Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Nâng cao hoạt động huy động vốn tại công ty Cổ phần TM&DV Kim Lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.82 KB, 57 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
MỤC LỤC
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
LỜI MỞ ĐẦU
Việc chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO là một bước
ngoặt quan trọng đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Sân chơi
mới mở ra trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội đầy triển vọng
nhưng đồng thời, đó cũng là những thử thách vô cùng to lớn bởi cơ hội của họ
cũng được chia đều cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Hội nhập kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn không ngừng đổi
mới để đáp ứng kịp thời những biến đổi đa dạng của nhu cầu thị trường, từ đó
mà tồn tại được trong môi trường cạnh tranh đầy gay gắt. Một thực tế đáng buồn
của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là sức cạnh tranh kém do công nghệ
sản xuất lạc hậu. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là nguồn vốn tự có của
các doanh nghiệp hạn hẹp, trong khi nhiều công cụ và hình thức huy động vốn
trong nền kinh tế thị trường để đổi mới thiết bị công nghệ chưa được các doanh
nghiệp sử dụng triệt để và hiệu quả. Khả năng tự chủ về tài chính cao đồng nghĩa
với việc cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp cũng lớn hơn.
Chính vì vậy, việc tăng cường huy động vốn ở các doanh nghiệp là một vấn
đề cần được quan tâm hàng đầu. Để làm được điều này, phải xem xét tới rất
nhiều yếu tố. Mỗi một yếu tố có vai trò và mức độ ảnh hưởng khác nhau tới
doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, mục tiêu khi thành lập,
Trong số đó, vốn được xem là một điều kiện cần và đủ để tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khả năng tự chủ về tài
chính cao đồng nghĩa với việc cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp cũng lớn hơn.
Qua quá trình học tập ở trường, tìm hiểu thực tế ở công ty Cổ phần thương
mại và dịch vụ Kim Lợi em đã chọn đề tài nghiên cứu :”giải pháp nâng cao


hiệu quả huy động vốn tại công ty Cổ phần thương mại và dịch vụ Kim Lợi”
để làm báo cáo tốt nghiệp.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tiếp cận kế thừa có chọn lọc những thông
tin luận điểm, ý kiến của các chuyên gia trên sách báo tạp chí kết hợp với tình
hình thực tế ở công ty, chuyên đề đi vào phân tích điểm mạnh điểm, điểm yếu
của công ty cũng như cơ hội, thách thức của môi trường kinh doanh để từ đó tìm
ra những định hướng và giải pháp cụ thể. Do phạm vi đề tài nghiên cứu rộng,
trong khuôn khổ báo cáo tốt nghiệp chỉ tập trung vào những khâu những điểm
quan trọng trong quá trình hoạt động của công ty.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
1
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Kết cấu của báo cáo gồm 3 phần cơ bản
Chương 1: Huy động vốn của Doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của Công ty Cổ phần thương mại và
dịch vị Kim Lợi
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Công ty Cổ
phần thương mại và dịch vụ Kim Lợi
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo hướng dẫn Tiến sĩ:Đặng Anh Tuấn
và các cô chú, anh chị trong công ty đã nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2011
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Ngọc Linh
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
2
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
CHƯƠNG 1
HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm về vốn của doanh nghiệp

Có nhiều định nghĩa khác nhau về vốn. Theo Samuelson, vốn là hàng hoá
được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp. Trong cuốn "Kinh tế học" của D.Begg, tác giả
đã đưa ra hai định nghĩa: vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn
hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác; vốn
tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Như vậy, D.Begg đã bổ
sung vào định nghĩa vốn của Samuelson.
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, việc huy động vốn, quyết
định đầu tư là theo định hướng và theo kế hoạch của nhà nước. Các doanh nghiệp
không được quyền tự chủ huy động vốn và ra các quyết định đầu tư. Vốn của các
doanh nghiệp chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp hoặc vay ngân hàng với lãi
suất rất thấp.
Với chế độ cấp phát vốn và giao nộp sản phẩm, các doanh nghiệp luôn ỷ lại
cho trung ương về các nguồn tài trợ, luôn đòi hỏi rót vốn, tăng đầu tư như một
điều kiện bảo đảm thực hiện kế hoạch, pháp lệnh. Các doanh nghiệp tìm cách xin
thêm vốn càng nhiều càng tốt, còn hiệu quả sử dụng không được chú ý đến. Nhu
cầu vốn của các doanh nghiệp rất lớn trong khi nguồn vốn của Nhà nước có giới
hạn. Chính vì vậy, có nhiều người có vốn nhàn rỗi, dư thừa lại không có thị trư-
ờng để lưu thông.
Cơ chế bao cấp đã làm cho vốn không được lưu thông và sử dụng có hiệu
quả vì không có nơi giao dịch mua bán trên thị trường đồng thời làm mất đi vai
trò và tác dụng khách quan, đặc biệt là một đặc trưng của vốn "tính hàng hoá"
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với chính sách phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tự bỏ vốn
đầu tư. Vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết của mọi
quá tình đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Thông qua thị trường, vốn lưu thông rộng rãi và thể hiện đầy đủ bản chất,
vai trò của nó. Các Mác đã khái quát hoá vốn qua phạm trù “Tư bản”: Tư bản là
giá trị mang lại "giá thị thặng dư". Định nghĩa cô đọng này đã phản ánh được nội
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39

