Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Sông đà 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.97 KB, 85 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Xuất phát từ yêu cầu công cuộc đổi mới nền kinh tế, thực hiện chủ
trương của Nhà nước, Công ty Cổ phần Sông đà 9 – đơn vị thành viên của
Tập đoàn Sông đà đã tiến hành cổ phần hoá thành công vào năm 2006. So với
trước khi cổ phần hoá, kết quả hoạt động kinh doanh của công ty tốt hơn, thu
nhập của người lao động được cải thiện, vốn kinh doanh của công ty đã tăng
lên nhiều lần. Tuy nhiên, do chuyển đổi từ doanh nghiệp của nhà nước nên
còn một số bất cập trong quản lý nhất là vấn đề hiệu quả sử dụng vốn của
Công ty. Do vậy đề tài tập trung giải quyết nội dung “Nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn tại Công ty Cổ phần Sông đà 9 ”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ về mặt lý luận về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nói chung.
Vận dụng lý luận nghiên cứu thực trạng sử dụng vốn của Công ty Cổ
phần Sông đà 9.
Trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn tại Công ty Cổ phần Sông đà 9.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: quá trình sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Sông đà 9.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu tình hình sử dụng vốn tại
Công ty Cổ phần Sông đà 9 trong 2 năm 2009 - 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ
yếu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê, so sánh,
phân tích, tổng hợp và dự báo.
1
5. Những đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá lý luận cơ bản về sử dụng vốn của doanh nghiệp trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần
Sông đà 9 trong giai đoạn 2009 - 2010.


- Đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại
Công ty Cổ phần Sông đà 9.
6. Bố cục của luận văn:
- Tên luận văn: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần
Sông đà 9
- Kết cấu luận văn:
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Cổ phần Sông đà 9
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ
phần Sông đà 9
Kết luận.
2
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về vốn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành
lập và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, Trong mọi loại hình doanh
nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Nhiều học giả đã nghiên cứu và đưa ra các khái niệm khác nhau về vốn của
doanh nghiệp, ở đây tác giả xin trình bày một số trong số đó.
Theo Các Mác, dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn được khái quát thành
phạm trù tư bản. Các Mác cho rằng: Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu
vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này có tầm khái quát lớn vì bao hàm đầy
đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị cho dù nó được
biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tài sản cố định, nhà cửa, nguyên
vật liệu, tiền công…Vốn là giá trị mang lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra sự sinh
sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Theo David Begg, tác giả cuốn “Kinh tế học”, cho rằng: vốn bao gồm
vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hóa, sản phẩm
đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hóa khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy
tờ có giá của doanh nghiệp. Theo định nghĩa trên, David Begg đã đồng nhất
vốn với tài sản doanh nghiệp. Thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện
bằng tiền của tất cả các tài sản mà doanh nghiệp dùng trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản
của doanh nghiệp.
Theo quan điểm của Paul A.Samuelson và Wiliam D.Nordhalls thì vốn
là khái niệm thường dùng để chỉ các hàng hoá dùng làm vốn nói chung, một
3
nhân tố sản xuất. Vốn gồm 2 loại là vốn vật chất ( nhà máy, thiết bị, kho
tàng…) và vốn tài chính (tiền mặt, chứng khoán, các giấy tờ có giá, …). Quan
điểm này cho thấy nguồn vốn hình thành và các trạng thái biểu hiện của vốn,
nhưng chưa cho thấy mục đích về sử dụng vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản sau: Sức lao động, đối
tượng lao động và tư liệu lao động. Để có được các yếu tố này đòi hỏi doanh
nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định phù hợp với quy mô và điều kiện
kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển
hóa từ hình thái ban đầu là tiền sang hình thái hiện vật và cuối cùng lại trở về
hình thái ban đầu là tiền. Sự vận động của vốn kinh doanh như vậy gọi là sự
tuần hoàn của vốn. Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp diễn ra liên tục, không ngừng. Do đó, sự tuần hoàn của vốn kinh
doanh cũng diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu
chuyển của vốn kinh doanh.
Từ đó có thể hiểu: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm mục đích sinh lời.

1.1.2. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Quá trình vận động của vốn trong doanh nghiệp có thể được xem là bản
chất, nội dung của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp biểu hiện
dưới hình thức giá trị. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp được thể hiện khái
quát như sau:
- Vốn là điều kiện ban đầu cần thiết để hình thành doanh nghiệp.
Không một doanh nghiệp nào có thể xuất hiện và tồn tại mà không có vốn.
Vốn phải được ứng trước để mua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
- Vốn được đáp ứng đầy đủ kịp thời hay không luôn có ảnh hưởng
4
mang tính quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp khi thực hiện chiến
lược kinh doanh: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào?
- Muốn đầu tư mở rộng quy mô, đạt sự phát triển về kỹ thuật, công nghệ
và trang thiết bị thì doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư trong lĩnh vực nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ và hiện đại hoá doanh nghiệp. Đó là cơ sở để nâng
cao năng lực sản xuất, năng suất lao động, sực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
- Quy mô vốn có ảnh hưởng rất lớn đến phạm vi hoạt động và sự đa
dạng hóa ngành nghề kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải
có lượng vốn nhất định để có thể được tiến hành, doanh nghiệp nào có tiềm
lực về vốn càng mạnh thì sự tự chủ về tài chính và sức cạnh tranh càng cao.
Do vậy, việc tạo ra sự tăng trưởng và phát triển vốn luôn là một mục tiêu cơ
bản trong mỗi doanh nghiệp.
1.1.3. Các đặc trưng của vốn
Vốn của doanh nghiệp có những đặc trưng xác định trong điều kiện
kinh tế thị trường, theo tác giả có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của vốn
như sau:
Thứ nhất: Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản, điều đó có nghĩa
vốn biểu hiện giá trị bằng tiền của tài sản hữu hình và vô hình như: nhà
xưởng, đất đại, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, vị trí địa lý, thương hiệu,

