn là máy móc, thiết bị lạc hậu không đủ tiêu chuẩn thế
chấp trong khi nhu cầu vay vốn ngân hàng là rất lớn. Như vậy, nếu cho vay đúng
chế độ thì hầu hết các doanh nghiệp không đủ điều kiện để được vay hoặc nếu
được vay nhưng số lượng vay không đáng kể.
b. Môi trường kinh tế: Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm các hoạt động
kinh tế có quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau nên bất kỳ một sự biến động
của một hoạt động kinh tế nào cũng sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh
của các lĩnh vực còn lại. Hoạt động của ngân hàng thương mại có thể được coi là
chiếc cầu nối các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì thế, sự ổn định hay mất
ổn định của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng, đặc

biệt là hoạt động tín dụng.
Các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới
chất lượng tín dụng. Lạm phát gia tăng gây lên sự biến động gia tăng của lãi suất,
khách hàng khó tiếp cận được với nguồn vốn vay, ngân hàng bị ứ đọng vốn trong
khi chi phí huy động vốn cao, ảnh hưởng xấu tới chất lượng hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại. Do vậy, một nền kinh tế ổn định, tỷ lệ lạm phát vừa
phải sẽ tạo điều kiện cho các khoản tín dụng có chất lượng cao. Tức là các doanh
nghiệp hoạt động trong một môi trường ổn định thì khả năng tạo ra lợi nhuận cao
hơn, từ đó mà có thể trả vốn và lãi cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh tế biến
động thì các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cũng thất thường ảnh hưởng đến
thu nhập của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ của ngân
hàng.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
Chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ
suy thoái, sản xuất vượt quá nhu cầu dẫn tới hàng tồn kho lớn, hoạt động tín dụng
gặp nhiều khó khăn do các doanh nghiệp không phát triển được. Hơn nữa nếu
ngân hàng bỏ qua các nguyên tắc tín dụng thì lại càng làm giảm chất lượng tín
dụng. Ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao, các doanh
nghiệp có xu hướng mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu tín dụng tăng và rủi ro
ít, do đó chất lượng tín dụng cũng tăng. Tuy nhiên trong thời kỳ này có những
khoản vay vượt quá quy mô sản xuất cũng như khả năng quản lý của khách hàng
nên những khoản vay này vẫn gặp rủi ro.
c. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước: Các chính sách của Nhà nước ổn định
hay không ổn định cũng đều tác động đến chất lượng tín dụng. Khi các chính sách
này không ổn định sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, từ đó gây trở ngại cho ngân hàng khi thu hồi nợ và ngược lại. Hệ
thống pháp luật là cơ sở để điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế. Nếu hệ
thống pháp luật không đồng bộ hay thay đổi sẽ làm hoạt động kinh doanh gặp khó

khăn. Ngược lại, nếu phù hợp với thực tế khách quan thì sẽ tạo môi trường pháp
lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành hiệu quả và đạt kết quả cao.
d. Môi trường xã hội: Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở lòng tin.
Nó là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Đạo đức xã hội ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng. Trong trường hợp đạo đức xã hội không tốt, lợi dụng lòng tin để
lừa đảo sẽ làm giảm chất lượng tín dụng. Hơn nữa trình độ dân trí chưa cao, kém
hiểu biết về hoạt động ngân hàng cũng sẽ làm giảm chất lượng tín dụng.
e. Môi trường tự nhiên: Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi
trường tự nhiên như thiên tai (hạn hán, lũ lụt, động đất, hoả hoạn) làm ảnh hưởng
tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là trong các ngành có
liên quan đến nông nghiệp, thuỷ sản, hải sản. Vì vậy khi môi trường tự nhiên
không thuận lợi thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn từ đó làm giảm chất lượng tín
dụng của Ngân hàng thương mại.
Trên đây là những nhân tố chính tác động tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng
thương mại. Để nâng cao chất lượng tín dụng, chúng ta cần nghiên cứu và nhận thức
đúng đắn các yếu tố trên, cùng với kết quả hoạt động thực tiễn của các Ngân hàng
thương mại, để từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục có tính khả thi cao.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI PHÒNG GIAO DỊCH PHÚ XUÂN - CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN
BẢO THẮNG, LÀO CAI
2.1. Khái quát về Phòng giao dịch Phú Xuân - Chi nhánh ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bảo Thắng, Lào Cai.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Phòng giao dịch Phú Xuân -
Chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bảo Thắng, Lào Cai.
Phòng giao dịch Phú Xuân - Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Bảo Thắng,