3
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
dung, các đặc trưng và vai trò, tác dụng của vốn. Tuy nhiên do hạn chế của trình
độ phát triển kinh tế lúc bấy giờ, Mác quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất
mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học tư bản thì không những khu vực
sản xuất vật chất tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế mà còn phải kể đến cả
khu vực dịch vụ
Tóm lại, có thể đưa ra một khái niệm khái quát về vốn của doanh nghiệp
như sau:
"Vốn của doanh nghiệp là các quĩ tiền, vốn mà các doanh nghiệp dùng
vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Vốn thực chất là một số tiền mà các
doanh nghiệp ứng ra trước một chu kỳ sản xuất kinh doanh và nó phải được thu
hồi đầy đủ(bảo toàn về giá trị) sau mỗi chu kỳ sản xuất, kinh doanh."
Trước hết vốn được biểu hiện dưới hình thái giá trị của những tài sản, tức là
vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất định bao gồm: tài
sản hữu hình như tư liệu sản xuất, nhà máy, đất đai, nguyên vật liệu Và tài sản
vô hình như chất xám, nguồn nhân lực, thông tin
Điều này phân biệt rõ vốn khác với tiền. Có người ngộ nhận giữa đồng tiền
giấy - tiền phát hành ra với “vốn” như thường gọi và cho rằng tiền do nhà nước
phát hành ra cũng là vốn. Suy nghĩ như vậy là không đúng. Vì một lượng tiền
được in không phát hành trên cơ sở giá trị thực của hàng hoá để đưa vào đầu tư thì
đó chỉ là vốn giả tạo chứ không phải là vốn đầu tư thực chất. Chỉ những đồng tiền
phát hành trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị thực của hàng hoá mới được gọi là vốn.
Có nhiều quan niệm về vốn, khi vốn được biểu hiện bằng tiền, người ta gọi
đó là vốn tài chính. Vốn của doanh nghiệp có thể là uy tín của người đứng đầu
doanh nghiệp, trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân viên, các công trình, bằng
phát minh khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp, các nhãn hàng có tính chất về
thương mại. Cần phải lưu ý rằng, vốn của doanh nghiệp không có nghĩa là trùng
với tiền của doanh nghiệp. Tiền chỉ có thể trở thành vốn khi:

Thứ nhất, là tiền được hình thành nên trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp tích luỹ lại.
Thứ hai, là quỹ tiền được các doanh nghiệp dùng để tiếp tục đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu thu lợi nhuận, tối đa hoá giá trị tài sản
của chủ sở hữu.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
4
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
- Vốn phải vận động
Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải là tiền được vận động với
mục đích sinh lời. Do đó, các tài sản cố định không sử dụng, hàng hoá vật tư ứ
đọng, tiền dự trữ chỉ là "vốn chết".
Trong quá trình vận động vốn có điểm xuất phát và kết thúc T, sau một chu
kỳ vận động nó được “lớn lên”.
Sự vận động của vốn (T) thể hiện qua 3 phương thức:
T- H SX H’ - T’. Đây là phương thức vận động vốn của các doanh
nghiệp sản xuất.
T -H -T’, là phương thức vận động vốn của các doanh nghiệp thương mại.
T - T’, là phương thức vận động vốn của các tổ chức tài chính trung gian.
Thông qua các phương thức trên, sự vận động của vốn thường phải thay đổi
hình thái và nhờ đó đã tạo ra khả năng sinh lời. Khả năng sinh lời của vốn vừa là
mục đích kinh doanh vừa là phương tiện để vốn vận động tiếp ở chu kỳ sau.
- Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định.
Trong đầu tư sản xuất kinh doanh, thường đòi hỏi phải có một lượng vốn
nhất định mới có thể tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh một cách bình thường
và mang lại hiệu quả đồng thời tăng sức cạnh tranh. Do đó vốn bị phân tán, không
được huy động, đóng góp, khai thác sẽ không phát huy được tác dụng mạnh mẽ.
Vì thế nhà đầu tư ngoài việc khai thác tiềm năng vốn của đơn vị, còn tìm cách huy
động vốn thông qua hình thức: "hùn" vốn, liên doanh, phát hành cổ phiếu
- Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền - phản ánh giá trị của những tài sản

hữu hình như đất đai, nhà máy, thiết bị Mà nó còn được biểu hiện bằng giá
trị của những tài sản vô hình như nhãn hiệu, vị trí kinh doanh, bản quyền phát
minh sáng chế
Tài sản vô hình rất đa dạng, phong phú và giá trị của nó rất lớn. Nếu khai
thác và sử dụng có hiệu quả, tài sản vô hình này sẽ đem lại lợi nhuận rất lớn.
Đặc biệt trong việc đầu tư liên doanh, đánh giá doanh nghiệp để bán hoặc thanh
lý Cần phải giá trị hoá chính xác các tài sản trong đó có tài sản vô hình.
Từ những phân tích trên đây về phạm trù vốn trong nền kinh tế ta có thể rút
ra được định nghĩa chung: "vốn là giá trị của các tài sản xã hội được đưa vào
đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai."
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
5
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
1.1.2. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Hoạt động của công ty đòi hỏi phải có vốn, đầu tiên là nó giúp cho hoạt
động kinh doanh được thực hiện (xảy ra hoạt động), sau đó là duy trì hoạt động
và xây dựng kế hoạch kinh doanh cụ thể và chắc chắn. Khi vốn phát triển, nó sẽ
giúp doanh nghiệp mở rộng được sản xuất về cả chiều rộng và chiều sâu, qua đó
lại tác động ngược lại làm tăng lượng vốn sẵn có của doanh nghiệp. Trong kinh
doanh vốn là công cụ cần thiết hàng đầu để doanh nghiệp thực hiện ý định kinh
doanh của mình. Rất nhiều người đã không thể tham gia kinh doanh vì không đủ
vốn. Nói cách khác nó là "chiếc rìu" của ông tiều phu. Do đó doanh nghiệp phải tổ
chức huy động, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất, muốn vậy phải xem xét,
cân nhắc phương thức huy động vốn, cơ cấu vốn hợp lý với chi phí sử dụng vốn
vay thấp nhất và làm gia tăng lợi ích của vốn chủ sở hữu. Nền kinh tế thị trường
với chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước khuyến
khích các thành phần kinh tế tự bỏ vốn đầu tư. Vốn trở thành yếu tố quan trọng
hàng đầu, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Vốn kinh doanh là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt phục vụ cho sản xuất kinh
doanh tức là mục đích tích luỹ chứ không phải là mục đích tiêu dùng như một số

quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh phải có trước khi diễn ra
hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau khi ứng ra, vốn được sử dụng vào kinh
doanh và sau một chu kỳ hoạt động phải được thu về để đáp ứng tiếp cho chu kỳ
hoạt động sau. Vốn kinh doanh không thể bị tiêu mất đi, mất vốn đối với doanh
nghiệp đồng nghĩa với nguy cơ phá sản.
Đầu tư vốn của doanh nghiệp
Là quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp vào quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tạo ra lợi nhuận. Trong quá trình đầu tư vốn của
doanh nghiệp, có thể chia hai loại:
- Đầu tư vào trong nội bộ của các doanh nghiệp: đầu tư vào các yếu tố trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ như đầu tư để mua
sắm tài sản cố định, nguyên- nhiên vật liệu, trả lương cho công nhân viên
- Đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp. Chủ yếu các doanh nghiệp dùng vốn
của mình để góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác hay đầu tư trên thị
trường chứng khoán.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
6
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Dù đầu tư bên trong hay ngoài doanh nghiệp thì đều nhằm mục tiêu hướng
tới lợi nhuận, tối đa hoá giá trị vốn của chủ sở hữu. Các doanh nghiệp căn cứ vào
một số yếu tố cơ bản sau để đầu tư vốn:
+ Căn cứ vào khả năng sinh lời của dự án đầu tư và thời gian thu hồi vốn
đầu tư.
+ Căn cứ vào số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ sẽ được sản xuất ra và khả
năng tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ đó trên thị trường.
+ Các doanh nghiệp phải căn cứ vào sự lựa chọn công nghệ trong quá trình
đầu tư.
+ Các doanh nghiệp phải xác định được nguồn tài trợ cho vốn kinh doanh
của mình.
+ Căn cứ vào mô hình tổ chức và quản lý dự án đầu tư.

1.1.3. Phân loại vốn
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau có thể chia vốn thành các loại sau.
- Phân loại căn cứ vào tính chất sở hữu của vốn: vốn của doanh nghiệp
chia làm 2 loại:
Vốn của chủ sở hữu (vốn tự có của doanh nghiệp):
Là các nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đó. Nó có thể là do
chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ xung từ lợi nhuận và từ các quĩ của doanh nghiệp,
vốn tài trợ của Nhà nước (nếu có). Nó được sử dụng 1 cách lâu dài mà không
phải cam kết thanh toán, gồm có vốn kinh doanh và các quỹ của doanh nghiệp.
Cần phân biệt vốn điều lệ và vốn pháp định. Vốn pháp định là số lượng vốn
tổi thiểu mà một doanh nghiệp cần phải có khi nó hình thành, hoạt động và do
pháp luật quy định.
Tóm lại, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp là vốn thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của doanh nghiệp.
Vốn vay:
Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh
nghiệp có nhiệm vụ phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như: ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế khác, tiền vay từ phát hành trái phiếu, các
khoản nợ phải trả cho người bán, cho Nhà nước, cho cán bộ công nhân viên
Một doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả, với mức sinh lời cao và
đảm bảo khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường thì ngoài nguồn chủ sở
hữu, nó phải vay vốn trên thị trường để hình thành vốn của mình. Trong nền kinh
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
7
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
tế thị trường, vốn vay của doanh nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều
so với vốn chủ sở hữu. Đây là nguồn vốn cung cấp chủ yếu cho hoạt động kinh
doanh của đơn vị. Nguồn này có thể được hình thành bằng một số biện pháp sau:
nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, các ngân hàng, từ việc phát hành trái
phiều công ty, từ nguồn tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua, hoặc có thể từ

một số nguồn vốn vay khác
- Phân loại theo tính chất luân chuyển của vốn thì vốn của doanh nghiệp
có thể được chia ra làm 2 loại:
Vốn cố định: Vốn cố định là giá trị biểu hiện bằng tiền của tổng tài sản cố
định (TSCĐ) trong doanh nghiệp. Tài sản cố định thuộc loại tài sản có giá trị lớn
và có thời gian sử dụng lâu dài. Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Đặc trưng của tài sản cố định là không thay đổi hình thái vật chất sau mỗi
chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, giá trị của nó giảm dần do có hao mòn.
Có hai loại hao mòn tài sản cố định là hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình. Để
chống hao mòn cần phải trích quỹ khấu hao nhằm bù đắp cho hao mòn tài sản cố
định. Tất nhiên nó không trùng khít với số tiền tài sản thực tế bị hao mòn (có thể
lớn hoặc nhỏ hơn). Tài sản cố định bao gồm TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
Trong đó, TSCĐ hữu hình: Là những tài sản có hình thái, vật chất (như nhà cửa,
vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn, thiết bị,
dụng cụ quản lý ) và TSCĐ vô hình là những tài sản không có hình thái vật
chất, thể hiện những lượng giá trị lớn mà doanh nghiệp đã đầu tư, liên quan đến
nhiều chu kỳ kinh doanh (như Quyền sử dụng đất, Chi phí thành lập doanh
nghiệp, Chi phí về bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, nhãn
hiệu thương mại )
Vốn lưu động: Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu
về các đối tượng lao động của doanh nghiệp. Nói dưới góc độ tài sản thì vốn lưu
động được sử dụng để chỉ những tài sản lưu động. Đó là những tài sản ngắn hạn
thường xuyên luôn chuyển trong quá trình kinh doanh.
Trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp thì tài sản lưu động của nó chủ
yếu được thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có thanh khoản
cao, khoản phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh
nghiệp kinh doanh thương mại thường chiếm tỷ lệ lớn hơn 50% tổng giá trị tài
sản. Quản trị và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất lớn đối
với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39

8
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Vốn cố định và lưu động là hai loại vốn tồn tại song song trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ từng loại hình kinh doanh mà tỷ lệ
giữa 2 loại vốn này là khác nhau
Việc nghiên cứu các phương pháp phân loại vốn trên đây có tác dụng giúp
cho các doanh nghiệp một mặt tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn
hiện có, mặt khác có thể đa dạng hoá các kênh huy động vốn.
1.2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
Việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu
tác động bởi nhiều yếu tố. Về cơ bản như đã xem xét ở trên thì vốn của doanh
nghiệp khi xem xét theo tính chất sở hữu thì có thể chia làm 2 và tương ứng như vậy
là có 2 nhóm hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp theo tiêu chí này.
1.2.1. Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu ban đầu, như đã nói ở trên được hình thành từ việc đóng
góp của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi chạm tới ngưỡng tăng trưởng chín muồi
thì vốn chủ sở hữu ban đầu không đủ đáp ứng cho các hoạt động tài chính, để
tiếp tục phát triển, doanh nghiệp thường tiến hành các hoạt động đầu tư chiến
lược mở rộng đáng kể năng lực sản xuất hoặc bước sang lĩnh vực hoạt động mới
và đi cùng với nó là việc huy động thêm vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu bao
gồm các nguồn sau:
- Vốn điều lệ của các doanh nghiệp: được hình thành từ nguồn nào thì nó
tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu của các doanh nghiệp.
+ Nếu doanh nghiệp nhà nước: thì nguồn hình thành là ngân sách nhà nước.
+ Nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu cổ phần: thì nguồn hình thành do cổ
đông, người mua cổ phiếu, cổ phần
+ Nếu doanh nghiệp của tư nhân: do tư nhân bỏ ra.
- Vốn từ việc phát hành cổ phiếu:
Cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn vào công ty cổ phần và
quyền được nhận một phần lợi nhuận từ công ty cổ phần ấy, quyền được chia tài

