Chương mở đầu
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành
a. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của
K.Marx, F.Engels và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá
trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con
người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học.
b. Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực,
nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Triết học Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng đều là thế
giới quan và nhân sinh quan của con người; khi xã hội có giai cấp thì thế giới quan và
nhân sinh quan mang tính giai cấp. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan, nhân sinh
quan của giai cấp công nhân hiện đại, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong
thởi đại ngày nay.
- Kinh tế chính trị học Mác-Lênin là khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu
của nó là mặt xã hội của sản xuất, tức là quan hệ sản xuất hay là quan hệ kinh tế giữa
người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật
chất. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản
xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt khác,
quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc thượng
tầng, nhất là các quan hệ về chính trị, pháp lý có tác động trở lại mạnh mẽ với quan
hệ sản xuất. Vậy, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất trong
sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: Những quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội
của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Như vậy, ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin đều có đối tượng
nghiên riêng nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học lý luận thống nhất – đó là
khoa học về giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc
lột, tiến tới giải phóng con người.
2. Khái lược quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
a. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Marx
- Điều kiện kinh tế-xã hội:
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 1
Chủ nghĩa Marx ra đời trong những năm 40 của thế kỷ XIX. Trong thời gian
này, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ở nhiều nước châu Âu, mâu
thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ ra một cách gay gắt.
Đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của nền sản xuất với tính chất tư bản chủ
nghĩa của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất và về sản phẩm xã hội. Mâu thuẫn này biểu
hiện thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiều cuộc đấu tranh
của công nhân nổ ra ở Pháp, Đức, Anh.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đề ra nhu cầu phải có lý luận cách
mạng thật sự khoa học để giải thích đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, vai trò
lịch sử của giai cấp vô sản, triển vọng của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và
tương lai của xã hội loài người nói chung. Chủ nghĩa Marx ra đời gắn liền với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản và trở thành vũ khí lý luận của cuộc đấu tranh đó.
Mặt khác, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cho phép
khái quát nhiều nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử: về vai trò của sản
xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, vai trò của cơ sở hạ
tầng đối với kiến trúc thượng tầng, vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử, vai trò
của quần chúng nhân dân trong sự phát triển lịch sử; trên cơ sở đó, Marx đưa ra những
dự kiến khoa học về khả năng xóa bỏ giai cấp, khả năng tiến tới một xã hội tốt đẹp
trong tương lai.
- Tiền đề lý luận: Chủ nghĩa Marx có 3 nguồn gốc lý luận: Triết học cổ điển đức, Kinh
tế học chính trị Anh và Chủ nghĩa xã hội Pháp, Anh, trong đó Triết học cổ điển Đức là
tiền đề lý luận trực tiếp.
K.Marx và F.Engels kế thừa hạt nhân hợp lý trong Phép biện chứng của Hegel là
lý luận về sự phát triển, loại bỏ cái vỏ duy tâm của nó, đưa nó về với quan điểm duy
vật về tự nhiên và lịch sử. Đồng thời K.Marx kế thừa chủ nghĩa duy vật và tư tưởng vô
thần của Feuerbach, khắc phục những chế siêu hình của nó. Trên cơ sở đó, K.Marx
sáng lập nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.
Sự ra đời của chủ nghĩa Marx là một tất yếu lịch sử. Những điều kiện lịch sử đã
chín muồi cho phép các nhà khoa học đi đến những kết luận duy vật biện chứng về thế
giới nói chung và về xã hội loài người nói riêng. Chủ nghĩa Marx không thể ra đời sớm
hơn khi chưa có đủ những tiền đề vật chất và tư tưởng cần thiết. Mặt khác, nó cũng
không thể không ra đời được. Sự thật cho thấy rằng trong thời điểm này, đã có một số
nhà tư tưởng khác cũng đi đến những kết luận duy vật lịch sử một cách độc lập với
K.Marx và F.Engels.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx là kết quả của sự tổng kết những thành
tựu tư tưởng của nhân loại, được chứng minh và phát triển dựa trên những kết luận mới
nhất của khoa học tự nhiên, trong đó có 3 phát minh quan trọng nhất:
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. (Năng lượng không tự sinh
ra mà cũng không tự mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác mà thôi).
Đây là cơ sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và vận động của vật chất không thể
do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang
dạng khác, hình thức này sang hình thức khác mà thôi.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 2
- Thuyết tiến hóa của Darwin. Darwin đã kế thừa những thành tựu của Lamax
để viết nên tác phẩm Nguồn gốc các loài vào năm 1859. Học thuyết tiến hóa của ông
đã luận chứng về quá trình đấu tranh sinh tồn của muôn loài, qua sự chọn lọc tự nhiên,
dần dần sản sinh ra những giống loài mới. Từ đó ông đưa ra lý luận về sự tiến hoá của
sinh vật mà hạt nhân là sự chọn lọc tự nhiên, vén bức màn bí ẩn về sự tiên hoá của các
loài trong tự nhiên. Lý luận tiến hoá sinh vật đã áp dụng quan điểm lịch sử vào lĩnh vực
sinh vật học. Nó luận chứng về quá trình lịc sử của giới hữu cơ, chứng minh rằng, thực
vật, động vật, bao gồm cả loài người đều là sản phẩm phát triển của lịch sử.
- Học thuyết tế bào: Học thuyết tế bào do GS. M.Slaiđen (trường Đại học Gana,
ở Đức) xây dựng năm 1838. Ông cho rằng, tế bào là đơn vị sống cơ bản nhất trong kết
cấu của mọi thực vật. Qúa trình phát dục của thực vật là quá trình hình thành và phát
triển của tế bào. Sau đó, vào năm 1839 GS. T.Svannơ (GS phẫu thuật người của trường
Đại học Ruăng ở Đức) đã mở rộng học thuyết tế bào từ giới thực vật sang giới động
vật, khiến loài người nhận thức được rằng, tế bào là đơn nguyên kết cấu chung của mọi
cơ thể sinh vật. Những phát hiện nêu trên đã vạch ra quá trình biện chứng của sự vận
động, phát triển, chuyển hoá không ngừng của bản thân giới sinh vật.
b. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Marx
K.Marx (Karl Marx, 1818-1883)
K.Marx sinh ở Trier (Đức), học Đại học ở Bonn,
Berlin. Ông có bằng tiến sĩ triết học. Năm 1842 viết
báo và trở thành chủ bút tờ Rheinische Zeitung. Năm
1843, tờ báo bị đóng cửa và Marx bị trục xuất. Ông
sang Paris (Pháp), Brussels (Bỉ) và cư trú lâu dài ở
Luân Đôn (Anh). Năm 1844. K.Marx và F.Engels
gặp nhau và trở thành đôi bạn thân thiết, cùng cộng
tác với nhau suốt cuộc đời làm khoa học và hoạt động
cách mạng.
Những tác phẩm chủ yếu của K.Marx và F.Engels: Phê phán triết học pháp
quyền Hegel (1843); Bản thảo kinh tế - triết học 1844; Hệ tư tưởng Đức (1844); Gia
đình thần thánh (1845 - 1846); Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848); Phê phán Kinh tế
học chính trị (1859); Nội chiến ở Pháp (1871); Phê phán cương lĩnh Gotha (1875); Tư
bản (xuất bản thành 3 quyển trong những năm 1867- 1895) .
F.Engels (Friedrich Engels, 1820-1895)
F.Engels sinh ở Barmen (nay là Wuppertal). Bố
của ông là một nhà doanh nghiệp lớn ở Đức lúc
bấy giờ. Tuy nhiên, F.Engels lại say mê nghiên cứu
khoa học và triết học và cùng với Marx hoạt động
trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân
và trở thành một trong những lãnh tụ của giai cấp
vô sản thế giới.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 3
Ngoài những tác phẩm viết chung với Marx, F.Engels còn viết: Tình cảnh giai cấp
công nhân Anh, (1844); Chống Duhring, (1878); Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư
nhân và nhà nước, (1884); Biện chứng của tự nhiên, (1872-1882); L.Feuerbach và sự
cáo chung của triết học cổ đển Đức, (1886-1888); Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng đến khoa học, (1892)….
* Giai đoạn hình thành chủ nghĩa Marx
- Thời gian từ 1842 về trước: K.Marx và F.Engels là những thanh niên đầy nhiệt
tình và lòng nhân đạo, say mê nghiên cứu triết học, nhưng chưa thoát khỏi lập trường
triết học duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng.
- Thời kỳ hình thành triết học Marx diễn ra từ 1842 đến 1848.
+ Bước chuyển từ lập trường duy tâm và dân chủ cách mạng sang lập trường
duy vật và chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ khi Marx làm việc ở báo Sông Ranh từ
tháng 5-1842.
+ Năm 1843, sau khi báo Sông Ranh bị đóng cửa, Marx bắt tay viết tác phẩm
Phê phán triết học pháp quyền Hegel.
+ Từ 1844, K.Marx và F.Engels cộng tác với nhau từng bước xây dựng triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
+ Năm 1844, Marx viết tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học 1844, nói lên vai
trò của lao động sản xuất vật chất trong việc sáng tạo ra bản thân con người và loài
người, vạch ra những biểu hiện và nguyên nhân của sự tha hóa của người công nhân
dưới chủ nghĩa tư bản.
+ Cũng trong năm 1844, F.Engels viết tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh.
+ Cuối năm 1844, K.Marx và F.Engels viết tác phẩm Gia đình thần thánh để
phê phán thế giới quan duy tâm của các đại biểu trong nhóm Hegel trẻ, qua đó trình
bày những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Năm 1845, Marx viết Luận cương về Feuerbach, vạch ra những hạn chế của
Feuerbach trong quan niệm về con người và làm rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
+ Năm 1845-1846, hai ông viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, tiếp tục phê phán
Hegel và chủ nghĩa duy tâm nói chung, phê phán những hạn chế của chủ nghĩa duy vật
trước Marx, đặc biệt là quan điểm duy tâm về lịch sử của Feuerbach. Đồng thời trong
tác phẩm này hai ông cũng trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật lịch sử và tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
+ Năm 1847, hai ông viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, phê phán tính
chất duy tâm, siêu hình trong quan niệm về các phạm trù kinh tế của P.Prudhon, phát
triển phương pháp biện chứng duy vật, những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
học, của kinh tế học chính trị.
+ Cuối 1847 đầu 1848 K.Marx và F.Engels viết tác phẩm Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản. Hai ông trình bày một cách hoàn chỉnh lý luận về giai cấp và đấu tranh giai
cấp, vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, cương lĩnh cách mạng của
giai cấp vô sản. Bằng luận cứ khoa học và xác đáng, Tuyên ngôn đã vạch ra tính tất
yếu của xã hội cộng sản, trong đó, khi sự đối kháng giai cấp bị xóa bỏ thì sự thù địch
giữa các dân tộc cũng không còn. “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và
đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 4
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (Toàn tập, t.4,
tr.628).
* Giai đoạn phát triển chủ nghĩa Marx
- Sau 1848 là thời kỳ K.Marx và F.Engels bổ sung và phát triển triết học của mình.
Trong thời kỳ này, K.Marx và F.Engels tham gia phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và
triết học của các ông trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản ở các nước lớn ở châu Âu và
châu Mỹ.
- Từ 1848 đến Công xã Paris năm 1871, K.Marx và F.Engels viết nhiều tác phