BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP TUY HÒA
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
*************
BÀI GIẢNG
HỌC PHẦN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN (1)
(DÀNH CHO SINH VIÊN CAO ĐẲNG KHỐI KHÔNG
CHUYÊN NGÀNH MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH)
( LƯU HÀNH NỘI BỘ )
PHÚ YÊN, NĂM 2014
Chương mở đầu
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
A. MỤC TIÊU:
Sau khi học bài này, sinh viên phải trình bày được:
-Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận cấu thành của nó; sự ra đời và phát triển của Chủ nghĩa Mác-
Lênin.
-Đối tượng, mục đích và yêu cầu về phương pháp học tập, nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin”.
-Có thái độ nghiêm túc và phương pháp học tập hiệu quả đối với môn học này.
B. NỘI DUNG:
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận cấu thành
Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác, Ph.Ăngghen
xây dựng, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển; được hình thành và phát triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn
và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại; là thế giới quan, phương pháp luận chung nhất của
nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải
phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
Như vậy, nội dung của chủ nghĩa Mác-Lênin bao quát các lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn với
nhiều giá trị khoa học và thực tiễn không chỉ với lịch sử trên 150 năm qua mà với thế giới đương đại
nó vẫn còn nguyên những giá trị bất hủ. Chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú về
nhiều lĩnh vực, nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất có mối quan hệ mật thiết với nhau,
đó là:
Triết học Mác-Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những qui luật vận động, phát triển chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, kinh tế học chính trị Mác-Lênin nghiên
cứu những qui luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những qui luật kinh tế của quá trình ra đời, phát
triển, tất yếu suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương
thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất yếu của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận
triết học và kinh tế chính trị Mác-Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những qui luật khách quan
của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, mặc dù ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ
thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất – đó là khoa học về sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến
tới giải phóng loài người.
Ngày nay, có nhiều học thuyết với lý tưởng nhân đạo về giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân
lao động, giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới là
học thuyết khoa học nhất, chắc chắn nhất và chân chính nhất để thực hiện lý tưởng ấy.
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin
Quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm hai giai đoạn lớn là giai đoạn
hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác và giai đoạn bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa
Mác-Lênin.
a. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
- Điều kiện kinh tế - xã hội.
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của cuộc cách mạng công
2
nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng công nghiệp
không những đánh dấu bước chuyển hóa từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình
thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất mang tính
tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và hàng loạt cuộc đấu
tranh của công nhân chống lại chủ tư bản; tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của công nhân ngành dệt
thành phố Liôn (Pháp) năm 1831, 1834; Phong trào Hiến chương Anh (1835-1848), khởi nghĩa của công
nhân dệt ở Silêdi (Đức) năm 1844 Đó là những bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở
thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và
tiến bộ xã hội.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý
luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời chính thực tiễn
cách mạng cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ
nghĩa Mác.
- Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực
tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế học chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở
các nước Pháp và Anh.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và Phơbach đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự
hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Công lao lớn của Hêghen là trong khi phê phán phương pháp siêu hình, lần đầu tiên trong lịch sử
tư duy của nhân loại, ông đã diễn đạt được nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ
thông qua một hệ thống các qui luật, phạm trù. Trên cơ sở phê phán tính chất duy tâm thần bí trong
triết học Hêghen, Mác và Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của Hêghen,
xây dựng thành công phép biện chứng duy vật.
Với Phoiơbach, Mác và Ăngghen đã phê phán nhiều hạn chế cả về phương pháp, cả về quan điểm,
đặc biệt những quan điểm liên quan đến việc giải quyết các vấn đề xã hội; song, hai ông cũng đánh
giá cao vai trò tư tưởng của Phoiơbach trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng
định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn tại vĩnh viễn, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Chủ
nghĩa duy vật, vô thần của Phoiơbach đã tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển biến của C. Mác và
Ph. Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật.
Kinh tế học chính trị cổ điển Anh với những đại biểu lớn của nó là A.Xmit và Đ.Ricácđô đã góp
phần tích cực vào quá trình hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
A.Xmit và Đ.Ricácđô là những người mở đầu lý luận về giá trị của lao động trong việc nghiên
cứu kinh tế học chính trị. Các ông đã đưa ra những kết luận quan trọng về giá trị và nguồn gốc của lợi
nhuận, về tính chất quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất vật chất, về những qui luật kinh tế.
Song, do những hạn chế về phương pháp nghiên cứu nên các nhà kinh tế học chính trị cổ điển Anh đã
không thấy được tính lịch sử của giá trị; không thấy được mâu thuẫn của hàng hóa và sản xuất hàng
hóa; không thấy được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa cũng như không phân biệt được sản
xuất hàng hóa giản đơn với sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa; chưa phân tích được chính xác những
biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ của các
nhà kinh tế học chính trị cổ điển Anh, C.Mác đã giải quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế
học chính trị cổ điển Anh đã không thể vượt qua được để xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư,
luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế dẫn đến sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cũng như sự ra đời tất nhiên của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã có một quá trình phát triển lâu dài và đạt đến đỉnh cao vào cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng tiêu biểu là Xanh Ximông, S. Phuriê, R. Ôoen.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư
bản trên cơ sở vạch trần cảnh khốn cùng cả về vật chất lẫn tinh thần của người lao động trong nền sản
3
xuất tư bản chủ nghĩa và đã đưa ra nhiều quan điểm sâu sắc về quá trình phát triển của lịch sử cũng
như dự đoán về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai. Song, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã
không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản và cũng không nhận thức
được vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội bình đẳng, không có bóc lột.
Tinh thần nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng về
lịch sử, về đặc trưng của xã hội tương lai đã trở thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng cho
sự ra đời của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Mác.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những tiền đề kinh tế-xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa học tự nhiên cũng
là những tiền đề, luận cứ và những minh chứng khẳng định tính đúng đắn về thế giới quan và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác; trong đó, trước hết là qui luật bảo toàn và biến hóa năng lượng, thuyết
tiến hóa và thuyết tế bào.
Qui luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh khoa học về sự không tách rời nhau,
sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất trong giới tự nhiên.
Thuyết tiến hóa của Đácuyn (Charles Robert Darwin, 1809 – 1882) đã đem lại cơ sở khoa học về sự
phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật,
động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên. Thuyết tế bào đã xác định được sự thống nhất về mặt
nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và giải thích quá trình phát triển
trong mối liên hệ của chúng.
Qui luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa và thuyết tế bào là những thành tựu
khoa học đã bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần học về vai trò của “Đấng Sáng Thế”; khẳng
định tính đúng đắn quan điểm duy vật biện chứng về thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, tự tồn tại, tự
vận động, tự chuyển hóa; khẳng định tính khoa học của quan điểm duy vật biện chứng trong nhận
thức và thực tiễn.
Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp qui luật; nó vừa là sản phẩm của tình
hình kinh tế-xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh vực khoa học, vừa là kết
quả của năng lực tư duy sáng tạo và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó.
b. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác
K.Marx (Karl Marx, 1818-1883)
K.Marx sinh ở Trier (Đức), học Đại học ở Bonn, Berlin.