sản từ công ty cổ phần ấy.
Có hai loại cổ phiếu:
+ Cổ phiếu có ghi tên: ghi rõ họ tên của chủ sở hữu. Nó không được tự do
chuyển nhượng, mua bán. Nó chỉ có thể được chuyển nhượng trong điều kiện
được sự đồng ý của hội đồng quản trị của công ty cổ phần đó. Nó dành cho các
nhà sáng lập viên của công ty cổ phần. Đây là hình thức pháp luật ràng buộc các
người sáng lập viên với công ty cổ phần đó.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
9
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
+ Cổ phiếu không ghi tên (vô danh): trên cổ phiếu không ghi rõ họ tên của
ai. Nó được tự do chuyển nhượng mua bán. Người nào cầm cổ phiếu là người đó
có quyền chia tài sản Người ta chia hai loại:
Các cổ phiếu ưu đãi(đặc quyền): trong cổ phiếu ghi rõ về thu nhập mà cổ
phiếu đó được hưởng(có tính chất cố định). Ví dụ: 6%/năm. Tuy nhiên cổ đông
cũng không được hưởng một số quyền kiểm soát doanh nghiệp(như bầu cử hội
đồng quản trị, ban kiểm soát ).
Các cổ phiếu thông thường: là loại cổ phiếu mà thu nhập của nó(lợi tức cổ
phiếu) lên hay xuống tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đây là loại cổ phiếu có rủi ro cao nhất.
- Các quỹ được tạo nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp:
+ Quỹ dữ trữ: thông thường được trích trên lãi ròng hàng năm của các
doanh nghiệp, theo tỷ lệ phần trăm nhất định với mục tiêu để bổ sung và làm tăng
thêm vốn điều lệ của các doanh nghiệp. Quỹ được trích lập thường xuyên, nhưng
được đưa vào vốn điều lệ, việc đưa vào bao nhiêu do các cơ quan chức năng của
các doanh nghiệp đó quyết định.
+ Quỹ dữ trữ đặc biệt: được trích lập theo tỷ lệ nào đó trên cơ sở lãi ròng
hàng năm của các doanh nghiệp. Mục đích để trang trải rủi ro trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Trong các ngân hàng thương mại, trích lập các quỹ dự trữ đặc biệt dựa trên
cơ sở thu nhập- chi phí nhưng chưa trừ thuế. Nó không được trích lập trên lãi
ròng. Vì:
Thứ nhất, bởi vì kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng có tỷ lệ rủi ro cao
nhất. Quỹ dự trự đặc biệt trích lập theo lãi ròng không đủ để trang trải cho những
rủi ro của ngân hàng thương mại.
Thứ hai, là nếu các ngân hàng thương mại trích lập quỹ đặc biệt trên cơ sở
sau khi đã trừ đi thuế thì nhiều ngân hàng thương mại sẽ không được hưởng cơ
chế này, vì nhiều ngân hàng thương mại hoạt động không có lãi
+ Các quỹ khác: coi như vốn tự có của các doanh nghiệp. Ví dụ: quỹ phúc
lợi, quỹ khấu hao, quỹ đầu tư phát triển
Ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp không chịu sự kiểm soát
của các chủ nợ, không phụ thuộc vào khả năng vay của doanh nghiệp. Nguồn này
cũng được nhà nước khuyến khích (như giảm thuế cho phần lợi nhuận tái đầu tư-
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
10
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
). Tuy nhiên việc sử dụng nguồn này cũng có một số bất lợi như: vốn chủ sở hữu
của các doanh nghiệp thường nhỏ, không đủ để chi cho các dự án đầu tư lớn.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn nợ
- Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, các ngân hàng:
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối
với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh
nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung
cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử
dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên
thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân
hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc

biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của
doanh nghiệp.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có ưu điểm nhưng tồn tại song song là
những hạn chế nhất định:
-Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương
mại cần đáp ứng những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh
nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng
yêu cầu. Ngân hàng sẽ phân tích hồ sơ xin vay vốn trước khi quyết định cho
doanh nghiệp vay hoặc từ chối.
-Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung
các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay vốn phải có các bảo đảm tiền
vay, phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp
trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện
vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ. Do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu
tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
-Sự kiểm soát của ngân hàng: Một khi đã vay vốn của ngân hàng thì doanh
nghiệp phải chấp nhận chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình
sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gay khó khăn lớn nhưng
trong một số trường hợp, nó dặt doanh nghiệp vào thế bị động.
-Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất
vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
11
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng
vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp . Có những thời kỳ ở nước ta, lãi
suất vay vốn khá cao và thiếu tính cạnh tranh do đó không tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh.
- Phát hành trái phiếu công ty:
Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn được một doanh nghiệp phát hành

để huy động vốn của tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu
vốn sản xuất kinh doanh. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát
hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì nó có liên quan đến
chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi
loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành
những loại trái phiếu doanh nghiệp như sau:
-Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại trái phiếu này thường được sử dụng
nhiều nhất, tức là phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất
được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Việc
thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ. Để huy động vốn theo
phương thức này, phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu, nó phụ thuộc vào:
+ Lãi suất của trái phiếu: Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong tương
quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh
với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, một ràng
buộc khác là chi phí lãi vay mà công ty phải trả cho các trái chủ. Nếu đưa thêm các
yếu tố khuyên khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất.
+ Kỳ hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố rất quan trọng, không những đối
với công ty phát hành mà cả đối với nhà đầu tư. Khi phát hành, doanh nghiệp
phải căn cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư mới có thể xác định kỳ
hạn hợp lý.
+ Uy tín của doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu
hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh
nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và
vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy
động vốn.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
12

Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
+ Trong việc phát hành trái phiếu cũng cần chú ý đến mệnh giá, vì nó có
thể liên quan đến sức mua của công chúng. Đặc biệt, ở Việt Nam, khi phát hành
trái phiếu, doanh nghiệp cần xác định một mức mệnh giá vừa phải để nhiều
người có thể mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường.
-Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Loại trái phiếu này có lãi suất biến động
theo sự biến động của thị trường vốn. Trong điều kiện có mức lạm phát khá cao
và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt
của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của
lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thỏa đáng khi
so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy, một số người ưa thích trái phiếu thả nổi.
Tuy nhiên, nhược điểm của loại trái phiếu này là doanh nghiệp không thể biết
chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn cho việc lập kế
hoạch tài chính. Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh
nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
- Trái phiếu có thể thu hồi: Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành
những trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời
gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người
mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả
khi doanh nghiệp mua lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời hạn
tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi. Ưu điểm của loại trái phiếu này là có
thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn hoạt động. Khi không cần thiết,
doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng
một nguồn tài chính khác thông qua việc mua lại các trái phiếu đó.
- Chứng khoán có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu có thể chuyển đổi
thành một lượng nhất định các cổ phiếu phổ thông (đối với công ty cổ phần).
Trái phiếu này cho phép người sở hữu có thể chuyển nợ phải thu thành vốn
góp cổ phần, khi đó người có trái phiếu có quyền nhận cổ tức và mọi quyền
lợi như cổ đông khác. Việc huy động vốn bằng hình thức này có ưu điểm là
tạo ra sự gắn bó giữa người mua trái phiếu với doanh nghiệp. Ngoài ra, do hấp

dẫn hơn, hình thức này có thể huy động được nguồn vốn có chi phí thấp hươn
các hình thức khác đồng thời đa dạng hóa các công cụ huy động vốn.
-Một số loại trái phiếu khác: Doanh nghiệp có thể lựa chọn một số loại trái
phiếu khác như: Trái phiếu có đảm bảo (là trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản của
công ty) hoặc trái phiếu không co bảo đảm (là loại trái phiếu không được bảo đảm
bằng một tài sản cụ thể nào), trái phiếu trả một lần và trái phiếu trả nhiều đợt.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
13
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Có thể nói, huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu công ty có ưu
điểm là tiết kiệm được chi phí đầu tư, kiềm chế được lạm phát (do không làm
tăng lượng tiền cung ứng cho lưu thông, chỉ nhằm sử dụng có hiệu quả hơn
lượng tiền sẵn có trong lưu thông), chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn
và tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Nếu tận dụng được
những ưu điểm này thi đây chính là phương thức tối ưu và khả thi cho giải pháp
về vốn dài hạn của doanh nghiệp trong nước, đồng thời có lợi cho toàn cảnh của
nền kinh tế quốc dân.
Giữa cổ phiếu và trái phiếu công ty có một số điểm giống và khác nhau căn
bản như sau:
- Khi các công ty phát hành cổ phiếu thì công ty đó tập trung được nguồn
vốn chủ sở hữu. Khi các công ty phát hành trái phiếu ra thị trường thì công ty
đó tăng thêm nguồn vốn đi vay của mình. Đồng thời khi phát hành cổ phiếu
công ty cổ phần không có trách nhiệm hoàn trả tiền cho người mua cổ phần,
còn khi phát hành trái phiếu thì phải hoàn trả lại tiền(bao gồm cả gốc và lãi).
- Người mua cổ phiếu của công ty họ có quyền làm chủ sở hữu của công ty,
cho nên họ có quyền tham gia quản lý và điều hành công ty cổ phần. Người mua
trái phiếu là chủ nợ của công ty và không có quyền tham gia quản lý và điều
hành công ty.
- Những người mua cổ phiếu của công ty thì phần thu nhập chủ yếu phụ
thuộc vào hiệu quả, chất lượng hoạt động của công ty. Người mua trái phiếu

công ty, thu nhập của họ phụ thuộc vào lãi suất ngân hàng.
- Nguồn vốn tín dụng thương mại:
Đây là khoản mua chịu từ người cung cấp hoặc ứng trước của khách hàng
mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng thương mại luôn luôn đi kèm
với một luồng hàng hoá cụ thể, gắn với quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác
động của cơ chế thanh toán, chính sách tín dụng khách hàng doanh nghiệp được
hưởng. Khối lượng vốn doanh nghiệp huy động từ hình thức này lớn nhỏ tuỳ
thuộc vào tính chất các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khoản
tín dụng này thường có thời gian ngắn từ một đến ba tháng nhưng nó đáp ứng
phần nào lượng vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
- Nguồn vốn tín dụng thuê mua:
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc cho
thuê máy móc thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Người cho thuê (chủ
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
14
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
sỡ hữu tài sản) chuyển giao tài sản cho người thuê (người sử dụng tài sản) được
sử dụng trong một thời gian nhất định và người thuê phải trả cho chủ sở hữu tài
sản một khoản tiền thuê tương xứng với quyền sử dụng. Hình thức thuê mua giúp
doanh nghiệp tránh được những sai lầm khi tự đi vay và tự tìm mua sắm thiết bị
vì các công ty thuê mua không chỉ đơn thuần thay thế tín dụng ngân hàng mà còn
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp mua sắm và thuê thiết bị như: chuyển
giao công nghệ, đào tạo công nhân kỹ thuật và bảo hành, bảo trì, tư vấn hợp lý
hóa sản xuất và hiện đại hóa hệ thông trang thiết bị kỹ thuật. Thuê tài chính là
một hình thức tài trợ tín dụng thông qua cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết
bị, phương tiện vận chuyển là nhu cầu mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
mong muốn để đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất kinh
doanh. Đặc trưng của phương thức này là đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ
chuyển giao tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử
dụng và hưởng những lợi ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời

gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương
xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cũng nói lên việc cấp tín
dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự đảm bảo tài sản có trước,
tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về
tài sản đảm bảo nếu phải vay từ ngân hàng. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài
chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh
nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định.
Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng, vừa có vốn để kinh doanh.
Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê hoạt động
và thuê tài chính.
- Thuê hoạt động (Operating Lease).
Thuê hoạt động hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính chất
thời vụ. Hình thức thuê hoạt động được coi là một loại hợp đồng để chấp hành,
tài sản đi thuê không được phản ánh trong sổ sách kế toán của người thuê, số
tiền thuê trả theo hợp đồng được ghi như một chi phí bình thường khác.
Thuê hoạt động có hai đặc trưng chính:
- Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của
tài sản, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong một thời gian ngắn.
-Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thỏa thuận, người cho thuê phải chịu
mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản
cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
15
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
- Thuê tài chính (Finance Lease)
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hay dài hạn theo
hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà
người mua cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua lại tài sản từ
người cho thuê. Trong nhiều trường hợp, một công ty bán ngay tài sản của mình
cho người thuê rồi thuê lại. Trong hợp đồng thuê tài chính thì thời hạn thuê tài

sản của bên thuê phải chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá
thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài
sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
Thông thường hết giai đoạn thuê tài chính người cho thuê thường ủy quyền
cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Nếu người thuê quản lý sử dụng tài sản tốt
thì giá trị thực tế của tài sản có thể lớn hơn nhiều so với giá tiền còn lại dự kiến
trong hợp đồng, họ có thể mua lại và cũng có thể bán được giá cao hơn họ sẽ
được hưởng phần chênh lệch.
Trong hợp đồng thuê tài chính, các loại chi phí bảo dưỡng, vận hành, phí
bảo hiểm, thuế tài sản cũng như những chi phí rủi ro khác đối với tài sản do bên
thuê phải chịu cũng như tương tự của công ty mua sắm.Cũng vì lý do đó các
khoản tiền thuê mà người cho thuê nhận được coi là giá trị thừa của tài sản nên
hình thức thuê này cũng được gọi là thuê mua thuần.
- Nguồn vốn liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau. Tức là
nguồn vốn mà các doanh nghiệp góp vốn theo phương thức cùng hợp tác kinh
doanh, cùng chia sẻ rủi ro nếu có và cùng phân chia lợi nhuận.
- Nguồn vốn ODA (Official development assistance).
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước
ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình
thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF (Official
development finance) – Tài trợ phát triển chính thức) nào khác.
Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn
vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành
tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Yếu tố không hoàn lại (thành tố hỗ trợ) của từng khoản vay được xác định
dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong
các năm và tỷ suất chiết khấu.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
16
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân

Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm
các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục
chuyển giao vốn và thị trường ). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này
với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể.
Nếu không, việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho
nền kinh tế. Điều này còn hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự
án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thỏa thuận, để vừa có thể nhận vốn, vừa đảm bảo
được các mục tiêu có tính nguyên tắc.
1.3 . NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.3.1. Nhóm yếu tố chủ quan
1.3.1.1. Chi phí sử dụng vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
• Chi phí vốn: là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số
lợi nhuận kỳ vọng đạt được trên vốn đầu tư vào được dự án hoặc doanh
nghiệp để giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Các nhà đầu
tư chỉ chấp nhận cấp vốn cho doanh nghiệp khi họ được trả một khoản lãi
xứng đáng. Thông thường, người cho vay luôn mong muốn một lãi suất cao,
ngược lại, doanh nghiệp đi vay muốn trả lãi thấp, vì vậy, lãi suất vay vốn và
lãi suất cân bằng tại đó người cho vay và người đi vay đều chấp nhận được.
• Cơ cấu vốn: Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiếm khi chỉ
sử dụng một nguồn vốn để tài trợ cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình
ngay cả khi đó là nguồn có chi phí thấp hơn các nguồn khác. Nguồn vốn của một
doanh nghiệp được chia thành: Nguồn vốn tự có (vốn chủ sỡ hữu) và vốn vay.
Thông thường, nguồn vốn tự có không đủ lớn để tài trợ cho toàn bộ các dự
án phát triển chiều sâu và mở rộng của doanh nghiệp. Mặt khác, tăng nguồn vốn
chủ sở hữu luôn tạo ra sức ép về tỷ suất lợi nhuận cho người quản lý, vì vậy,
doanh nghiệp phải huy động vốn vay. Tuy nhiên, người cho vay lại luôn mong
muốn doanh nghiệp duy trì tỷ trọng nguồn vốn tự có đủ lớn để đảm bảo khả năng
trả nợ, điều này luôn là một khó khăn đối với doanh nghiệp. Các nhà quản trị tài
chính doanh nghiệp luôn giải quyết mâu thuẫn trên để tìm ra một cơ cấu nguồn

vốn tối ưu, đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa nguồn vốn chủ sở hữu và nợ vay sao
cho lợi ích thu được là lớn nhất. Đó là cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro
và lãi suất, nhờ đó tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
17
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Để thiết lập một cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp, các nhà quản trị tài
chính cần xem xét bốn nhân tố chủ yếu sau:
-Rủi ro kinh doanh: Là một trong những nhân tố có tác động đến việc lựa
chọn nguồn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Rủi ro đề cập đến ở đây là
rủi ro cố hữu trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp khi không sử dụng nợ
vay. Như vậy, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có rủi ro
kinh doanh lớn thì vay nợ nhiều khi không phải là giải pháp tối ưu. Nói cách
khác, rủi ro kinh doanh càng lớn, tỷ lệ tối ưu càng thấp.
-Chính sách thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chi phí
của nợ vay thông qua điều tiết phần tiết kiệm nhờ thuế. Thuế suất cao sẽ khuyến
khích doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên, vì khi đó,
phần lãi vay phải trả sẽ được tính vào chi phí hợp lý trước khi tính thuế thu nhập
doanh nghiệp.
-Khả năng tài chính của doanh nghiệp: Các nhà quản lý tài chính biết rằng,
tài trợ vốn vững chắc là một trong những điều kiện cần thiết để doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả. Họ cũng biết rằng khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt
trong nền kinh tế hoặc khi một doanh nghiệp đang trải qua khó khăn trong hoạt
động, những nhà đầu tư muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có tình
hình tài chính lành mạnh. Như vậy, nhu cầu vốn tương lai và những hậu quả thiếu
vốn có ảnh hưởng quan trọng đối với mục tiêu cơ cấu vốn.
-Tính quyết đoán của nhà quản lý: Chính là sự lựa chọn giữa hai quan điểm:
Sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn bất chấp mức đọ rủi ro cao nhằm thu lợi nhuận cao
và sử dụng vốn chủ sở hữu chấp nhận mức lợi nhuận thấp nhưng an toàn.
Việc cân nhắc tới tất cả những yếu tố trên đều là nhằm mục tiêu thiết lập nên