bản quyền, phát minh, sáng chế, bí quyết công nghệ, uy tín của doanh
nghiệp… Ở đây cần phân biệt giữa vốn và tài sản, giữa sử dụng vốn và chi
tiêu. Không phải tất cả tài sản đều là vốn mà chỉ có tài sản hoạt động mới
được gọi là vốn, còn tài sản ở trạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng. Chi tiêu
mất đi thì không gọi là vốn, còn chi phí kinh doanh được bù đắp lại thì được
gọi là vốn. Nhận thức được đặc trưng này giúp cho doanh nghiệp chủ động
tìm mọi biện pháp để huy động mọi tài sản vào kinh doanh, biến vốn tiềm
năng thành vốn hoạt động.
5
Thứ hai: Vốn phải vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn được biểu
hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để tiền biến thành
vốn thì đồng tiền phải vận động sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn
có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng kết thúc vòng tuần hoàn, nó phải trở
về hình thái ban đầu là tiền với giá trị lớn hơn, đây cũng là nguyên tắc sử
dụng và bảo vệ vốn. Tiền bị ứ đọng, tài sản cố định không cần dùng, tài
nguyên, sức lao động không được sử dụng, tiền, vàng cất trữ hoặc các khoản
nợ khê đọng khó đòi… chỉ là những đồng vốn “chết”. Mặt khác, tiền vận
động nhưng lại bị thất lạc, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì
vốn cũng không được bảo đảm, chu kỳ vận động tiếp theo bị ảnh hưởng.
Nhận thức được đặc trưng này, doanh nghiệp cần tìm mọi cách để cho đồng
vốn sinh lời, tránh tình trạng vốn ứ đọng.
Thứ ba: Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng đủ lớn mới có
thể đáp ứng được nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích
sinh lời. Một lượng vốn chưa đủ lớn để trang trải những chi phí đầu tư cần
thiết tối thiểu thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh được, do đó doanh
nghiệp phải biết khai thác tối đa mọi nguồn vốn. Đặc trưng này cho thấy doanh
nghiệp phải xác định cho được nhu cầu vốn kinh doanh và có chiến lược tạo vốn
phù hợp, bảo đảm đủ vốn cần thiết cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Thứ tư: Vốn có giá trị theo thời gian, bởi sức mua của đồng tiền ở các
thời điểm là khác nhau do ảnh hưởng của giá cả, lạm phát, tiến bộ khoa học

Nhận thức được đặc trưng này giúp cho doanh nghiệp tính đúng, tính đủ các
chi phí vốn kinh doanh, tránh tình trạng “lãi giả, lỗ thật”.
Thứ năm: Vốn bao giờ cũng gắn liền với chủ sở hữu nhất định. Người
sử dụng vốn có thể là chủ sở hữu, có thể không, nhưng đồng vốn luôn luôn có
chủ. Người sử dụng vốn được đảm bảo các lợi ích kinh tế do đồng vốn mang
lại. Người sử dụng vốn có trách nhiệm trả lại cho người sở hữu vốn một
khoản tiền nhất định trong thời gian xác định, khoản tiền này được hạch toán
6
vào giá thành sản phẩm. Điều này đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp sử
dụng vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao.
Thứ sáu: Vốn là một hàng hóa đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
Thông qua thị trường tài chính, người cần vốn và người có vốn có thể trao đổi
với nhau. Tuy nhiên với hàng hóa đặc biệt này việc trao đổi không làm thay
đổi quyền sở hữu mà chỉ là sự chuyển nhượng quyền sử dụng. Để có quyền sử
dụng vốn, người vay phải trả cho người cho vay một lãi xuất nhất định được
xác định theo quan hệ cung - cầu trên thị trường vốn vay.
Qua các đặc trưng của vốn trong nền kinh tế thị trường, có thể khẳng
định: Vốn là biểu hiện bằng tiền của giá trị toàn bộ tài sản đầu tư vào hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
1.1.4. Phân loại vốn
Vốn của doanh nghiệp tồn tại dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau
và có mặt ở tất cả các hoạt động, các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Do vậy, việc phân loại vốn là cần thiết để tạo điều kiện cho
việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, quản lý quá trình sản xuất, đảm bảo
huy động đầy đủ vốn, sử dụng vốn tiết kiệm và đạt được mục tiêu của mình.
Tuỳ theo mục đích phân loại vốn, người ta có thể sử dụng các tiêu thức
khác nhau để phân loại vốn. Một số cách phân loại phổ biến bao gồm:
Căn cứ vào hình thái biểu hiện, vốn được chia thành hai loại: vốn hữu
hình và vốn vô hình.
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển, vốn được chia làm hai loại là: ngắn