Ông có bằng tiến sĩ triết học. Năm 1842 viết báo và trở
thành chủ bút tờ Rheinische Zeitung. Năm 1843, tờ báo bị
đóng cửa và Marx bị trục xuất. Ông sang Paris (Pháp),
Brussels (Bỉ) và cư trú lâu dài ở Luân Đôn (Anh). Năm
1844. K.Marx và F.Engels gặp nhau và trở thành đôi bạn
thân thiết, cùng cộng tác với nhau suốt cuộc đời làm khoa
học và hoạt động cách mạng. K.Marx sáng lập ra Chủ
nghĩa xã hội khoa học và là lãnh tụ của giai cấp vô sản
quốc tế.
Những tác phẩm chủ yếu của K.Marx và F.Engels: Phê phán triết học pháp quyền Hegel (1843);
Bản thảo kinh tế - triết học 1844; Hệ tư tưởng Đức (1844); Gia đình thần thánh (1845 - 1846); Tuyên ngôn
Đảng cộng sản (1848); Phê phán Kinh tế học chính trị (1859); Nội chiến ở Pháp (1871); Phê phán cương
lĩnh Gotha (1875); Tư bản (xuất bản thành 3 quyển trong những năm 1867- 1895) .
F.Engels (Friedrich Engels, 1820-1895)
4
F.Engels sinh ở Barmen (nay là Wuppertal –
Đức). Bố của ông là một nhà doanh nghiệp
lớn ở Đức lúc bấy giờ. Tuy nhiên, F.Engels
lại say mê nghiên cứu khoa học và triết học
và cùng với K.Marx hoạt động trong phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân và trở
thành một trong những lãnh tụ của giai cấp
vô sản quốc tế. Người cùng K.Marx sáng lập
ra Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ngoài những tác phẩm viết chung với K.Marx, F.Engels còn viết: Tình cảnh giai cấp công nhân Anh,
(1844); Chống Duhring, (1878); Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước, (1884); Biện
chứng của tự nhiên, (1872-1882); L.Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ đển Đức, (1886-1888);
Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, (1892)….
Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác do Mác và Ăngghen thực hiện diễn ra từ năm
1842-1843 đến những năm 1847-1848; sau đó, từ năm 1849 đến 1895 là quá trình phát triển sâu sắc
hơn, hoàn thiện hơn. Trong giai đoạn này, cùng với các hoạt động thực tiễn, Mác và Ăngghen đã
nghiên cứu tư tưởng của nhân loại trên nhiều lĩnh vực từ cổ đại cho đến xã hội đương thời để từng
bước củng cố, bổ sung và hoàn thiện quan điểm của mình.
Những tác phẩm như Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844 (1844), Gia đình thần thánh (1845),
Luận cương về Feuerbach (1845), Hệ tư tưởng Đức (1845-1846 ),… đã thể hiện rõ nét việc Mác và
Ăngghen kế thừa tinh hoa quan điểm duy vật và phép biện chứng của các bậc tiền bối để xây dựng thế
giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.
Đến tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (1847) và Tuyên ngôn của đảng cộng sản (1848) chủ
nghĩa Mác đã được trình bày như một chỉnh thể các quan điểm nền tảng với ba bộ phậnlý luận cấu
thành. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, Mác đã đề xuất những nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học và bước đầu thể hiện tư tưởng về giá trị thặng dư.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là văn kiện có tính cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác. Trong tác
phẩm này, cơ sở triết học được thể hiện sắc sảo trong sự thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế
và các quan điểm chính trị-xã hội. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là tác phẩm bước đầu đã chỉ ra
những qui luật vận động của lịch sử, thể hiện tư tưởng cơ bản về lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Theo tư tưởng đó, sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội; phương
thức sản xuất vật chất quyết định quá trình sinh hoạt, đời sống chính trị và đời sống tinh thần của xã
hội. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng cho thấy từ khi có giai cấp thì lịch sử phát triển của xã hội
là lịch sử dấu tranh giai cấp; trong đấu tranh giai cấp, giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng mình
nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể nhân loại. Với những quan điểm cơ bản này, Mác và
Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu toàn diện phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra rằng: việc tách những người sản xuất nhỏ khỏi tư liệu sản xuất bằng
bạo lực là khởi điểm của sự xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Người lao động không
còn tư liệu sản xuất để tự mình thực hiện các hoạt động lao động, cho nên, muốn lao động để có thu
nhập, người lao động buộc phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Sức lao động đã trở thành
một loại hàng hóa đặc biệt, người bán nó trở thành công nhân làm thuê cho nhà tư bản. Giá trị do lao
động của công nhân làm thuê tạo ra lớn hơn giá trị sức lao động của họ, hình thành nên giá trị thặng
dư, nhưng nó lại không thuộc về người công nhân mà thuộc về người nắm giữ tư liệu sản xuất - thuộc
về nhà tư bản.
Như vậy, bằng việc tìm ra nguồn gốc của việc hình thành giá trị thặng dư, C. Mác đã chỉ ra bản
chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, cho dù bản chất này đã bị che đậy bởi quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Lý luận về giá trị thặng dư được nghiên cứu và trình bày toàn diện trong bộ Tư bản. Tác phẩm
này không chỉ mở đường cho sự hình thành hệ thống lý luận kinh tế chính trị mới trên lập trường giai
5
cấp vô sản mà còn củng cố, phát triển quan điểm duy vật lịch sử một cách vững chắc thông qua lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội. Lý luận này đã trình bày hệ thống các qui luật vận động và phát
triển của xã hội, cho thấy sự vận động và phát triển ấy là một quá trình lịch sử - tự nhiên thông qua sự
tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã làm cho chủ nghĩa duy vật về lịch sử không còn là
một giả thuyết, mà là một nguyên lý đã được chứng minh một cách khoa học.
Bộ Tư bản của C. Mác cũng là tác phẩm chủ yếu và cơ bản trình bày về chủ nghĩa xã hội khoa
học thông qua việc làm sáng tỏ qui luật hình thành, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư
bản; sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
với tư cách là lực lượng xã hội thực hiện sự thay thế đó.
Tư tưởng duy vật về lịch sử, về cách mạng vô sản tiếp tục được phát triển trong tác phẩm Phê
phán cương lĩnh Gôta (1875). Trong tác phẩm này, những vấn đề về nhà nước chuyên chính vô sản,
về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, những giai đoạn trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa cộng sản,… đã được đề cập đến với tư cách là cơ sở khoa học cho lý luận cách mạng của
giai cấp vô sản trong các hoạt động hướng đến tương lai.
c. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Marx được V.I. Lênin phát triển và vận dụng trong cách mạng vô sản nên được gọi là Chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Vladimir Ilich Lenin (1870-1924) sinh ở Simbirsk (Nga).
Lênin là người vận dụng và phát triển chủ nghĩa Marx nói
chung và triết học Marx nói riêng.