một cơ cấu vốn hợp lý cho doanh nghiệp. Trong từng giai đoạn phát triển khác nhau,
những điều kiện bên trong và bên ngoài doanh nghiệp có thể biến đổi, nhưng tại bất
kỳ thời điểm nào đó cho trước, ban quản lý doanh nghiệp đều có một cơ cấu vốn
nhất định và những quyết định tài trợ phải thích hợp với mục tiêu này.
Về cơ bản, các doanh nghiệp luôn cố gắng hướng tới cơ cấu vốn chỉ có chi
phí trung bình của vốn là thấp nhất. Việc xác định chi phí vốn trung bình
(WACC) của doanh nghiệp dựa trên chi phí của các yếu tố cấu thành tổng nguồn
vốn của doanh nghiệp bao gồm: Chi phí nợ vay sau thuế (Kd.(1-t), trong đó t là
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp), chi phí cổ phiếu ưu tiên (Kp) và chi phí
lợi nhuận giữ lại (Ks) theo công thức:
WACC = Wd.Kd.(1-t) + Ws.Ks + Wp.Kp
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
18
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
Với Wd, Ws, Wp tương ứng là tỷ trọng của nợ vay, cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu tiên.
Do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau nên cùng một lượng vốn
được huy động nhưng tỷ lệ của các nguồn vốn khác nhau thì chi phí trung bình
của vốn cũng khác nhau. Vì vậy, khi quyết định lựa chọn một nguồn vốn đầu tư,
doanh nghiệp luôn phải cân nhắc chi phí và tỷ trọng của chúng sao cho chi phí
trung bình của vốn là thấp nhất.
Rõ ràng là, chi phí vốn và cơ cấu vốn có ảnh hưởng trực tiếp một cách
mạnh mẽ tới việc huy động vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ huy động
nguồn vốn nào, với quy mô là bao nhiêu không chỉ phụ thuộc vào chi phí phải trả
cho nguồn vốn đó mà còn phụ thuộc vào cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp đã
đặt ra.
1.3.1.2. Năng lực hoạt động của doanh nghiệp
Nhìn chung, một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tình hình tài chính
lành mạnh luôn dễ dàng được các tổ chức tín dụng, ngân hàng cho vay vì khả
năng hoàn trả nợ cao. Vì vậy, năng lực kinh doanh tốt là yếu tố có ảnh hưởng

quan trọng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
1.3.1.3. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế, nó phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp vào sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Một doanh nghiệp có hiệu quả
sử dụng vốn cao đỗng nghĩa với việc doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Trong nền kinh tế thị trường, đây là một yếu tố quyết định khả năng mở rộng sản
suất kinh doanh của doanh nghiệp theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Nói cách khác,
khi phân chia vốn vào các mục đích sử dụng một cách hợp lý và được bảo toàn,
doanh nghiệp có thể tiết kiệm được vốn và tránh được lãng phí, nâng cao uy tín
đồng thời tăng khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
1.3.2. Nhóm yếu tố khách quan
1.3.2.1. Chính sách kinh tế vĩ mô
Là một chủ thể của nền kinh tế, mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt
là hoạt động huy động vốn luôn chịu ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế vĩ mô của
từng quốc gia.
Ở Việt Nam, chính sách của Đảng và Nhà nước là một nhân tố có ảnh
hưởng rất lớn và trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
19
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý
cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động đó theo mục
tiêu kinh tế vĩ mô đã được hoạch định.
Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp bắt buộc phải nắm rõ và chấp hành.
Việc huy động vốn của doanh nghiệp (Nguồn huy động, quy mô huy động,
phương thức huy động) được quy định cụ thể phải thực hiện theo cơ chế quản lý
tài chính của Nhà nước được thể chế hóa bằng các quy định, nghị định của Chính
phủ và các văn bản pháp luật khác.
Điều quan trọng ở đây là các doanh nghiệp cần quan tâm dự đoán và

thường xuyên cập nhật các chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước
trong mỗi thời kỳ vì các chính sách này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến khả năng
huy động vốn, đặc biệt khi thị trường tài chính phát triển. Chẳng hạn, chính sách
tiền tệ thắt chặt luôn gây khó khăn cho doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng do
lãi suất cho vay cao, thủ tục vay vốn chặt chẽ hơn. Tương tự như vậy, chính sách
khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với một ngành nghề cũng sẽ cũng tạo
điều kiện hoặc hạn chế khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp kinh doanh
ngành nghề đó. Có thể kể tới những nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng tới khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp:
-Lãi suất ngân hàng là yếu tố đầu tiên mà mọi doanh nghiệp phải cân nhắc
khi lựa chọn nguồn vốn cho kế hoạch tài trợ của mình. Đây là yếu tố ảnh hưởng
đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải tính toán
hiệu quả đầu tư, cân đối và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp giữa vay ngân hàng
hay phát hành trái phiếu
-Thu nhập dân cư cũng là một nhân tố tác động đến khả năng huy động vốn
của doanh nghiệp. Thu nhập dân cư ở mức cao đồng nghĩa với khả năng tích lũy
cao, tiết kiệm lớn dẫn đến đầu tư lớn và lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế
tăng lên. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách
dễ dàng hơn thông qua các công cụ của thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu
hoặc các công cụ có thể chuyển đổi, đặc biệt là ở những nước có thị trường tài
chính phát triển.
-Lạm phát là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của
doanh nghiệp. Lạm phát cao làm đồng tiền mất giá, Ngân hàng Trung ương có xu
hướng thắt chặt tiền tệ còn người dân thì có tâm lý rút vốn để đầu cơ tích trữ
những tài sản ít bị ảnh hưởng như vàng, bất động sản, làm giảm lượng vốn xã
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
20
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
hội dành cho đầu tư sản xuất kinh doanh. Mặt khác, lạm phát cao cũng dẫn tới lãi
suất huy động cao hơn , lãi suất cho vay cao hơn để duy trì một lãi suất thực