Lào Cai (gọi tắt là PGD Phú Xuân) được thành lập theo Quyết định số
166/QĐ/NHNo-TCCB ngày 02/3/2007 của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt
Nam. Từ khi thành lập đến nay, PGD Phú Xuân đã đạt được nhiều thành tựu đáng
khích lệ.
PGD Phú Xuân kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng trên
địa bàn 3 xã (Gia Phú, Xuân Giao, Phú Nhuận) và một Thị trấn (Tằng Loỏng) với
dân số gần 40 nghìn người, bao gồm 14 dân tộc anh em sinh sống, trong đó đồng
bào dân tộc thiểu số chiếm 85%. PGD Phú Xuân đã cho hơn 500 hộ vay hơn 25 tỉ
đồng vốn để sản xuất.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
2.1.2.1. Tổ chức bộ máy của Phòng giao dịch Phú Xuân - Chi nhánh
NHNo & PTNT huyện Bảo Thắng, Lào Cai.
Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức của PGD Phú Xuân
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
22
Giám đốc
Phó Giám đốc
Tổ kế toán Tổ tín dụng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
2.1.2.2. Chức năng của các bộ phận
Ban giám đốc:
 Giám đốc: Phụ trách chung và chỉ đạo các hoạt động chung của toàn chi
nhánh, phân công cho phó giám đốc, có thể ủy quyền cho một số trưởng phòng
nghiệp vụ trực tiếp giải quyết và kí văn bản về những vấn đề thuộc thẩm quyền
của giám đốc.
 Phó giám đốc: Được sự ủy quyền hàng năm của giám đốc phụ trách phòng
ban, trực tiếp điều hành một số lĩnh vực nghiệp vụ của PGD Phú Xuân do giám
đốc phân công .
Các bộ phận chức năng
* Tổ tín dụng:

Đây là bộ phận tập trung những hoạt động chính của ngân hàng, quyết định
phần lớn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hang.
Tổ tín dụng được giao các nhiệm vụ sau đây: cho vay đối với các thành phần
kinh tế theo Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng, mở tài khoản cho vay
và theo dõi các hợp đồng tín dụng, tính lãi theo định kỳ, điều hoà vốn và ngoại tệ,
làm báo cáo và tập hợp báo cáo gửi hàng cấp trên, làm một số nghiệp vụ khác
được giao.
* Tổ kế toán:
Quản lý toàn bộ các tài khoản khách hàng và các tài khoản nội bộ trong
ngoài bảng cân đối kế toán: Mở tài khoản tiền gửi, thanh toán các loại séc, ngân
phiếu - thực hiện thanh toán nội bộ, thanh toán qua hệ thống điện tử và thanh toán
bù trừ.
Tổ trưởng tổ kế toán PGD Phú Xuân chịu trách nhiệm trước Giám đốc về
việc kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ thanh toán, về các quyết định
chuyển tiền đi cũng như hạch toán và các tài khoản thích hợp.
Tổ kế toán đảm nhiệm cả hai công việc: Kế toán nội bộ và kế toán giao
dịch. Nhiệm vụ của kế toán nội bộ là thực hiện công tác kế toán và quản lý chi
tiêu nội bộ như: chi trả lương cho cán bộ công nhân viên; báo cáo tổng hợp thu
chi hàng tháng, hàng quý và cả năm với Ban giám đốc.

Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
Nhiệm vụ của kế toán giao dịch là xử lý các giao dịch như: nhận tiền gửi của các
doanh nghiệp, các cá nhân, các tổ chức kinh tế, xã hội, mở tài khoản; thực hiện
nghiệp vụ chuyển tiền và thanh toán cho khách hàng, các nghiệp vụ thanh toán
không dùng tiền mặt; tổ chức ghi chép phản ánh một cách đầy đủ, chính xác, kịp
thời từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh về các hoạt động huy động và sử dụng vốn;
tổ chức thanh toán bù trừ và thanh toán liên hàng và lập bảng cân đối ngày, tuần,
tháng, quý, năm và gửi báo cáo lên ngân hàng cấp trên.

2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của PDG Phú Xuân các năm từ
2008 đến 2010
Được thành lập trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có chiều hướng suy
thoái, tình hình kinh tế trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, tỷ lệ lạm phát
tăng cao, giá cả biến động, lãi suất biến đổi liên tục, thị trường tiền tệ biến động
mạnh đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói
chung và PGD Phú Xuân nói riêng. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của PGD chật hẹp
và thiếu thốn, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ hạn chế. Tuy vậy, trong
năm 2008- 2010 vừa qua, PGD vẫn đạt được các kết quả kinh doanh cụ thể như
sau:
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Trong kinh doanh ngân hàng, giữa huy động vốn và sử dụng vốn có mối
quan hệ không thể tách rời, tác động qua lại với nhau. Một nguồn vốn mạnh, cơ
cấu nguồn hợp lý là điều kiện cho việc mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng
của một ngân hàng. Bởi vậy, PGD Phú Xuân luôn đặt công tác huy động vốn là
một trong những nhiệm vụ hàng đầu.
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Ths. Phan Hồng Mai
Bảng 2.1. Hoạt động huy động vốn của PGD Phú Xuân
Đơn vị : triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008 2009 2010
Tổng nguồn vốn 61.500 67.327 71.650
Cơ cấu nguồn theo đồng tiền
- Nguồn nội tệ 58.425 63.960 70.217
- Nguồn ngoại tệ (qui đổi VND) 3.075 3.367 1.433
Cơ cấu nguồn theo kỳ hạn
-Không kỳ hạn 8.785 5.386 6.448

-Nguồn < 12 tháng 13.178 33.663 42.990
-Nguồn từ 12 tháng trở lên 39.537 28.278 22.212
Phân loại theo loại nguồn
-Tiền gửi dân cư 60.270 65.307 70.217
-Tiển gửi TCKT, TCXH 1.107 1.885 1.289
-Tiền gửi khác 123 135 144
( Nguồn: Báo cáo KQKD của PGD Phú Xuân )
Qua bảng trên ta thấy hoạt động huy động vốn của PGD Phú Xuân có
nhiều thay đổi nhưng nhìn chung tăng qua các năm. Năm 2008, tổng nguồn vốn
huy động được là 61.500 triệu đồng, tăng 162,66% so với năm 2007. Năm 2009
tăng lên 67.327 triệu đồng, tăng 9,55% và đến năm 2010 là 71.650 triệu đồng, tăng
6,4%.
Năm 2008 là năm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và lan rộng ra
toàn cầu khiến cho nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng
cũng ảnh hưởng ít nhiều đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động của
ngành ngân hàng nói riêng. Hoạt động của PGD Phú Xuân cũng ảnh hưởng ít
nhiều. Tuy nhiên, sau hơn một năm đi vào hoạt động, với những biện pháp thu hút
tiền nhàn rỗi từ dân cư như tăng lãi suất cùng xác chương trình khuyến mại, tiết
kiệm dự thưởng, ưu đãi đặc biệt với khách hàng khi gửi tiết kiệm, tổng nguồn
vốn huy động được cả năm 2008 đạt 61.500 triệu đồng, tăng hơn rất nhiều so với
năm 2007.
Xác định được huy động vốn là một hoạt động quan trọng của ngân hàng
nên sang năm 2009, PGD Phú Xuân đã đưa ra hàng loạt các biện pháp như đẩy
Trần Thị Thanh Huyền Tài chính A - K39
25

×