hạn và dài hạn.
Căn cứ vào nguồn hình thành, vốn được chia thành hai nguồn cơ bản:
nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Căn cứ vào nội dung vật chất, vốn được chia làm hai loại: vốn thực
(vốn vật tư, hàng hoá) và vốn tài chính (vốn tiền tệ).
7
Căn cứ vào phương thức luân chuyển, vốn được chia làm hai loại vốn
cố định và vốn lưu động.
Về cơ bản trên giác độ lý thuyết cũng như trong thực tiễn, vốn được
phân loại căn cứ vào hai tiêu thức chính là luân chuyển vốn và nguồn hình
thành vốn.
1.1.4.1. Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển vốn
Đây là tiêu thức phân loại chủ yếu, hiệu quả nhất trong việc quản lý
vốn. Căn cứ vào tiêu thức này, vốn được phân thành hai loại: vốn cố định và
vốn lưu động.
Vốn cố định: Trong nền kinh tế thị trường để có được các tài sản cố
định cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải đầu tư
ứng trước một lượng vốn tiền tệ nhất định. Số vốn doanh nghiệp ứng ra để
hình thành nên tài sản cố định được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, có thời
gian sử dụng dài cho các hoạt động của doanh nghiệp và phải thỏa mãn đồng
thời tất cả các tiêu chuẩn về tài sản cố định. Tài sản cố định tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong quá trình sử
dụng, tài sản cố định không thay đổi hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư
hỏng hoàn toàn, giá trị của nó được dịch chuyển dần từng phần vào giá trị của
sản phẩm và được bù đắp lại bằng tiền khi sản phẩm được tiêu thụ.
Tài sản cố định với đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh và giá trị hao mòn dần, đã đưa đến đặc điểm chu chuyển vốn cố định là
luân chuyển dần từng phần qua các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tương ứng
với mức độ hao mòn tài sản cố định sẽ có một phần vốn cố định ra nhập chi

phí sản xuất kinh doanh. Phần còn lại của vốn cố định thể hiện trong giá trị
còn lại của tài sản cố định. Cứ như vậy vốn cố định được luân chuyển dần qua
các chu kỳ sản xuất kinh doanh tương ứng với giá trị hao mòn tài sản cố định.
Khi tài sản cố định hết giá trị sử dụng thì vốn cố định cũng hoàn thành một
vòng luân chuyển của nó.
8
Như vậy, Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu tư ứng
trước về tài sản cố định. Đặc điểm của nó là chu chuyển giá trị dần dần từng
phần trong nhiều chu kỳ kinh doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi
tái sản xuất được tài sản cố định về mặt giá trị.
Vốn lưu động: Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được
tiến hành thường xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài
sản lưu động nhất định. Do đó, để hình thành nên tài sản lưu động, doanh
nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ nhất định đầu tư vào các tài sản đó. Số
vốn này được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp gồm 2 bộ phận: Tài sản lưu động
sản xuất và tài sản lưu động lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất gồm nguyên
vật liệu, nhiên liệu…còn tài sản lưu động lưu thông là những tài sản lưu động
trong quá trình lưu thông của doanh nghiệp như thành phẩm trong kho chờ
tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán… Trong quá trình sản xuất kinh
doanh, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn thay thế
chỗ cho nhau,vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất
được tiến hành liên tục thuận lợi.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động, chuyển hóa
lần lượt qua nhiều hình thái khác nhau. Lúc đầu là hình thái tiền tệ, sau
chuyển qua hình thái vật tư, hàng hoá dự trữ,… cuối cùng chuyển về hình thái
tiền tệ ban đầu. Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn
ra liên tục không ngừng, nên sự tuần hoàn của vốn lưu động cũng diễn ra liên
tục, lắp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động.
Như vậy, Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình

thành nên các tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục. Vốn lưu động luân
chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được thu hồi toàn bộ, hoàn thành
trong một vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.
9
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp khác nhau tuỳ
thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp. Vấn đề là ở chỗ xác
định sao cho phù hợp với qui mô kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở đó
có biện pháp huy động vốn kịp thời phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
Việc phân chia vốn thành vốn cố định và vốn lưu động có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc quản lý và sử dụng đối với mỗi loại. Nếu như vốn
cố định phản ánh trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì
vốn lưu động là điều kiện để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn
ra liên tục và ổn định. Do đó doanh nghiệp cần phải xác định cơ cấu và quy
mô của mỗi loại một cách chính xác và khoa học dựa trên những định mức
kinh tế kỹ thuật tiên tiến mới có thể chủ động bảo toàn và phát triển vốn trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.4.2. Xuất phát từ nguồn hình thành
Vốn của doanh nghiệp có thể được hình thành từ các nguồn khác nhau.
Xét trên phương diện nguồn hình thành, có thể chia thành vốn chủ sở hữu và
nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu: là vốn do doanh nghiệp sở hữu hoặc đại diện cho
chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
tùy theo từng loại hình doanh nghiệp.
- Vốn do nhà nước cấp: Các doanh nghiệp nhà nước được ngân sách
cấp một phần hoặc toàn bộ vốn khi bắt đầu hoạt động, có trách nhiệm bảo
toàn và phát triển vốn do nhà nước cấp. Trong quá trình kinh doanh, doanh
nghiệp có thể được ngân sách nhà nước cấp bổ sung hoặc được tài trợ vốn
thông qua việc cấp tài sản, tín dụng ưu đãi hay giảm thuế, giảm phí…
- Vốn tự có: Là phần vốn do chủ doanh nghiệp, chủ đầu tư bỏ ra để đầu