dương và gây khó khăn cho doanh nghiệp khi vay vốn.
-Lãi suất trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế: Trong một nền kinh tế
mở. lãi suất có ảnh hưởng tới dòng chảy của vốn vì vốn luôn có xu hướng di
chuyển về những thị trường có lãi suất cao.
-Thuế là chính sách cơ bản của Nhà nước nhằm phân phối lại thu nhập của
nền kinh tế, huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Chính sách thuế có
ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Ví dụ, nếu thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bằng nguồn vốn
vay, thuế suất thuế thu nhập cá nhân cao sẽ khuyến khích cổ đông sử dụng cổ tức
được chia để tái đầu tư hơn là sử dụng cho chi tiêu. Đối với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, chính sách ưu đãi về thuế đã và đang thu hút lượng vốn
đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặcđầu tư
100%vốn nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng cơ hội này sể
huy động vốn đầu tư thông qua hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng hợp tác
kinh doanh.
1.3.2.2. Sự phát triển của thị trường tài chính
Hiện nay, nguồn vốn dài hạn của ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp
còn rất hạn chế vì nguồn huy động của ngân hàng phần lớn là tiết kiệm ngắn hạn
và tiền gửi trên tài khoản thanh toán, không thể sử dụng toàn bộ để cho vay dài
hạn. Giải pháp cho các doanh nghiệp là tìm kiếm vốn đầu tư dài hạn thông qua
thị trường tài chính với hai hình thức cơ bản là phát hành cổ phiếu và trái phiếu
Thị trường tài chính, với chức năng là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền
kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp:
-Thị trường chứng khoán: Các doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp tại thị
trường sơ cấp thông qua các tổ chức bảo lãnh phát hành. Quy mô và thời gian
huy động phụ thuộc vào hiệu quả của dự án, uy tín của doanh nghiệp phát hành
và tổ chức bảo lãnh phát hành cũng như sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay mới ở dạng sơ khai, hàng hóa chưa
nhiều, sự hiểu biết của các nhà đầu tư còn hạn chế, cơ chế pháp lý tạo khung pháp lý
cho hoạt động chứng khoán chưa đầy đủ. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp

gặp nhiều khó khăn khi muốn huy động vốn trển thị trường này.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
21
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
-Thị trường tiền tệ: Thị trường vốn là nơi diễn ra việc mua bán các công cụ
vay nợ ngắn hạn như tín phiếu, thương phiếu, hối phiếu, Mặc dù thị trường tiền
tệ có mức giao động giá nhỏ, ít rủi ro nhưng nguồn vốn huy động thường nhỏ và
ngắn hạn. Thị trường tài chính Việt Nam nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng
chưa phát triển một cách hoàn thiện, các tổ chức trung gian tài chính chưa đủ
tiềm lực để đáp ứng nhu cầu vốn trung hạn và vốn dài hạn mà hoạt động tài trợ
ngắn hạn cũng chưa phát huy hết hiệu quả. Đối với Việt Nam hiện nay, hệ thống
ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế khi mà thị trường chứng
khoán mặc dù đã hình thành nhưng chưa phát huy được vai trò tạo ra các hình
thức đầu tư, chưa mở rộng các kênh chu chuyển vốn trung và dài hạn để tạo cơ
hội huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất. Vì vậy, khả năng
huy động vốn của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, nhất là đối với những
doanh nghiệp cần huy động vốn cho những dự án đầu tư vào lĩnh vực xây dựng
cơ bản, có quy mô lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài.
1.3.2.3. Sự tác động của kinh tế thế giới
- Sự tác động của toàn cầu hóa và việc Việt nam gia nhập WTO:
Việc toàn cầu hóa mở ra cho các doanh nghiệp Việt nam một cơ hội lớn để
huy động vốn trên thị trường quốc tế. Niêm yết tại thị trường chứng khoán quốc
tế đem lại những lợi ích rất lớn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn quốc tế,
tăng tính thanh khoản của giao dịch, mở rộng cơ sở cổ đông, đồng thời, quảng bá
hình ảnh ra khỏi biên giới quốc gia, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế về
quản trị công ty và tính minh bạch. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam, việc huy
động vốn theo hình thức này gặp một số trở ngại nhất định từ phía cơ quan quản
lý và cả doanh nghiệp. Về phía cơ quan quản lý, nguồn lực quản lý, cơ sở hạ tầng
để đáp ứng nhu cầu kết nối giám sát chung và cơ sở pháp lý chưa hoàn thiện là
những khó khăn chủ yếu. Đối với doanh nghiệp, khó khăn trong việc đáp ứng

tiêu chuẩn niêm yết về tài chính, công bố thông tin cũng như chi phí và nguồn
lực để duy trì niêm yết tại hai thị trường là những rào cản lớn để tiếp cận kênh
vốn này. Tìm hiểu và hướng đến thị trường vốn quốc tế là một cách làm đang
được nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm. Hơn nữa, kể từ khi trở thành thành
viên đầy đủ của WTO vào tháng 1/2007 là một trong những yếu tố khuyến khích
Việt Nam nhận được luồng vốn chảy vào lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài và
như vậy đem lại nhiều cơ hội hơn trong việc huy động vốn cho các doanh nghiệp
trong nước. Những công ty niêm yết mới trên thị trường đã thúc đẩy quá trình cổ
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
22
Chuyên đề tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân
phần hoá đi nhanh hơn. Một số công ty nhà nước lớn đã được cổ phần hóa xong
làm cho thị trường mở rộng không chỉ về lượng mà cả về chất.
-Ảnh hưởng của biến động các thị trường tài chính trên thế giới:
Trong thời đại ngày nay, thị trường tài chính trong nước có mối liên quan
cực kỳ mật thiết với thị trường tài chính tài chính quốc tế. Thị trường trong nước
và nước ngoài đã thông thương với nhau ở mức độ nhất định, và vì vậy ví dụ như
khi Cục dự trữ liên bang của Mỹ (FED) cắt giảm lãi suất USD thì cũng sẽ cũng
ảnh hưởng đến lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay và việc huy động vốn nói
chung ở Việt Nam. Tương tự như vậy, với các thay đổi về giá của các nguyên
liêụ chiến lược như dầu mỏ, vàng cũng ngược lại tác động đến lãi suất cũng
như khả năng huy động vốn tại Việt nam.
Nguyễn Ngọc Linh Lớp: Tài chính A - K39
23

×