Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.41 KB, 7 trang )

Đề: Phân tích nhân vật con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.
BÀI LÀM
Với nhân vật con hổ trong vườn thú được miêu tả như một tính cách dữ dội,
lớn lao, đầy dằn vặt và khát vọng, Nhớ rừng ít nhiều đã hoà vào cái mạch đã từng
đem lại cho thi ca biết bao nhiêu danh tác. Lẽ dĩ nhiên, không ai dám đặt con hổ
của bài thơ bên cạnh những tầm cỡ như Prômêíê bị xiềng hay Hamlet hay Người tù
xứ Capcadơ. Nhớ rừng mới chỉ là tiếng nói đớn đau của một kẻ đã mất hết niềm
tin được tự do, mất hết ước mơ chiến thắng. Con hổ ở đây đã không thể làm được
gì hơn là “nằm dài” trong cũi sắt, để “trông ngày tháng dần qua”, và nói về cái
thuở oanh liệt vẫy vùng như những tháng ngày không bao giờ trở lại. Cũng không
có trong nó cái khát khao tương truyền đã được người anh hùng Nguyễn Hữu cầu
diễn tả trong những vần thơ lồng lộng ngợp say:
Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán
Phá vòng vây, bạn với kim ô.
Có lẽ sẽ không là khiên cưỡng: nếu nói rằng Nhớ rừng với hình tượng con hổ
nằm dài ấy, đã tạo nên tư thế của những con người đã thôi nghĩ đến hành động,
những con người mà nhiệt tình làm cách mạng, mà hoài bão muốn góp phần mình
vào một sự đổi thay đã không còn.
Thế nhưng, con hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dù có chịu mất tự do,
nhưng cũng không chịu mất đi niềm kiêu hãnh. Trong khổ đau, trong cảnh “tù
hãm”, trong nỗi “nhục nhằn”, nó vẫn biết tự phân biệt mình với những kẻ đã đi
hoàn toàn tầm thường đồng hoá đến cả tinh thần, ở đây, vấn đề không phải là xem
xét “tác phong quần chúng” của con hổ, phê bình nó “không một chút ưu ái gì đối
với những con vật như con gấu, con báo cùng số phận như nó và nằm sát ngay
cạnh chuồng nó” như ai đó đã bàn. Ở đây, cũng như chim ở trong lồng, ở cả
Prômêtê bị xiềng và Hamlet nữa, sự đối lập giữa hai hạng người, hai cách sống là
cách thức nghệ thuật vẫn thường dùng để làm nổi bật lên cái kích thước cao cả và
tô đậm thêm cảm hứng đầy tính bi kịch của một tâm hồn bị khổ đau chứ nhất
quyết không chịu hạ mình trong bất hạnh.
Thế Lữ, ít nhất là một lần trong một đời thơ, đã cố gắng xây dựng cho mình
một hình tượng thơ như thế. Con hổ ở Nhớ rừng biết mình chiến bại nhưng vẫn


chưa chịu làm tôi tớ cho sự “tầm thường, giả dối” của cảnh ngục tù. Nó bất lực,
nhưng không hoàn toàn khuất phục và thoả hiệp. Nó vẫn “ghét những cảnh không
đời nào thay đổi”, nghĩa là còn ước ao những sự đổi thay. Bị giam thân trong lồng
sắt chật, nó vẫn tha thiết vươn tới những chân trời rộng rãi của thế gian với “giấc
mộng càng to lớn”, và của thời gian với “niềm uất hận ngàn thâu”. Bài thơ, cho tới
cùng, vẫn thể hiện một tinh thần, chối từ thực tại, dẫu mới chỉ là sự chối từ trong
mộng tưởng mà thôi.
