Phát biểu cảm nghĩ về bài cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử
Hơn một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi
tráng của Hà Nội. Hiện nay, tuy đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng cầu Long
Biên vẫn mãi mãi là một chứng nhân lịch sử không chỉ của riêng Hà Nội mà là của
chung cả nước.
Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử là một bài báo mang nhiều yếu tố hồi kí, ghi
lại những sự kiện mắt thấy tai nghe cùng với những cảm nghĩ của tác giả. Lối viết
giàu cảm xúc bắt nguồn từ sự hiểu biết phong phú cùng với những kỉ niệm về cây
cầu Long Biên nổi tiếng cùng với phép nhân hóa đã tạo nên sức hấp dẫn của bài
văn.
Thúy Lan, một phóng viên của báo Hà Nội mới đã viết bài bút kí này nhằm giới
thiệu với nhân dân cả nước và bè bạn năm châu một danh thắng đặc biệt của Thủ
đô Hà Nội – cầu Long Biên. Một chiếc cầu đã gắn liền với lịch sử hào hùng, oanh
liệt của dân tộc Việt Nam.
Sau khi giới thiệu tóm tắt về hoàn cảnh ra đời của cầu Long Biên, tác giả hồi
tưởng về những kỉ niệm có liên quan đến nó. Từ thuở học trò, cầu Long Biên đã đi
vào bài thơ mà thầy giáo bắt học thuộc lòng. Nhớ lúc dạo chơi trên cầu, ngắm
dòng nước sông Hồng cuồn cuộn phù sa, ngắm cảnh mênh mông, bát ngát của
ruộng lúa, bãi ngô dưới chân cầu. Nhớ lại hình ảnh dũng mãnh của trung đoàn Thủ
đô năm xưa bí mật rời Thủ đô ra đi kháng chiến. Hình ảnh hào hùng ấy đã được
nhà thơ Chính Hữu và nhạc sĩ tài hoa Lương Ngọc Trác ghi lại rất thành công
trong ca khúc Ngày về.
Tác giả vừa đau xót vừa tự hào khi ngước mắt lên bầu trời trong xanh, nhớ lại cảnh
máy bay giặc Mĩ ném bom tàn phá cây cầu hòng cắt đứt mặt mạch máu giao thông
quan trọng của Thủ đô Hà Nội và quân dân ta đã đánh trả quyết liệt, kịp thời hàn
gắn lại vết thương của cầu… Trong kí ức lại hiện lên những ngày bão lụt, nước
sông Hồng dâng cao cuồn cuộn sóng đỏ; chiếc cầu vẫn vững chãi tồn tại như thách
thức với thiên tai.
Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
đã kết thúc thắng lợi. Mưa bom bão đạn đã qua, dân tộc Việt Nam bắt tay vào công
cuộc xây dựng lại non sông. Cây cầu Long Biên vẫn sừng sững soi bóng trên dòng
sông Hồng. Giờ đây, cầu Long Biên là nhịp cầu hữu nghị, đón bè bạn năm châu
đến với Việt Nam.
Mở đầu bài văn, tác giả giới thiệu lai lịch của cầu Long Biên: Cầu Long Biên bắc
qua sông Hồng, Hà Nội, được khởi công xây dựng vào năm 1898 và hoàn thành
sau bốn năm, do kiến trúc sư nổi tiếng người Pháp Ép-phen thiết kế. Một thế kỉ
qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng…
Trong đoạn văn này, sự vật được trình bày một cách khách quan. Tác giả chủ yếu
dùng phương thức thuyết minh để nói lên những hiểu biết có căn cứ khoa học chứ
không đơn thuần là những cảm nghĩ về cầu Long Biên.
Giờ đây, bắc ngang sông Hồng đã có thêm cầu Thăng Long, cầu Chương Dương
hiện đại hơn. Cầu Long Biên trong thời bình đã rút về vị trí khiêm nhường, nhưng
nó đã trở thành chứng nhân lịch sử. Cầu Long Biên như một nhân chứng sống
động, đau thương và anh dũng của Thủ đô Hà Nội.
Đối với người Hà Nội nói riêng và đối với nhân dân Việt Nam nói chung, cầu
Long Biên là chứng nhân lịch sử, chứng kiến những giai đoạn đau thương và oanh
liệt của dân tộc chống ngoại xâm.
Ở đoạn tiếp theo, những đặc điểm của cây cầu Long Biên đã được tác giả trình bày
trong mối tương quan với những vấn đề lịch sử – xã hội khác, như cầu khi mới
khánh thành mang tên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ là Đu-me…
cầu là kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cầu được coi là một thành
tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt… Cầu được hoàn thành là do công sức
lao động và mạng sống của hàng nghìn người Việt Nam trong quá trình xây dựng.
Chiếc cầu từng chứng kiến cảnh ăn ở khổ cực của dân phu Việt Nam, cảnh đối xử
tàn nhẫn của các ông chủ người Pháp… Trong các chi tiết tường thuật và miêu tả
đều biểu hiện tình cảm và sự đánh giá đúng đắn của tác giả về cầu Long Biên.
Mục đích của thực dân Pháp là xây dựng cơ sở hạ tầng cho tốt đế tiến hành triệt để
việc khai thác thuộc địa. Nhưng khi dựng xong cầu Long Biên, với cách nghĩ và
cách cảm của người dân Việt Nam, chiếc cầu được coi là của Việt Nam vì nó được
làm trên đất Việt Nam, bằng mồ hôi và máu của hàng nghìn người dân Việt Nam.
Cầu Long Biên đã trở thành niềm tự hào của người dân Thủ đô:
Hà Nội có cầu Long Biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng.
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi…
Tình cảm của tác giả đối với cầu Long Biên bộc lộ trong bài và thật rõ ràng, tha
thiết:
Những năm tháng hòa bình trước đây, cầu Long Biên từng được đưa vào sách giáo
khoa. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh chiếc cầu được vẽ trang trọng giữa trang sách
với bài thơ đã được bao thế hệ học thuộc tặng. Dù chưa đến lớp nhưng nghe các
anh các chị đọc, những câu thơ ấy đã nằm sâu trong trí óc tôi…
Cây cầu Long Biên đã cùng vui buồn, sống chết với nhân dân Thủ đô và nhân dân
cả nước trong những tháng năm mưa bom bão đạn. Giờ đây, được thanh thản ngắm
trời thu xanh biếc, tác giả vẫn bồi hồi, đau xót khi nhớ lại cảnh cầu Long Biên bao
lần bị quân thù bắn phá, tưởng chừng như không thể nào đứng vững.
Và cứ mỗi lần ngẩng lên nhìn bầu trời Hà Nội trong xanh, lòng tôi lại nhớ những
năm tháng chống đế quốc Mĩ oanh liệt và oai hùng. Chiếc cầu thân thương ngày ấy
trở thành mục tiêu ném bom dữ dội nhất của không lực Hoa Kì. Trong đợt đánh
phá miền Bắc lần thứ nhất, cầu bị đánh mười lần, hỏng bảy nhịp và bốn trụ lớn.
Đợt thứ hai, cầu bị bắn phá bốn lần với 1000m bị hỏng và hai trụ lớn bị cắt đứt.
Những ngày ấy từ phía Cầu Đất nhìn lên, tôi thấy chiếc cầu rách nát giữa trời.
Những nhịp cầu tả tơi như ứa máu nhưng cả cây cầu vẫn sừng sững giữa mênh
mông trời nước. Chúng ta hàn. Bom Mĩ lại cắt đứt. Lần cuối cùng vào năm 1972,
chiếc cầu bị không quân Mĩ ném bom la-de. Tôi chạy lên cầu ngay khi tiếng bom
vừa dứt. Những cảnh vệ đầu cầu đã ngăn không cho tôi lên. Nước mắt ứa ra, tôi
tưởng như mình đứt từng khúc ruột.
Vào thời gian ấy, thiên tai đồng hành với địch họa:
Rồi những ngày nước lên cao, gần mấp mé thân cầu. Đứng trên cầu, nhìn dòng
sông Hồng đỏ rực nước cuồn cuộn chảy với sức mạnh không gì ngăn nổi, nhấn
chìm bao màu xanh thân thương, bao làng mạc trù phú đôi bờ, tôi cảm nhận thấy
chiếc cầu như chiếc vòng đung đưa nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc.
Dường như có một phép lạ nào đó, cây cầu Long Biên vẫn tồn tại lẫm liệt đường
hoàng. Ngày ngày, vẫn đưa đón dòng người ngược xuôi muôn ngả.
Cầu Long Biên được nhân hóa, mang hồn người và được coi là chứng nhân lịch sử.
Phép nhân hóa đó đã đem lại sự sống cho sự vật vô tri vô giác. Cầu Long Biên đã
trở thành người cùng thời với bao thế hệ, ngày ngày chứng kiến và xúc động trước
những thăng trầm, đổi thay to lớn của Thủ đô, của đất nước và dân tộc.
Giọng điệu trữ tình được nâng cao, mở rộng ở phần cuối của bài văn: Bây giờ cầu
Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường. Ngang sông Hồng đã có cầu Thăng Long,
cầu Chương Dương sừng sững. Rồi sẽ còn có những chiếc cầu khác hiện đại hơn
nữa vượt sông Hồng. Nhưng tôi vẫn thường đưa những đoàn khách du lịch nước
ngoài đến thăm cầu Long Biên. Họ trầm ngâm nện từng bước chân xuống mặt cầu.
Họ đứng ỏ nhiều góc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu lịch sử. Còn tôi, cố gắng truyền
tình yêu cây cầu của mình vào trái tim họ, đặng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du
khách để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam.
Lịch sử và hình ảnh quen thuộc, thân thương của cầu Long Biên không chỉ làm
cho bao thế hệ người Việt Nam xúc động mà còn làm cho khách du lịch nước
ngoài trầm ngâm suy nghĩ. Giữa ta và họ ít nhiều vẫn còn khoảng cách nhưng
chính cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng đã
góp phần rút ngắn khoảng cách ấy. Từ một chiếc cầu bằng sắt nối đôi bờ sông
Hồng, tác giả đã gợi cho ta nghĩ đến một “nhịp cầu vô hình” nối những trái tim
nhân loại.