tư vào kinh doanh khi doanh nghiệp mới thành lập hoặc đầu tư dự án.
- Vốn cổ phần: Hình thành do phát hành cổ phiếu trên thị trường khi
sáng lập công ty. Trong quá trình hoạt đông, doanh nghiệp có thể tăng vốn cổ
10
phần bằng cách phát hành thêm cổ phiếu ra thị trường. Tuy nhiên, cần thận
trọng tính toán đến các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh, môi trường
đầu tư để việc phát hành thêm cổ phiếu đạt hiệu quả cao.
- Vốn tự bổ sung: Sau mỗi kỳ kinh doanh, doanh nghiệp có thể tự bổ
sung vốn từ lợi nhuận hàng năm, hoặc từ chênh lệch giá được để lại, hay từ
việc điều chỉnh lại cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp.
Quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn sẽ là điều kiện để doanh nghiệp hoạt
động một cách chủ động và độc lập, đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp
tham gia các hoạt động đầu tư, tăng cường khả năng cạnh tranh và thu được
nhiều nguồn lợi. Chính vì vậy, một doanh nghiệp thành đạt luôn có phương án
bổ sung, tăng trưởng vốn chủ sở hữu.
Nợ phải trả: là phần vốn không thuộc sở hữu của các chủ sở hữu doanh
nghiệp, bao gồm các khoản vốn chiếm dụng và nợ vay.
Một doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết vẫn phải đi vay
vốn dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc đi vay vốn một mặt giải quyết nhu
cầu về vốn đảm bảo cho sự ổn định và liên tục của qua trình sản xuất kinh
doanh, mặt khác cũng là phương pháp sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài
chính của nền kinh tế. Việc vay vốn của ngân hàng và của lẫn nhau giữa các
doanh nghiệp sẽ góp phần tăng cường các quan hệ hữu cơ trong toàn bộ nền
kinh tế và sự phát triển của thị trường trong nước. Một phần vốn vay còn có
thể bao gồm cả vốn các doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng của lẫn nhau. Việc
chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp là một tất yếu khác quan nhưng chỉ
được chấp nhận trong một giới hạn nhất định, bởi vì nó gây ra những vấn đề
thiếu lành mạnh trong quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp.
- Vốn vay: Trong quá trình kinh doanh, tuỳ theo nhu cầu về vốn, doanh
nghiệp có thể tiến hành vay từ nhiều nguồn khách nhau như từ ngân sách nhà

nước, các ngân hàng và tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế - xã hội, từ dân
cư trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức như tín dụng ngân hàng, tín
dụng thương mại, phát hành trái phiếu doanh nghiệp,…
11
- Thuê tài chính: hay còn gọi là thuê vốn hoặc thuê mua thuần là
phương thức tín dụng trung, dài hạn. Theo phương thức này, người cho thuê
cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với tài sản cho thuê. Người thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán
tiền thuê trong suốt thời hạn đã được thỏa thuận và không được hủy bỏ hợp
đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở
hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận
trong hợp đồng thuê.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn
Vốn là điều kiện cần cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng
chưa đủ để doanh nghiệp đạt được mục đích kinh doanh. Điều đó đồng nghĩa với
việc doanh nghiệp phải khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực,
trong đó sử dụng có hiệu quả nguồn vốn là một vấn đề cực kỳ quan trọng, có ý
nghĩa quyết định tới sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nói cách khác, việc
sử dụng vốn có hiệu quả là yêu cầu bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
Có quan điểm cho rằng sản lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều, doanh
thu cao tức là doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế cao và sử dụng vốn có hiệu
quả. Xét trên một khía cạnh nào đó, sản lượng và doanh thu cũng phần nào
phản ánh những kết quả và sự cố gắng nhất định của một doanh nghiệp. Song
sản lượng hay doanh thu vốn dĩ mới chỉ là các chỉ tiêu tổng hợp về quy mô
mà chưa phải là các chỉ tiêu chất lượng. Sự gia tăng doanh thu có thể là do
doanh nghiệp mở rộng quy mô, sử dụng thêm vốn, lao động và các yếu tố đầu
vào hoặc đơn giản chỉ là sự gia tăng của giá cả do các nguyên nhân khác