Sự xung đột, chống đôi quyết liệt, thường xuyên, không thể dung hoà giữa
hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật với nội tâm, giữa thấp hèn với cao thượng
chính là cơ sở để kết cấu nên toàn bộ bài thơ. Có cảm giác như nghe được từ Nhớ
rừng một bản xônát bốn chương với sự luân chuyển, đan xen của hai nhạc đề
tương phản, trong đó, chủ đề chính, chủ đề “nhớ rừng” bỗng đột ngột chuyển vút
lên sau những nốt nhạc đã ngày càng chậm chạp, buồn nản ở chương đầu, và cứ
vang to mãi, dào dạt mãi, dâng mãi đến cao trào với tất cả niềm phấn hứng của
tâm linh để rồi chợt tắt lặng đi nặng nề, uất nghẹn. Và cuối cùng trong sự quật
khởi chủ đề chính lại quay trở lại không còn hùng tráng được như trên, những thiết
tha, những nuối tiếc. Bài thơ kết thúc trong tiếng gọi tha thiết với rừng già của một
kẻ biết mình đã sắp phải chấm dứt cuộc vượt tù trong tâm tưởng. Như thế bằng
việc luôn luôn chuyển đổi tình cảm và giọng điệu thơ sang phía đối lập với nó, nhà
thơ đã tìm đúng cái cách thức hữu hiệu để diễn tả hết các cung bậc cảm xúc của
một tâm trạng cô đơn và đầy day dứt.
Nhưng chưa hết, sự hướng tới những khát vọng mãnh liệt, cách chơi những
tương phản mãnh liệt, nghĩa là một nét thi pháp lãng mạn chủ nghĩa, còn đựơc Thế
Lữ sử dụng khá thành công trong phạm vi một đoạn, một chương. Chẳng hạn, hãy
đọc hai câu thơ đầu tiên. Hãy xem xét một chút kĩ hơn đoạn thơ thứ hai, đoạn thơ
hay nhất toàn bài, đoạn thơ mà với nó, tác giả - nói lên cách của A-đư Muytxê - đã
đem lại cho ta cả một “bữa tiệc đời” của âm thanh, của đường nét và màu sắc. Ở
đây tác giả phải thực hiện một nhiệm vụ cực khó khăn: “diễn tả cái quyền thế độc
tôn của vị chúa sơn lâm trên cái nền của ảnh thiên nhiên hùng vĩ”. Phải miêu tả
con hổ như thế nào một khi đã huy động vào bài thơ cả “tiếng gió gào ngàn” và

“giọng nguồn hét núi”, cả “những đêm vắng bên bờ suối” tràn ngập “ánh trăng
tan” và những cánh rừng chiều, trong buổi hoàng hôn, trông như “lênh láng máu”?
Giải pháp mà tác giả đã tìm ra - dù tự giác hay không vẫn là đối lập, một sự
đối lập có thể nói là lộng lẫy. Nhà thơ đã kể cho con hổ lấy sự trật tự, nhịp nhàng
để chế ngự cảnh đại ngàn ghê ghớm nhưng hỗn độn, và chế ngự cái động của đât
trời bằng cái tĩnh uy nghi của bản thân. Giữa lúc cảnh sơn lâm đang gào thét lên
“khúc trường ca dữ dội”, con hổ “bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng”, và thêm
nhiều dường như bởi đó mà âm thầm trở lại. Con hổ say, đứng uống ánh trăng và
đợi chết mảnh mặt trời, con hổ lặng ngắm giang sơn khi bốn phương ngàn đang
chuyển động, con hổ ngủ trong khi lao vật tưng bừng hợp tấu khúc bình minh.
Trong sự đối lập ấy của các gam màu nghệ thuật, thiên nhiên hùng tráng đã trở
thành cái nền để làm tôn lên hình dáng của một quyền uy tối thượng.