Lênin phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng; lý luận
nhận thức; lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp; lý luận về
nhà nước và cách mạng vô sản, về chuyên chính vô sản, về
đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Lênin bảo vệ và phát triển CN Marx trong thời đại ĐQCN,
người sáng lập ra Đảng CS Liên Xô và Nhà nước Xôviết, lãnh
tụ của giai cấp vô sản Nga và giai cấp vô sản quốc tế
- Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác
Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang một giai đoạn
mới là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc
lộ rõ nét; mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày càng sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giai cấp
giưa tư sản và vô sản. Tại các nước thuộc địa, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc tạo nên sự
thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa nhân dân các nước thuộc
địa với giai cấp công nhân ở chính quốc. Trung tâm của các cuộc đấu tranh cách mạng này là nước
Nga. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của đảng Bônsêvich đã trở thành
ngọn cờ đầu của cách mạng thế giới.
Trong thời kỳ này, cùng sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa là sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học, do bấp bênh về phương pháp luận
triết học duy vật nên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới quan. Sự khủng hoảng này bị chủ
nghĩa duy tâm lợi dụng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động của các phong trào cách
mạng.
Đây cũng là thời kỳ chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga. Để bảo vệ địa vị và lợi
ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực
dụng, chủ nghĩa xét lại…đã mang danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa
Mác.
Trong bối cảnh như vậy, thực tiễn mới đặt ra nhu cầu phải phân tích, khái quát những thành tựu
mới của sự phát triển khoa học tự nhiên nhằm tiếp tục phát triển thế giới quan và phương pháp luận
khoa học của CN Mác; phải thực hiện cuộc đấu tranh lý luận để chống sự xuyên tạc và tiếp tục phát
triển CN Mác trong điều kiện lịch sử mới. Hoạt động của Lênin đã đáp ứng được nhu cầu lịch sử này.
6
- Vai trò của Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
Quá trình Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia thành ba thời kỳ, tương ứng với
ba nhu cầu cơ bản khác nhau của thực tiễn, đó là: thời kỳ từ 1893 đến 1907; thời kỳ từ 1907 đến 1917;
thời kỳ từ sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917) đến khi Lênin từ trần (1924).
Những năm 1893 - 1907 là thời kỳ Lênin tập trung chống phái dân túy. Tác phẩm “Những người
bạn dân là thế nào? và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?” (1894) của Lênin
vừa phê phán tính chất duy tâm và những sai lầm nghiêm trọng của phái này khi nhận thức những vấn
đề về lịch sử - xã hội, vừa vạch ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách xóa nhòa
ranh giới giữa phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm của Hégel.
Trong tác phẩm này, Lênin cũng đưa ra nhiều tư tưởng về tầm quan trọng của lý luận, của thực tiễn và
mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Cũng trong thời kỳ này, với tác phẩm Làm gì?(1902) Lênin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành chính quyền. Lênin đã đề
cập nhiều đến đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng; đặc biệt, ông nhấn mạnh đến
quá trình hình thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
Cuộc cách mạng Nga 1905 - 1907 thất bại. Thực tiễn cuộc cách mạng này được Lênin tổng kết
trong tác phẩm kinh điển mẫu mực Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân
chủ (1905). Ở đây, chủ nghĩa Mác đã được phát triẻn sâu sắc những vấn đề về phương pháp cách
mạng, nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, vai trò của quần chúng nhân dân, vai trò của các đảng
chính trị…trong cách mạng tư sản giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Những năm 1907 - 1917 là thời kỳ trong nghiên cứu vật lý học đã diễn ra cuộc khủng hoảng về
thế giới quan. Điều này tác động không nhỏ đến việc xuất hiện nhiều tư tưởng duy tâm theo quan
điểm của chủ nghĩa Makhơ và phủ nhận chủ nghĩa Mác. V.I. Lênin đã tổng kết toàn bộ thành tựu khoa
học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; tổng kết những sự kiện lịch sử giai đoạn này để viết tác
phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909). Bằng việc đưa ra định nghĩa kinh
điển về vật chất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những
nguyên tắc cơ bản của nhận thức…Lênin đã bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.
Việc bảo vệ và phát triển này còn thể hiện rõ nét ở tư tưởng của Lênin về nguồn gốc lịch sử, bản chất
và kết cấu của chủ nghĩa Mác trong tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác
(1913), về Phép biện chứng trong Bút ký triết học (1914 – 1916), về nhà nước chuyên chính vô sản,
bạo lực cách mạng, vai trò của Đảng cộng sản và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác
phẩm Nhà nước và cách mạng (1917)…
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế. Sự kiện này làm nảy sinh những nhu cầu
mới về lý luận mà thời Mác-Ăngghen chưa được đặt ra. Lênin đã tổng kết thực tiễn cách mạng của
quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ phép biện chứng của CN Mác, đấu tranh không khoan nhượng
với chủ nghĩa chiết trung và thuyết ngụy biện, đồng thời phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về
nhân tố quyết định thắng lợi của một chế độ xã hội, về giai cấp, về hai nhiệm vụ cơ bản của giai cấp
vô sản, về chiến lược và sách lược của các Đảng vô sản trong điều kiện lịch sử mới, về thời kỳ quá độ,
về kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chính sách kinh tế mới (NEP),…qua một loạt các tác
phẩm nổi tiếng như: Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản (1920), Lại bàn về công
đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốttxki và Bukharin (1921), Về
chính sách kinh tế mới (1921), Bàn về thuế lương thực (1921)…
Với những cống hiến to lớn ở cả ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác, tên tuổi của Lênin
đã gắn liền với chủ nghĩa Mác, đánh dấu bước phát triển toàn diện của chủ nghĩa Mác thành chủ
nghĩa Mác-Lênin.
d. Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
Chủ nghĩa Mác ra đời đã ảnh hưởng lớn lao đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc
cách mạng tháng Ba năm 1871 ở Pháp có thể coi là sự kiểm nghiệm vĩ đại đối với tư tưởng của chủ
nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một nhà nước kiểu mới – nhà nước chuyên chính vô
sản (Công xã Paris) được thành lập.
7
Tháng Tám năm 1903, chính đảng vô sản đầu tiên của giai cấp vô sản được xây dựng theo tư
tưởng của chủ nghĩa Mác - Đảng Bônsêvich Nga. Đó là một Đảng mácxít chân chính đã lãnh đạo cuộc
cách mạng 1905 ở nước Nga.
Tháng Mười năm 1917, cuộc cách mạng XHCN của giai cấp vô sản thắng lợi ở nước Nga, đã mở ra
một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại, chứng minh tính hiện thực của CN Mác-Lênin trong lịch sử.