nhau. Vì vậy không thể chỉ căn cứ vào các chỉ tiêu đó mà kết luận đánh giá về
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
12
Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá thông qua tốc độ quay vòng
vốn. Trên giác độ này, nếu vốn quay vòng càng nhanh thì doanh nghiệp có thể
coi như đạt hiệu quả sử dụng vốn cao. Tuy vậy, tốc độ vòng quay của vốn còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: cơ cấu vốn hay cấu tạo hữu cơ của
doanh nghiệp; giá bán hàng liên quan đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm, phương
thức bán hàng, phương thức thanh toán…, trong đó có các yếu tố phụ thuộc
vào thể chế, hệ thống thanh toán là những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát
của các doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá thông qua lợi ích kinh tế.
Hiệu quả sử dụng vốn được coi là cao khi doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi
nhuận cao. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng
tổng hợp quan trọng số một đối với các doanh nghiệp. Lợi nhuận là mục tiêu
cao nhất quyết định đến sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Như vậy,
quan điểm cho rằng một doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi nhuận cao có thể
được xem như có hiệu quả kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn cao là hoàn toàn
có cơ sở. Song trên thực tế, để có tỷ suất lợi nhuận cao doanh nghiệp phải đạt
được hiệu quả cao trong hàng loạt các hoạt động của quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm.
Cũng có quan điểm cho rằng tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn phải dựa
trên cơ sở điểm hòa vốn xác định. Tức là kết quả hữu ích thực sự được xác
định khi mà thu nhập bù đắp hoàn toàn số vốn bỏ ra. Phần vượt trên điểm hoà
vốn mới là thu nhập làm cơ sở xác định hiệu quả sử dụng vốn.
Tóm lại, tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau mà
chúng ta có quan niệm khác nhau về hiệu quả sử dụng vốn. Mỗi quan niệm
nói trên về hiệu quả sử dụng vốn đều có những cơ sở riêng, dựa trên những
cách tiếp cận khác nhau. Theo tác giả thì: Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp vào sản xuất kinh

doanh nhằm đạt kết quả cao nhất và với chi phí thấp nhất.
13
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp
kinh doanh là thu được lợi nhuận cao. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
cũng là quá trình hình thành và sử dụng vốn kinh doanh. Vì vậy, hiệu quả sử
dụng vốn được thể hiện ở số lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong kỳ và
mức sinh lời của một đồng vốn kinh doanh. Xét trên góc độ sử dụng vốn, lợi
nhuận thể hiện kết quả tổng thể của quá trình tổ chức đảm bảo vốn và sử dụng
vốn cố định, vốn lưu động của doanh nghiệp.
Để đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và chính xác hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp chúng ta cần sử dụng hệ thống các chỉ tiêu dưới đây.
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Để đánh giá trình độ tổ chức và sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp cần sử dụng chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động. Hiệu suất sử
dụng vốn lưu động của doanh nghiệp được biểu hiện qua các chỉ tiêu sau.
a) Các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng vốn lưu động
- Vòng quay dự trữ, tồn kho: Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển
hàng tồn kho trong một thời kỳ nhất định, qua chỉ tiêu này giúp nhà quản trị
tài chính xác định mức dự trữ vật tư, hàng hóa hợp lý trong chu kỳ sản xuất
kinh doanh.
=
- Kỳ thu tiền bình quân: Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thu
được các khoản phải thu. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động càng cao.
=
14
Vòng quay dự
trữ, tồn kho
Giá vốn hàng hóa

Tồn kho bình quân trong kỳ
Vòng quay
khoản phải thu
trong kỳ
Doanh thu bán hàng trong kỳ
Các khoản phải thu bình quân
=
Các khoản phải thu bình quân = (Các khoản phải thu đầu kỳ + Các khoản phải
thu cuối kỳ) : 2
- Vòng quay của vốn lưu động (Hiệu suất sử dụng vốn lưu động): Chỉ
tiêu này phản ánh số vòng luân chuyển của vốn lưu động trong thời kỳ nhất
định (thường là 1 năm). Số vòng quay càng lớn chứng tỏ vốn lưu động luân
chuyển càng nhanh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả.

- Kỳ luân chuyển vốn lưu động (Số ngày luân chuyển vốn lưu động): là
chỉ tiêu phản ánh số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một
lần luân chuyển, hay độ dài thời gian một vòng quay của vốn lưu động ở
trong kỳ.
=
- Mức đảm nhiệm vốn lưu động (Hàm lượng vốn lưu động): Chỉ tiêu
này cho biết để đạt được một đơn vị doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp cần phải bỏ ra bao nhiêu đơn vị vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng
nhỏ, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
=
15
Kỳ thu tiền bình
quân
Tổng số ngày trong kỳ
Vòng quay khoản phải thu trong kỳ
Vòng quay