Nhớ rừng được sáng tác vào những năm phong trào Thơ mới khai sinh, vì thế,
thật là kì lạ trong những ngày uống nước ấy, nó đã đạt tới vẻ đẹp có lẽ đã có thể
gọi là cổ điển. Từ tình cảm cho đến thể thơ, nó mang một sức sông, một vẻ phóng
khoáng vẫy vùng mà “thơ cũ” không thể có, nhưng lại không hề có sự xộc xệch và
thiếu cô đúc mà nhiều bài thơ mới buổi đầu tiên ấy đã mắc phải. Có những câu, từ
nội dung ý nghĩa đến khuôn âm thanh điệu và sự ngắt nhịp của lời thư đều phô bày
một giá trị tạo hình đặc sắc: “Lượn lấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng”. Có thể
dẫn Lơcôngtơ đư Lin chẳng hạn, để chứng minh Thế Lữ đã chịu ảnh hưởng của
thơ phái Thi Sơn. Song lại khó có thể cho rằng những câu thơ như thế này, đặt
trong bố cục chung của hai bài thơ, lại “giống như những bức ren bằng cẩm thạch
hơn là giống với những lời thơ sinh động của con người”, như M.Gorki đã nói về
chính những nhà thơ Thi Sơn ấy.
Cho nên, cũng có thể hiểu được vì sao Vũ Đình Liên lúc ấy lại nói bằng chỉ
hai câu:
Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.
“Cũng có sức mạnh như một tuyên ngôn (manifeste) để bênh vực cho Thơ mới”,
về mặt ấy, Nhớ rừng chính là một trong những viên đá tảng đầu tiên và chắc chắn

nhất của một nền thơ, mà vượt lên trên tất cả sự phức tạp của nó vẫn là một phần
đóng góp không thể bác bỏ cho sự tiến lên của nghệ thuật thơ ca của nước ta.
Là sự hoài vọng của một kẻ dẫu sao cũng đã thấy bất lực rồi vồ một “chôn
thiên đường đã mất”. Nhớ rừng cũng chỉ nằm trong phạm trù của chủ nghĩa lãng
mạn thông thường, mà cơ sở của nó, như Phaghê đã xác định lừ lâu, là “sự ghê
tởm đối với thực tại và nguyện vọng mãnh liệt muôn thoát ra ngoài thực tại”.
Song cũng có thể giải thích được hiện tượng nhiều chiến sĩ cách mạng lúc đó
thích và thuộc bài thơ. Chính cái chất bi tráng đã làm cho Nhớ rừng khác với phần
nhiều các bài thơ lãng mạn bấy giờ, kể cả thơ của chính Thế Lữ, dù sau này nhà
thơ còn viết Tiếng hò bên sông, Con người vơ vẩn hay Giây phút chạnh lòng. Sự
nổi loạn trong tâm tư con hổ đang “gặm một khối căm hờn trong cũi sắt” kia rất có
thổ đã làm nặng nê thêm, để con người cảm thấy chán ghét thêm cái ách áp bức
nặng nồ của một cuộc đồi đang cần phủ định. Và giấc mư Iráng lộ ây, gại ra một
bôn sự hống hách, hão huyền, vẫn có khả năng làm hăng say thêm một tinh thần
cách mạng, làm dậy thêm chất men của cái “khát vọng muốn trở nên tốt đẹp hơn
bây giờ”, điều mà nhà văn cách mặng M.Gorki cho là duy nhất thiêng liêng.
Bài tham khảo 2
Nhớ rừng là bài thơ kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào
Thơ mới (1932 – 1941). Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ,
đặc biệt với hình tượng con hổ, bài thơ Nhớ rừng đã chinh phục mỗi chúng ta, đã
chiếm lĩnh nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỷ qua.