Năm 1919 Quốc tế cộng sản được thành lập; năm 1922, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Xôviết ra đời đánh dấu sự liên minh giai cấp vô sản trong nhiều quốc gia. Với sức mạnh của liên
minh, công cuộc chống Phátxít trong chiến tranh thế giới thứ hai không chỉ bảo vệ được thành quả
cách mạng của giai cấp vô sản, mà còn đưa chủ nghĩa xã hội phát triển ra ngoài biên giới Liên Xô,
hình thành nên cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu, với các thành viên như:
Mông Cổ, Ba Lan, Rumani, Hunggari, Việt Nam, Tiệp khắc, Nam Tư, Anbani, Bungari, Cộng hòa
DCND Triều Tiên, CHDC Đức, Trung Quốc, CuBa. Sự kiện này đã làm cho chủ nghĩa tư bản không
còn là hệ thống duy nhất mà song song tồn tại là hệ thống chính trị xã hội đối lập với nó cả về bản
chất và mục đích hành động.
Những sự kiện lịch sử vĩ đại nói trên đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động toàn thế giới; thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng
của nhân dân các nước thuộc địa. Vai trò định hướng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đem lại những
thành quả lớn lao cho sự nghiệp vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Song, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ cuối những năm 80 của thế kỷ thứ XX,
hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào giai đoạn thoái trào. Nhưng ngay cả khi hệ thống
xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào giai đoạn thoái trào thì tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn
tại trên phạm vi quốc tế; quyết tâm xây dựng thành công CNXH vẫn được khẳng định ở nhiều quốc
gia và chiều hướng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn lan rộng ở các nước khu vực Mỹ Latinh.
Đặc điểm của thời đại ngày nay là sự biến đổi nhanh chóng và đa dạng các mặt của đời sống xã
hội do cách mạng khoa học và công nghệ đem lại. Thế nhưng, cho dù xã hội biến đổi nhanh chóng và
đa dạng đến đâu thì bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn không thay đổi. Chính vì
vậy, để bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội do trí tuệ, mồ hôi, xương máu của nhiều thế hệ mới tạo
dựng được; để có những bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp giải phóng con người thì việc bảo
vệ, kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin và đổi mới công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trở
thành vấn đề cấp bách trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Hiện tại chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng
về bản chất vẫn là một chế độ áp bức bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân TBCN, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc…. Đặc điểm
nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác
nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo qui luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: việc
khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận. Những thành tựu mà dân
tộc Việt Nam đã đạt được trong chiến tranh giữ gìn độc lập, trong hòa bình, xây dựng và trong sự
nghiệp đổi mới đều bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, phải “Vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do
cuộc sống đặt ra”; “phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN
CỨU MÔN HỌC NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Đối tượng và mục đích của việc học tập, nghiên cứu
8
* Đối tượng của việc học tập, nghiên cứu môn học này là những quan điểm cơ bản, mang tính
chân lý bền vững của CN Mác-Lênin trong ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành nó.
-Trong phạm vi lý luận triết học Mác-Lênin, đó là những quan điểm cơ bản về thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất, bao gồm những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng với
tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học; phép biện chứng duy vật với tư cách là khoa
học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, về những qui luật chung nhất của sự vận động, phát triển
của tự nhiên, xã hội, tư duy; chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách là sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng vào việc nghiên cứu các lĩnh vực của đời sống xã hội.
-Trong phạm vi lý luận kinh tế học chính trị Mác-Lênin, đó là những quan điểm cơ bản trong học
thuyết giá trị (giá trị lao động); học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền
và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước; khái quát những qui luật kinh tế cơ bản của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa từ giai đoạn hình thành đến giai đoạn phát triển cao và tất yếu suy tàn của nó;
đồng thời làm phát sinh phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất CSCN.
-Trong phạm vi lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, đó là những quan điểm cơ bản về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân và tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; những vấn đề có tính quy luật của quá
trình hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và định hướng cho hoạt động
của giai cấp công nhân trong tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
* Mục đích của việc học tập, nghiên cứu môn học là: nắm vững những quan điểm khoa học, cách
mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin; hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối cách mạng của Đảng CS Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng; trên cơ sở đó xây
dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và lý
tưởng cách mạng; vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, trong rèn luyện và tu
dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích trên, quá trình học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin cần thực hiện được một số yêu cầu cơ bản sau đây:
- Những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin được thể hiện trong những bối cảnh khác nhau,
nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể khác nhau nên hình thức thể hiện tư tưởng cũng khác nhau;
chính vì vậy, học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu
đúng tinh thần, thực chất của nó; chống xu hướng kinh viện, giáo điều.
- Sự hình thành, phát triển những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là một quá trình. Trong quá
trình ấy, những luận diểm của chủ nghĩa Mác-Lênin có liên quan mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau; vì vậy, học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin phải đặt chúng trong
mối liên hệ với các luận điểm khác, ở các bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất trong tính đa
dạng và nhất quán của mỗi tư tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung.
- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin để hiểu rõ cơ sở lý luận
quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền
tảng tư tưởng của Đảng; vì vậy, phải gắn những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn
cách mạng Việt Nam và thực tiễn thời đại để thấy sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin mà chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.
- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin để đáp ứng những yêu
cầu của con người Việt Nam trong giai đoạn mới; vì vậy, quá trình học tập, nghiên cứu đồng thời
cũng là quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để từng bước hoàn thiện mình trong đời
sống cá nhân cũng như trong đời sống cộng đồng xã hội.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là hệ thống lý luận khép kín nhất thành bất biến, mà trái lại đó
là một hệ thống lý luận không ngừng phát triển trên cơ sở phát triển của thực tiễn thời đại; vì vậy, quá
trình học tập, nghiên cứu đồng thời cũng phải là quá trình tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần
phát triển tính khoa học và tính nhân văn vốn có của nó; mặt khác việc học tập, nghiên cứu các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng cần phải đặt nó trong lịch sử phát triển tư tưởng
9
nhân loại bởi nó là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của lịch sử đó trong những điều kiện lịch
sử mới.
Những yêu cầu trên thống nhất hữu cơ với nhau, giúp cho quá trình học tập, nghiên cứu không chỉ
kế thừa được tinh hoa của chủ nghĩa Mác-Lênin mà quan trọng hơn, nó còn giúp cho người học tập,
nghiên cứu vận dụng được tinh hoa ấy trong các hoạt động nhận thức và thực tiễn./
Phần thứ nhất
THẾ GIỚI QUAN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN
TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan đóng vai trò định hướng
cho toàn bộ cuộc sống của con người, từ thực tiễn đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như tự nhận
thức bản thân để từ đó xác định lý tưởng, hệ giá trị, lối sống, nếp sống của mình. Như vậy thế giới
quan đúng đắn và khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế
giới quan là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự trưởng thành của mỗi các nhân cũng như
của mỗi cộng đồng xã hội.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyyên tắc chỉ đạo
của con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.
Phương pháp luận có nhiều cấp độ; trong đó, phương pháp luận triết học là phương pháp luận chung
nhất.
Thế giới quan và phương pháp luận triết học là lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin; là sự
kế thừa và phát triển những tinh hoa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử tư tưởng của
nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật trong chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hạt
nhân lý luận của thế giới quan khoa học; là chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách là hệ thống các quan
điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, động lực và những qui luật chung nhất chi phối sự vận động,
phát triển xã hội loài người.
Phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng duy vật với tư cách là “học thuyết
về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện”, học thuyết về tính
tương đối của nhận thức – “cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức luận”.
Nắm vững những nội dung cơ bản về thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa
Mác-Lênin vừa là điều kiện tiên quyết để nghiên cứu toàn bộ hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, vừa là điều kiện tiên quyết để vận dụng nó một cách sáng tạo trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề mà đời sống xã hội của đất nước, của thời đại đang đặt ra.
Chương 1: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
A. MỤC TIÊU:
Sau khi học bài này, sinh viên có khả năng:
- Trình bày được sự khác nhau giữa CNDV và CNDT trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học.
- Phân tích được quan điểm CNDVBC về vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
- Đánh giá đúng đắn, biện chứng về vai trò của vật chất và ý thức trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn.
B. NỘI DUNG:
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1.Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học
10
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, triết học có đối tượng nghiên cứu khác nhau; song tổng kết
toàn bộ lịch sử triết học, đặc biệt là triết học Cổ điển Đức, Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”; giữa ý thức
và vật chất, giữa tinh thần với giới tự nhiên.
Vấn đề cơ bản của triết học được phân tích trên hai mặt. Thứ nhất, giữa ý thức và vật chất: cái
nào có trước, cái nào có sau? cái nào quyết định cái nào? Thứ hai, con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không?
Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm, cũng là cơ sở phân chia
các trường phái triết học lớn trong lịch sử: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; khả tri luận và
bất khả tri luận. ( Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận. Về thực chất, chủ nghĩa
nhị nguyên có cùng bản chất với chủ nghĩa duy tâm, còn hoài nghi luận thuộc về bất khả tri luận; mặt
khác, bất khả tri luận thường có mối liên hệ mật thiết với chủ nghĩa duy tâm, còn khả tri luận thường
gắn với chủ nghĩa duy vật).
- Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế giới là vật
chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước quyết định ý thức.
- Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất thế giới là ý
thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là: sự xem xét phiến diện,
tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức và thường gắn với
lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và
tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát
triển.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy
tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, họ cho rằng mọi
sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp những cảm giác” của cá nhân.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh
thần ý thức ấy là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên,
với con người và thể hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau như: “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”
hay “lý tính thế giới”…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc
từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học. Chính qua thực tiễn và khái quát hóa tri thức của nhân loại
trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa duy vật đã thể hiện là hệ thống tri thức lý luận chung nhất gán với lợi
ích của các lực lượng xã hội tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn.
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng – hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học, chủ nghĩa duy vật đã
trải qua ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của CNDV. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất
của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một hoặc một
số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới. Những lý
giải đó được thể hiện trong nhiều học thuyết duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.
Nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại mang nặng tính trực quan nên những kết luận của họ về
thế giới còn ngây thơ, chất phác.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản
thân vật chất của giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, nó không viện đến thần linh hay một
đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới.
11
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện tiêu biểu
trong lịch sử triết học Tây Âu, thế kỷ XVII-XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển đạt được những
thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật cổ đại, chủ nghĩa
duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ
học cổ điển. Đặc điểm lớn nhất của CNDV thời kỳ này là phương pháp tư duy siêu hình trong việc
nhận thức về thế giới. Đây là phương pháp nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà
mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng,
giảm đơn thuần về số lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây ra.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, nhưng chủ nghĩa
duy vật siêu hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất
là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh
hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương
thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa
duy vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới trình độ là
hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện
thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung
cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của CNDV biện chứng được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách
khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC
VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
a. Phạm trù vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm. Ngay từ thời cổ
đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong khi chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là
một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy; thì chủ nghĩa duy
vật quan niệm: bản chất của thế giới; thực thể của thế giới là vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên
mọi sự vật, hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Các nhà triết học duy vật trước Mác quan niệm: vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên,
được coi là những chất “giới hạn tột cùng” đóng vai trò là cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế giới. Từ thời
cổ đại, trong thuyết Ngũ hành của triết học Trung Quốc đã cho rằng những chất tự có, đầu tiên ấy là:
kim - mộc - thủy - hỏa - thổ; ở Ấn Độ phái Sàmkhya lại quan niệm đấy là: là Pràkriti hay Pradhana; ở
Hy Lạp, phái Milet quan niệm là: nước (Talét), không khí (Anaximen), lửa (Hêraclit), còn Đêmôcrit
thì khẳng định đó là nguyên tử…Cho đến thế kỷ XVII, XVIII quan niệm về vật chất của các nhà triết
học thời cận đại Tây Âu như Ph.Bêcơn, R.Đêcactơ, T.Hôpxơ, Đ.Điđơrô…vẫn không có những thay
đổi căn bản. Họ tiếp tục đi theo khuynh hướng hiểu về vật chất như các nhà triết học duy vật thời cổ
đại và đi sâu tìm hiểu cấu trúc vật chất của giới tự nhiên trong sự biểu hiện cảm tính cụ thể của nó.
Hạn chế của quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác là đã đồng nhất vật
chất với vật thể, không hiểu bản chất của ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất;
không tìm được cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng không
có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề về xã hội Những hạn chế đó tất
yếu dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để: khi giải quyết những vấn đề về giới tự nhiên, các nhà
duy vật đứng trên quan điểm duy vật, nhưng khi giải quyết những vấn đề về xã hội họ đã “trượt” sang
quan điểm duy tâm.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những phát minh
của W. Roentgen (Đức), H. Becquerel (Pháp), J.J. Thomson (Anh), Kaufman (Mỹ)…đã bác bỏ quan
12
điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột cùng”, từ đó dẫn tới cuộc khủng
hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã
lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới; khẳng định vai trò của các lực
lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử đó, để chống sự xuyên tạc của các nhà triết học duy tâm, bảo vệ và phát
triển thế giới quan duy vật, V.I.Lênin đã tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, đồng thời kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen để đưa ra định nghĩa kinh điển
về vật chất:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”.
* Nội dung định nghĩa:
- Cần phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm “vật chất” được sử dụng
trong các khoa học chuyên ngành. Vật chất là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát, trừu
tượng hóa thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung,
vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả các sự vật, hiện tượng là những dạng biểu hiện
cụ thể của thế giới vật chất, nên nó có quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Vì vậy, không thể
qui vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất giống như
quan niệm của các nhà triết học trước C.Mác.
- Thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất được khái quát trong phạm trù vật
chất của CNDVBC là thuộc tính tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
- Vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với
vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
* Ý nghĩa của định nghĩa:
- Giải quyết một cách đúng đắn hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất là thuộc tính tồn tại
khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa vật chất với tư cách là phạm trù triết học và
vật chất là khái niệm trong các khoa học chuyên ngành (vật thể); từ đó khắc phục được hạn chế trong
quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định
những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc
phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về xã hội của CNDV trước C. Mác.
- Khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, “được đem lại cho con người trong cảm giác”
và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh”, Lênin không những đã khẳng định tính
thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con
người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con
người đối với thực tại khách quan; từ đó định hướng và cổ vũ khả năng nhận thức của con người, tiếp
tục đi sâu vào khám phá những điều bí ẩn, những thuộc tính mới của thế giới vật chất.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất;
không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức
tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan điểm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không
gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể
của vật chất biểu hiện sự tồn tại của nó; vận động của vật chất là tự thân vận động. Sự tồn tại của vật
chất luôn gắn liền với vận động; vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
13
Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành 5 hình
thức cơ bản: vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); vận động vật lý
(vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh);
vận động hóa học (là sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải), vận
động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen; sự trao đổi chất, đồng hóa, dị hóa,
sự tăng trưởng, sinh sản, tiến hóa); và vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa của đời sống xã hội).
Ví dụ: Trong con người có vận động cơ học như: đi lại, nhịp tim đập; vận động vật lý như: mắt
người có vận động quang học; vận động hoá học như: các men tiêu hoá, sự cần có iốt; vận động sinh học
như: đồng hoá-dị hoá; vận động xã hội như: quan hệ giữa người với người trong sản xuất, các quan hệ xã
hội khác.
Chú ý: Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng
với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại
biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở
các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn
tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng
được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất;
chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều này không
có nghĩa CNDV biện chứng phủ nhận sự đứng im; CNDV biện chứng cho rằng đứng im là trạng thái
đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng và đứng im là hiện tượng tương đối, tạm
thời.
Vận động trong thế cân bằng là vận động chưa là thay đổi cơ bản về vị trí, hình dáng, kết cấu
của sự vật, chưa làm thay đổi cơ bản chất của sự vật.
Đứng im là hiện tượng tương đối vì đứng im chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ
không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; Ví dụ: xe ô tô đứng im trong mối quan hệ với nhà xe, còn so với
mặt trời, mặt trăng và các vì sao… thì nó vận động theo sự vận động của quả đất; đứng im, cân bằng chỉ
xảy ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Ví dụ:
Ta nói xe ô tô đứng im là nói vận động cơ học, nhưng ngay lúc đó những hình thức vận động khác như vật
lý, hoá học…đang diễn ra ngay trong bản thân nó.
Đứng im là hiện tượng tạm thời vì nó chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định chứ không tồn
tại vĩnh viễn.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính nhất định
(chiều dài, rộng, cao) và tồn tại trong các mối tương quan nhất định với những dạng vật chất khác
(trước-sau, trên-dưới, phải-trái). Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác,
sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,…
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài
thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”. Như vậy, vật chất, không gian, thời
gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có
không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian, thời gian có
những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô
tận và vô hạn.
Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều. Tính ba chiều của
không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn biến
của vật chất vận động.
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng biểu hiện của thế giới
vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau.
14
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất
ở tính vật chất của nó. Quan điểm đó được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người. (Ngoài thế giới vật chất ra, không có thế giới nào khác).
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra, không bị mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ
chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật
chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những qui luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
2. Ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm DVBC, ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: hai yếu tố cơ bản nhất là bộ óc con người và mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan tạo ra hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.
+Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là
chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Và ngược lại, đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người không
bình thường do bị tổn thương bộ óc.
+Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng
động, sáng tạo: thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác
động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá
trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng
Phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức (Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến
hóa của các dạng vật chất tự nhiên):
Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật
lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của
vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Tương
ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích
thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách
thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc…khi nhận sự tác
động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực
cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều
kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện trên cơ
sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh, nó
chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh
năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi
thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động
lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự
phản ánh sáng tạo năng động này được gọi là ý thức.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức: Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức, nhưng
trong đó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là hai nhân tố lao động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Lao động làm thay đổi cấu trúc cơ thể con người, làm cho
thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những qui luật vận động,… của nó, biểu
hiện thành những hiện tượng mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua
15
hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ óc con người, làm
hình thành và phát triển những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có
ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình
lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm
ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ
giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ nàyqua thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ
yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của
con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh có tính chất năng động, sáng tạo của bộ óc con người về thế giới khách
quan; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động
tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông
tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát
hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn
được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại, trong đời sống
tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, qui luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri
thức trong các hoạt động của con người. Ví dụ: Con người có thể xây được nhà do xử lý thông tin qua
sự phản ánh của cách xây tổ của con ong; con người có thể làm được máy bay qua việc xử lý thông tin
sự phản ánh của con chim biết bay.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh về thế giới khách
quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó
không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con
người. Ví dụ: Hai người cùng nhìn một bông hồng: người này cho rằng bông hồng đó đẹp còn người
kia thì cho rằng bông hồng đó không đẹp….
Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó”.
+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn
liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các qui luật sinh học mà chủ yếu là của
các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội qui
định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
- Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí.
+ Tri thức (yếu tố quan trọng nhất của ý thức) là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết
quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các
loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý
thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý
thức phát triển.
Căn cứ vào lĩnh vực phản ánh, tri thức có thể chia thành nhiều loại như: tri thức về tự nhiên, tri
thức về con người và xã hội. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành:
tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và
tri thức lý tính,…
16
+ Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm là
một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ
thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi
lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự
tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô
sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó mà tình cảm
được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau, như: tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn
giáo,…
+ Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện
của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý thức được mục đích của hành động nên tự đấu tranh
với mình và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là quyền lực của
con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một
cách tự giác; nó cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động
theo quan điểm và niềm tin của mình.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua
hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó, vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn
gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con
người thì mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết
quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới
khách quan, lao động và ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan),
hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao động và ngôn ngữ),
nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung
của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của
ý thức bị các qui luật sinh học, các qui luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con
người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện
thực con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động vật chất của con người
đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất
mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy, con người xác định mục
tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương
tiện…để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có
nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các qui luật khách quan, con người có
năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện những mục đích của mình, thế giới
được cải tạo.
17
+ Tiêu cực: Nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất
qui luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các qui luật
khách quan; hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách
quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành
động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu
quả hay không hiệu quả. Ví dụ: Sinh viên khi nhận thức được vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển quê hương, đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH. Mỗi sinh viên sẽ có những
hành động đúng đóng góp cho quê hương, đất nước thông qua hoạt động tình nguyện, mùa hè xanh; đem
kiến thức đã học về các vùng sâu, vùng xa giúp đỡ bà con xây cầu, làm đường, khám chữa bệnh cho bà
con
4. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan của
vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, mà căn bản là tôn trọng qui luật, nhận
thức và hành động theo qui luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải
xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế
hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật
chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
+ Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý
thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo
ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập; nghiên cứu để làm
chủ tri thức khoa học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần
chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành,
củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa
tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và
thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy
ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược,… Đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa
kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động… trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn./
Chương 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và phương
pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin; là “khoa học về mối liên hệ phổ biến” và cũng là “khoa
học về những qui luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và
của tư duy”. Theo quan niệm của C.Mác, cũng như của Hêghen thì phép biện chứng bao gồm cái mà
ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức luận. Với tư cách đó, phép biện chứng duy
vật cũng chính là lý luận và phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
A. MỤC TIÊU:
Sau khi học bài này, sinh viên có khả năng:
- Trình bày được phép biện chứng và phép biện chứng duy vật.
- Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của hai nguyên lý cơ bản, ba quy luật cơ bản và
sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Phân tích lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
18
- Từ ý nghĩa phương pháp luận đã học, vận dụng để rút ra những bài học có ích cho bản thân trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn.
B. NỘI DUNG:
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng.
Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác,
chuyển hóa và vận động, phát triển theo qui luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, trong đó biện chứng
khách quan là biện chứng của thế giới vật chất; còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng
khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống
các nguyên lý, qui luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận
thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó
cũng đối lập với phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng
thái cô lập và bất biến.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại,
phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật trong chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại : Đây là hình thức đầu tiên của PBC trong lịch sử triết
học, là một nội dung cơ bản trong các hệ thống triết học TQ, Ấn Độ, Hy Lạp.
Tư tưởng biện chứng của triết học TQ thời cổ đại là “biến dịch luận”và “ngũ hành luận”của Âm
dương gia.
Tư tưởng biện chứng của triết học Ấn Độ thời cổ đại là triết học Phật giáo với các phạm trù “vô
ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”.
Thời cổ đại Hy Lạp, một số nhà triết học duy tâm (Platon) coi PBC là nghệ thuật tranh luận để tìm
ra chân lý. Arixtôt đồng nhất PBC với lôgíc học.
Một số nhà triết học duy vật có tư tưởng biện chứng về sự vật (biện chứng khách quan). Hêraclít coi sự
biến đổi của thế giới như một dòng chảy. Ông nói: “Mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều biến đổi”. “Không ai có
thể tắm được hai lần trong cùng một dòng sông”.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen.
Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng
duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học Hêghen biểu hiện ở chỗ ông coi biện
chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đôí”, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và trở
về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen,
đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, qui luật chung, có logic chặt chẽ của ý
thức, tinh thần.
Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của Mác: “tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc
phải trong tay Hégel tuyệt nhiên không ngăn cản Hégel trở thành người đầu tiên trình bày một cách
bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hégel, phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của
nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.
- Mác và Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là
giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh thần
phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức.
2. Phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ăngghen cho rằng: “Phép biện chứng…là
môn khoa học về những qui luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài người và của tư duy”
19
Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ăngghen đã định nghĩa: “Phép
biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”; trong khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát
triển, Lênin đã khẳng định: “Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng,
tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học
thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát
triển không ngừng”…
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Xét từ góc độ kết cấu nội dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có hai đặc
trưng cơ bản sau đây:
- Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền
tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
- Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế
giới quan và phương pháp luận biện chứng duy vật, do đó, nó không dừng lại ở sự giải thich thế giới
mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Với tư cách đó, phép biện chứng duy vật
chính là công cụ vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt
quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tạo nên tính
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp
luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới; Thí dụ: Mối
liên hệ giữa điện tích dương và điện tích âm trong một nguyên tử; giữa sinh vật với môi trường; giữa xã
hội với các quốc gia, dân tộc; giữa các mặt, các bộ phận của đời sống xã hội; giữa tư duy với tồn tại
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng
của thế giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa:
các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng…
b. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các
mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ.
Các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Ví dụ: Sự tác
động của thời tiết, môi trường đến đời sống con người là khách quan không phụ thuộc vào con người.
Theo quan điểm đó, sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của
các sự vật, hiện tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không
phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó
trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ.
Không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là
một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức
là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với
hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Ví dụ: Sự quan sát thông thường cũng đã cho thấy có mối liên hệ diễn ra giữa các sự vật hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội.
+ Trong giới tự nhiên vô cơ: Nước chảy đá mòn; Nhiệt độ tăng lên dẫn đến trái đất nóng lên…
+ Trong giới tự nhiên hữu cơ: Liên hệ giữa cơ thể sống với môi trường; liên hệ giữa các loài động,
thực vật.
20
+ Trong xã hội: Có các mối liên hệ giữa người với người - các tập đoàn, các giai cấp, tầng lớp
khác nhau liên hệ với nhau và liên hệ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn
hóa, XH, tư tưởng…
+ Trong tư duy con người có sự liên hệ ảnh hưởng giữa tư tưởng người này với tư tưởng người
khác, liên hệ giữa các hình thái ý thức xã hội, liên hệ giữa những khái niệm, phán đoán, suy lý…
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay
quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự
tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những
điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Ví dụ: Một cá nhân, con người có nhiều mối quan hệ: quan hệ với gia đình, quan hệ với bạn bè,
quan hệ với địa phương, nơi cư trú…
Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau
đối với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Ví dụ: Khi chúng ta nhịn đói - tay chân
bủn rủn - chóng mặt, xay xẩm - kiệt sức - ngất xỉu.
Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ
yếu và thứ yếu…
Quan điểm về tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể
hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi
hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể. Ví dụ: Quan hệ
giữa nước ta với các nước trên thế giới
+ Trước đổi mới (từ năm 1985 trở về trước) nước ta chỉ thiết lập quan hệ với các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa.
+ Trong thời kỳ đổi mới ( từ năm 1986 đến nay) nước ta mở cửa, hội nhập sẵn sàng hợp tác với tất
cả các nước trên thế giới.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự
vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự
vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn
diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
Ví dụ: Để đánh giá đúng một con người phải xem xét một cách toàn diện: lập trường quan điểm;
thái độ, hành vi (thông qua các mối quan hệ với mọi người, với gia đình và công việc); trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ; hiệu quả công tác…
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm
lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt
động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải
giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ
thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc
xử lý các vấn đề thực tiễn.
Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm
phiến diện siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
2. Nguyên lý về sự phát triển
a. Khái niệm phát triển
21
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng giảm thuần túy về lượng, không có sự
thay đổi về chất của sự vật; là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức
tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá
trình vận động theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như
vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm vận động nói chung; đó không phải là sự
biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà
là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là
quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự
vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
b. Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong sự
vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức
con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai
đoạn của sự vật, hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời
của cái mới, phù hợp với qui luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá
trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự
vật sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự
tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ
thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự
vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác…Đó đều là
những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và
cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát
triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự
phát triển.
Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là một
quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhận
thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó trong nhiều giai
đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh
hướng phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con nguời để thúc đẩy
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng qui luật.
III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối
liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật như “vật chất”, “ý thức”, vận động”…là những khái
niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất
không phải chỉ của một lĩnh vực nhất định nào đấy của hiện thực, mà của toàn bộ thế giới hiện thực,
bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có
quá trình vận động, biến đổi, đều có mâu thuẫn, có nội dung và hình thức, nghĩa là đều có những mặt,
22
những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Do vậy, giữa phạm trù của các khoa học cụ thể và phạm trù của phép biện chứng có mối quan hệ biện
chứng với nhau; đó là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng khái quát
những mối liên hệ phổ biến nhất bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, và tư duy vào các cặp phạm
trù cơ bản.