VLĐ
Doanh thu thuần trong kỳ
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Mức đảm
nhiệm VLĐ
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần bán hàng trong kỳ
Kỳ luân chuyển VLĐ
Số ngày trong kỳ
Vòng quay của vốn lưu động
=
b) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh
lợi của vốn lưu động, nó cho thấy cứ mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ ra trong kỳ
sẽ thu lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
=
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Vốn cố định là vốn ứng trước về tài sản cố định và sau một thời gian
dài mới thu hồi được toàn bộ. Do vậy, việc sử dụng tốt số vốn cố định hiện có
là vấn đề có ý nghĩa kinh tế rất lớn ảnh hưởng trực tiếp tới sự tăng trưởng của
doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định người ta thường sử
dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
a) Chỉ tiêu đánh giá hiệu suất sử dụng vốn cố định
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị vốn
cố định được đầu tư vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đơn vị doanh
thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cố định càng cao.
=
Trong đó:
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ = (VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ) : 2
VCĐ đầu (hoặc cuối kỳ) = Nguyên giá TSCĐ đầu (hoặc cuối kỳ) -

Khấu hao lũy kế đầu (hoặc cuối kỳ).
Khấu hao lũy kế đầu kỳ là khấu hao lũy kế ở cuối kỳ trước chuyển
sang.
Khấu hao lũy kế cuối kỳ = Khấu hao đầu kỳ + Khấu hao tăng trong kỳ -
Khấu hao giảm trong kỳ.
16
Hiệu suất sử
dụng VCĐ
Doanh thu thuần trong kỳ
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hiệu quả sử dụng
VLĐ
Lợi nhuận sau thuế
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị
TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn
chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao.
=
TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ = (Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ +
Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ) : 2
- Hàm lượng vốn cố định: Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị
doanh thu cần sử dụng bao nhiêu đơn vị vốn cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ
chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cố định càng cao.
=
b) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị vốn
cố định được đầu tư vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đơn vị lợi
nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế).
=
Lợi nhuận sau thuế tính ở đây là phần lợi nhuận được tạo ra từ việc trực

tiếp sử dụng TSCĐ, không tính các khoản lãi do các hoạt động khác tạo ra
như: hoạt động tài chính, góp vốn liên doanh…
17
Hiệu suất sử
dụng TSCĐ
Doanh thu thuần trong kỳ
TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hàm lượng vốn
cố định
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Hiệu quả sử dụng
VCĐ
Lợi nhuận sau thuế
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tổng quát của doanh nghiệp có ý
nghĩa then chốt và quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp phản ánh
kết quả tổng hợp quá trình sử dụng toàn bộ vốn, tài sản. các chỉ tiêu này phản
ánh chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
a) Chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng toàn bộ vốn
- Hiệu suất sử dụng vốn (Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh): là chỉ
tiêu phản ánh vốn kinh doanh trong kỳ chu chuyển được bao nhiêu vòng hay
mấy lần. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh càng cao.
=
b) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ
giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể
hiện, khi thực hiện một đồng doanh thu trong kỳ, doanh nghiệp có thể thu

được bao nhiêu lợi nhuận.
=
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh (Hệ số doanh lợi): là quan hệ
tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
18
Hiệu suất sử
dụng vốn (SOA)
Doanh thu thuần
Tổng số tài sản hay vốn kinh doanh bình
quân sử dụng trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu
(ROS)
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
=
- Tỷ suất lợi nhuận của VCSH: Chỉ tiêu này cho biết, cứ 1 đơn vị vốn
của chủ sở hữu tạo ra được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế thu nhập
doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao càng biểu hiện xu hướng tích cực.
=
Các nhà đầu tư thường coi trọng đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn chủ
sở hữu vì họ quan tâm đến khả năng thu được lợi nhuận so với vốn mà họ bỏ
ra để đầu tư, với mục đích tăng cường kiểm soát và bảo toàn vốn phát triển.
Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu một mặt phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh hay phụ thuộc vào trình độ sử dụng vốn. Mặt khác, hiệu quả
sử dụng vốn còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức nguồn vốn của doanh nghiệp.
Mô hình dupont phản ảnh mối quan hệ giữa các chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Mô hình 1:
ROE = ROS x SOA x AOE
Trong đó:
AOE =
Tổng TS
=
1
Vốn CSH 1 -
Nợ PT
Tổng TS
19
Tỷ suất lợi nhuận
của VCSH
(ROE)
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ
Tỷ suất lợi
nhuận trên vốn
kinh doanh
(ROA)
Lợi nhuận sau thuế
Tổng số tài sản hay vốn kinh doanh bình
quân sử dụng trong kỳ
Mô hình 2:
ROE = (ROAe +
D
(ROAe-i) x (1-t))
E
Trong đó:
ROAe (tỷ suất sinh lời của tài sản) =