Con hổ được thi sĩ nói đến với bao cảm thông và ngưỡng mộ. Nó đang nằm
trong cũi sắt vườn Bách thú. Chúa sơn lâm trong cảnh tù hãm vô cùng cay đắng
uất ức căm hờn đã tích tụ, đã chứa chất thành một khối. Không căm hờn sao được
khi phải nằm dài, trông ngày tháng dần qua trong cũi sắt? Không uất ức, cay đắng
sao được khi chúa sơn lâm đang bị lũ người giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm,
đang trở thành thứ đồ chơi, với cặp báo vô tư lự trong vườn bách thảo? Thế Lữ đã
thể hiện tâm trạng cay đắng, căm hờn của con hổ mất tựu do đầy ám ảnh:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua…

(…), Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm…
Qua đó, ta càng thấy rõ: Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn (Truyện Kiều –
Nguyễn Du); ta càng thấm thía: trên đời nghìn vạn điều cay đắng - Cay đắng chi
bằng mất tự do (Nhật ký trong tù – Hồ Chí Minh).
Năm tháng dần trôi qua, chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng.
Nhớ thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…
Như tư thế cao sang, oai hùng của ta. Một cái bước chân, một tấm thân lượn
sóng, một cái vờn bóng… Tất cả đều dõng dạc, đường hoàng. Một chữ ta vang lên
đầy tự hào của chúa sơn lâm:
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Quyền uy của ta là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải im hơi khi mắt
thần của ta đã quắc, ta biết giữa chốn thảo hoa, ta là chúa tể cả muôn loài:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ quyền uy… của chúa sơn lâm chính là nhớ những
năm tháng không thể nào quên. Nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự
do cháy bỏng.
Hổ nhớ rừng là nhớ đến những kỉ niệm chói lọi một thời vàng son, một thời
oanh liệt. Cảnh vật tráng lệ. Nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyền bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật!
Than ôi! Thời oanh liệt này còn đâu?
Các luyến láy, điệp ngữ: “đâu những đêm vàng…, đâu những ngày mưa đâu
những bình minh…, đâu những chiều…, nay còn đâu?” xuất hiện nối tiếp trong
năm câu hỏi tu từ tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc
tình thương nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ, nhớ rừng, tiếc nuối một thời oanh liệt
nay đã trở thành hoài niệm, thành dĩ vãng. Chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ
bình minh, nhớ chiều tà, nhớ suối, nhớ trăng, nhớ cảnh giang sơn trong màn mưa
rừng, nhớ cây xanh nắng gội, nhớ chim hót tưng bừng lúc bình minh, nhớ mặt trời
gay gắt trong khoảnh khắc hoàng hôn… Nỗi nhớ tiếc ấy là nỗi đau buồn bị tước
đoạt mất tự do, cũng là nỗi khao khát tự do. Thế Lữ đã sáng tạo nên những vần thơ
giàu hình tượng và nhạc điệu, dào dạt cảm xúc để thể hiện nỗi nhớ rừng của con
hổ… Một tiếng than như xiết lấy lòng người, khêu gợi và lay tĩnh:
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Bị sa cơ, bị tù hãm trong cũi sắt. Phải xa rừng nên nhớ rừng. Đau đớn và uất
hận biết bao giờ nguôi? Như một tiếng thở dài ngao ngán:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.
Vị chúa sơn lâm, nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già rồi uất hận căm ghét
những cảnh không đời nào thay đổi tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa tầm thường giả dối nhỏ
bé:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém.
Uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do lũ
người kia ngạo mạn bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi cảnh nước non
hùng vĩ. Nhớ rừng là nhớ vương quốc tự do ngày nào:
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa.
Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo giấc mộng ngàn.
Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Nhớ rừng là một trong mười bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới (1932 –
1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương,
cảm xúc dào dạt. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được
khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.
Trong hoàn cảnh bài thơ ra đời (1934), tâm trạng tủi nhục, đau đớn, uất hận…
của con hổ nhớ rừng đồng điệu với bi kịch của nhân dân ta đang rên xiết trong
xích xiềng nô lệ. Nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. Bài thơ như một lời
nhắn gửi kín đáo, thiết tha về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của
bài thơ là giá trị của tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư
tưởng vĩ đại ấy.

×