1. Cái riêng và cái chung
a. Phạm trù cái riêng, cái chung
- Cái riêng: Phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
- Cái chung: Phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ,
…tồn tại và lặp lại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
- Cái đơn nhất: Phạm trù dùng để chỉ những đặc tính, những tính chất,…chỉ tồn tại ở một sự
vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ: Thủ đô là “cái
chung”; thủ đô Hà Nội là 1 “cái riêng”, ngoài những đặc điểm chung giống những thủ đô khác, Hà Nội
còn có những nét riêng như phố cổ, có hồ Gươm, hồ Tây chỉ có ở Hà Nội mới có đó chính là cái đơn nhất.
b. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
- Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, trong đó cái chung chỉ tồn tại
trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình; cái chung không tồn tại biệt lập,
tách rời cái riêng mà nó phải tồn tại trong từng cái riêng cụ thể, xác định. Ví dụ: Không có cái cây nói
chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào… cây nào
cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng hóa, dị hóa để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp
lại ở những cái cây riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm “cái cây”. Đó là cái chung của những cái
cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái
riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt
đối tách rời cái chung, mà tất yếu nó phải tồn tại trong mối liên hệ với cái chung.
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ
với xã hội và tự nhiên. Không có cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy
luật xã hội. Đó là cái chung của mỗi con người.
Nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc điểm phong phú của nó là một cái
riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi bởi quy luật cung - cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất, đó là cái chung.
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất; còn
cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính qui luật của nhiều cái riêng.
Ví dụ: Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế giới là
có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn…còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của
văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên cùa đất nước, nên rất cần cù
lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.
Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện xác định. Ví dụ:
Sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi trường diễn ra bằng cách ban đầu
xuất hiện một đặc tính của một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn
duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến ở nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện
mới, sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng cụ thể trong các hoạt động của con
người; không nhận thức cái chung thì trong thực tiễn giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể
sẽ vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải xuất phát từ
những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tượng ngoài những cái riêng.
23
Mặt khác, cần phải được cá biệt hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc
phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc, hoặc cục bộ, địa phương trong vận dụng mỗi cái chung để
giải quyết mỗi trường hợp cụ thể.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cũng cần phải biết tận dụng các điều kiện cho sự
chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và
cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện cụ thể.
2. Nguyên nhân và kết quả
a. Phạm trù nguyên nhân, kết quả
- Nguyên nhân: Phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau thì gây nên một biến đổi nhất định.
- Kết quả: Phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa các mặt, các yếu
tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng tạo nên.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất
với kết quả. Điều kiện là những yếu tố bên ngoài tác động tới hình thành kết quả. Ví dụ: Chất xúc tác
chỉ là điều kiện để các chất hóa học tác động lẫn nhau tạo nên phản ứng hóa học.
b. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
-Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, tất yếu: Không có
nguyên nhân nào không dẫn đến kết quả nhất định và ngược lại không có kết quả nào không có
nguyên nhân. Nguyên nhân là cái có trước kết quả, còn kết quả là cái xuất hiện sau nguyên nhân.
- Một nguyên nhân có thể sinh ra một hay nhiều kết quả, và một kết quả có thể do một hoặc
nhiều nguyên nhân tạo nên. Ví dụ: - Chặt phá rừng có thể gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt, hạn hán, thay
đổi khí hậu của cả một vùng… Mất mùa có thể do hạn hán, có thể do lũ lụt, có thể do sâu bệnh, có thể do
chăm bón không đúng kỹ thuật….Mặt khác nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể
sinh ra những kết quả khác nhau.
Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì xu hướng hình thành kết quả nhanh hơn, còn nếu
tác động ngược chiều thì sẽ hạn chế hoặc triệt tiêu sự hình thành kết quả. Ví dụ: Trình độ dân trí thấp
do nguyên nhân kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục. Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố ảnh hưởng
cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy, kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược
lại trình độ dân trí cao lại tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế và giáo dục.
Phân loại nguyên nhân: do tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả,
nên có nhiều loại nguyên nhân.
Vị trí mối quan hệ nhân quả có tính tương đối. Cho nên, trong mối quan hệ này thì nó đóng vai
trò là nguyên nhân, trong mối quan hệ khác lại là kết quả. Trong sự vận động của thế giới vật chất
không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện
tượng dẫn đến kết quả trong thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới đó.
Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên
nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và
thực tiễn.
Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân, nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong
phân tích, giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân - quả.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
a. Phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên
- Tất nhiên: Phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của sự vật, hiện
tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, chứ không thể khác.
- Ngẫu nhiên: Phạm trù dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của
nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, cho nên, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất
hiện như thế này hoặc như thế khác.
24
Như vậy, cả tất yếu và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân. Nguyên nhân cơ bản, bên trong gắn
với tất yếu, còn nguyên nhân bên ngoài gắn với ngẫu nhiên.
b. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự phát
triển của sự vật và hiện tượng, trong đó, tất yếu đóng vai trò quyết định. Ví dụ: Cá tính của lãnh tụ của
một phong trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết định đến xu hướng phát triển của phong trào, nhưng lại
có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hoặc chậm, mức độ sâu sắc của phong trào đạt được
như thế nào.
Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập. Vì vậy, không có cái tất yếu
thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Cái tất yếu bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số
cái ngẫu nhiên; còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất yếu, là cái bổ sung cho tất yếu. Ăngghen
cho rằng: “cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần túy cấu
thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu”
Ranh giới giữa cái tất yếu và ngẫu nhiên có tính chất tương đối. Trong những điều kiện nhất
định, chúng chuyển hóa lẫn nhau, tất nhiên trở thành ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở thành tất nhiên
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải căn
cứ vào cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên khỏi
cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên, và khi dựa vào cái tất nhiên
phải chú ý đến cái ngẫu nhiên.
Tất yếu và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Vì vậy, cần tạo ra những điều kiện nhất
định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.
4. Nội dung và hình thức
a. Phạm trù nội dung, hình thức
- Nội dung: Phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật, hiện tượng.
- Hình thức: Phạm trù dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó,
là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Ví dụ: Nội dung của 1 tác phẩm văn học “truyện kiều” đó là toàn bộ những sự kiện của cuộc sống
hiện thực mà tác phẩm phản ánh, …còn hình thức bên trong của tác phẩm đó là thể loại, những phương
pháp thể hiện được tác giả sử dụng trong tác phẩm như phương pháp kết cấu bố cục, nghệ thuật xây dựng
hình tương…Hình thức bên ngoài của tác phẩm như màu sắc trình bày, khổ sách, kiểu chữ
b. Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, vì vậy không có một
hình thức nào không chứa dựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn tại trong
một hình thức nhất định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức, và cùng một hình
thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết
định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh
hướng biến đổi còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng. Nội dung thay
đổi bắt buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào cũng có
sự phù hợp tuyệt đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy
nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai
mặt đó.
Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải căn cứ vào
nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.
25