EBIT
Tổng TS
D: Vốn vay
E: Vốn chủ sở hữu
i: Lãi suất vay vốn
t: Thuế suất thế TNDN
Kết luận rút ra từ mô hình 2:
Nếu ROAe > i thì doanh nghiệp càng sủ dụng nhiều vốn vay càng gia
tăng nhanh được tỷ suất lợi nhuận của vốn chủ sở hữu.
Nếu ROAe < i thì doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì càng
làm giảm tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Nếu ROAe = I thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu trong tất cả các
trường hợp: không sử dụng vốn vay, sử dụng nhiều vốn vay hoặc ít vốn vay
cũng đều bằng nhau chỉ có sự khác nhau về mức độ rủi ro.
Tóm lại, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh và yêu cầu cụ thể mà doanh
nghiệp lựa chọn các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của
mình cho phù hợp, tránh tình trạng sử dụng quá nhiều chỉ tiêu gây tốn kém,
sự vụ cho doanh nghiệp. Ngược lại sử dụng quá ít chỉ tiêu làm cho việc phản
ánh không đầy đủ, không chính xác hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp,
từ đó dẫn đến các quyết định không hợp lý, hiệu quả kinh doanh không cao.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn
Sử dụng vốn hiệu quả hay không hiệu quả có tác động trực tiếp đến
tình hình tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu
quả sử dụng vốn chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, nhưng về cơ bản có các
nhân tố chủ yếu sau.
1.2.3.1. Nhân tố khách quan
20
Đây là các nhân tố từ bên ngoài ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng, đã có những tác động

mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nước.
Sau khi ra nhập tổ chức thương mại quốc tế, nước ta đã thể hiện được vị thế
và mở rộng quan hệ ngoại giao, hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia trong khu
vực và thế giới. Các tổ chức kinh tế quốc tế đã đầu tư nhiều vào Việt Nam.
Điều này đã góp phần tạo điều kiện cho thị trường vốn và thị trường sản phẩm
phát triển. Thông qua việc hợp tác kinh doanh với các quốc gia phát triển, các
tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã giúp cho các doanh nghiệp trong nước
nâng cao được trình độ về tổ chức quản lý, chuyển giao khoa học và công
nghệ hiện đại, tăng năng suất lao động góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hệ thống chính trị và pháp luật, sự ổn định về chính trị, sự nhất quán
trong chủ trương, đường lối và chính sách của nhà nước luôn là yếu tố tạo
môi trường kinh doanh hấp dẫn cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của nhà nước hết sức quan trọng.
Nhà nước tạo lập, thúc đẩy, điều chỉnh và duy trì tốc độ phát triển kinh tế. Sự
can thiệp hợp lý của nhà nước vào hoạt động kinh doanh là cần thiết nhằm:
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế, và xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
Hệ thống pháp luật quy định rõ doanh nghiệp được tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ nào, có các quyền và nghĩa vụ gì,
những hoạt động nào được nhà nước bảo vệ, những hoạt động nào bị nhà
nước ngăn cấm … Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, nhất quán
và có hiệu lực cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạch định kế
hoạch sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động đặc biệt quan trọng
21
đến hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ lạm phát
cao, thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp khó có thể cao được do sự
mất giá của đồng tiền và Nhà nước có xu hướng thắt chặt tiền tệ, giảm đầu tư
cho sản xuất kinh doanh. Chính sách lãi suất, tỷ giá của ngân hàng thì ảnh

hưởng tới chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế của chính
phủ lại có tác động tới các quyết định đầu tư của doanh nghiệp…
Sự phát triển của khoa học và công nghệ là một trong những nhân tố
quyết định đến năng suất lao động và trình độ sản xuất của nền kinh tế nói
chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học công
nghệ vào sản xuất sẽ giúp các doanh nghiệp tạo ra năng lực sản xuất cao hơn,
đáp ứng tốt hơn yêu cầu kỹ thuật sản phẩm ngày càng cao từ khách hàng và
đặc biệt có điều kiện để giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian chế tạo sản
phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên bao gồm nguồn tài nguyên thiên
nhiên, điều kiện tự nhiên như khí hậu thời tiết, địa hình, địa chất … tác động
tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nguồn tài nguyên
thiên là một yếu tố làm giảm chi phí vật liệu, góp phần tăng lợi nhuận. Các
điều kiện khí hậu thời tiết, địa hình bất lợi sẽ làm tăng chi phí dẫn đến giảm
lợi nhuận và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp giảm.
Các nhân tố văn hoá - xã hội, mỗi doanh nghiệp đều hoạt động trong
một môi trường văn hoá - xã hội nhất định. Xã hội cung cấp nguồn lực mà
doanh nghiệp cần và tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Các giá
trị chung của xã hội, các tập tục truyền thống, lối sống, tư tưởng tôn giáo của
nhân dân đều có ảnh hưởng đến nhiều mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Nhận thức rõ và chủ động nghiên cứu về các nhân tố khách quan ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp (cả về tích cực và tiêu cực)
giúp cho các nhà quản lý có những giải pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu những
22
ảnh hưởng tiêu cực, khai thác những cơ hội thuận lợi để không ngừng nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo sự phát triển ổn định của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Nhân tố chủ quan.
Đây là các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Nguồn nhân lực đây là nhân tố đầu tiên có ảnh hưởng quyết định đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, trong đó có hiệu quả sử dụng vốn.
Nguồn nhân lực được đề cập ở đây là bộ máy quản lý và lực lượng lao động
trong doanh nghiệp, mà trước hết là giám đốc (chủ doanh nghiệp). Giám đốc
doanh nghiệp là người quyết định trong quản lý và sử dụng tài sản, tiền vốn
của doanh nghiệp, đồng thời cũng chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Nếu quyết định sử dụng đồng vốn của giám đốc là đúng, phù hợp thì doanh
nghiệp kinh doanh có lãi, đồng vốn được sử dụng tiết kiệm mang lại hiệu quả
cao. Ngược lại, nếu quyết định đó sai lầm, không phù hợp sẽ dẫn đến thua lỗ
trong kinh doanh, vốn sử dụng không hiệu quả, thậm chí mất vốn, phá sản.
Đội ngũ cán bộ quản lý làm tham mưu cho giám đốc ra quyết định kinh
doanh có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn vững
vàng, tinh thông nghiệp vụ, năng động sáng tạo, phản ánh trung thực, đầy đủ,
chính xác, kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng vốn trong
doanh nghiệp sẽ giúp giám đốc có những quyết định kịp thời, đúng đắn.
Lực lượng lao động trực tiếp trong dây chuyền sản xuất (công nhân, thợ
nghề…) rất quan trọng bởi đây là nhân tố trực tiếp tạo ra năng suất, chất
lượng, sản phẩm, hạ chi phí sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Chiến lược phát triển và tình hình tài chính của doanh nghiệp là nhân
tố rất quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp đều có chiến lược phát triển riêng, một chiến lược
23
đúng đắn phải được xây dựng trên cơ sở các điều kiện hiện tại của của doanh
nghiệp như: nguồn nhân lực, trình độ quản lý, khả năng về vốn…và dự đoán
được tương lai của doanh nghiệp, của ngành và của cả nền kinh tế.
Cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán, khả năng đảm bảo
vốn, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp sẽ quyết định đến chi phí huy động
vốn, đến khả năng đảm bảo vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh

doanh một cách liên tục và bình thường. Một chính sách huy động vốn hợp lý,
đáp ứng được các nhu cầu về vốn, không để xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu
vốn thì sẽ đảm bảo ổn định sản xuất, tiết kiệm chi phí vốn, do đó sẽ nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Tổ chức quản trị doanh nghiệp bao gồm cơ cấu tổ chức quản lý và cơ
chế hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu chung
của doanh nghiệp. Tổ chức quản trị hợp lý là cơ sở để truyền đạt và thực hiện
các quyết định sản xuất kinh doanh, nó khắc phục được sự chồng chéo, tạo ra
sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động của các bộ phận góp phần tăng năng
suất lao động, tiết kiệm nhân lực, rút ngắn thời gian sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, tăng vòng quay của vốn. Từ đó giảm các chi phí bất hợp lý, hạ giá
thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp cũng là một nhân tố ảnh
hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Doanh nghiệp có uy tín và thương hiệu mạnh
thì khả năng huy động vốn và khả năng tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, nên có
điều kiện để đẩy nhanh vòng quay của vốn doanh nghiệp.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp được thực hiện nhằm
tạo ra nhiều sản phẩm mới, chất lượng thông qua việc cải tiến và ứng dụng
những tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất. Hoạt động này
giúp cho doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật đáp ứng được sự phát triển của thị
trường, theo kịp sự phát triển về khoa học công nghệ của thế giới, nâng cao
sức cạnh tranh, tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
CHƯƠNG 2
24
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 9
2.1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần Sông đà 9
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty Cổ
phần Sông đà 9

* Giới thiệu chung
Tên Công ty: Công ty Cổ phần Sông đà 9
Địa chỉ: Tòa nhà Sông Đà 9, đường Phạm Hùng, xã Mỹ Đình, huyện Từ
Liêm, Hà Nội
Điện thoại: 84 - (4) 3768 3746 Fax: 84 - (4) 3768 2684
Email:
Website: www.songda9.com
Chủ tịch hội đồng quản trị: KS. Nguyễn Đăng Lanh
Tổng giám đốc: KS. Dương Hữu Thắng
Trụ sở: Tòa nhà sông Đà – Mỹ Đình – Từ Liêm – Hà Nội
* Lịch sử hình thành và phát triển
Công ty Sông đà 9 có tiền thân là liên trạm cơ giới, được thành lập từ
năm 1960 phục vụ thi công xây dựng công trình nhà máy thuỷ điện Thác Bà
công trình thuỷ điện lớn đầu tiên của đất nước. Tiếp theo là xây dựng nhà
máy giấy Bãi Bằng nhà máy dệt Minh Phương và từ năm 1976 đến năm 1993
tham gia xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà. Khi nhà máy
thủy điện Hoà Bình hoàn thành, công ty cũng như các đơn vị khác của Tổng
công ty bước vào giai đoạn khó khăn về công ăn việc làm cho CNV – thời kỳ
hậu Sông Đà. Từ trong công trường lớn tập trung, đơn vị phải phân tán thành
nhiều đơn vị nhỏ , tìm kiếm những việc làm phù hợp. Rồi khó khăn cũng qua
đi khi một loạt công trình thuỷ điện lớn được mở ra, đơn vị tiếp tục tham gia
thi công các công trình lớn trọng điểm của đất nước, như công trình thuỷ điện
Vĩnh Sơn, thuỷ điện Yaly, thuỷ điện Hàm Thuận, thuỷ diện Cần đơn
25

×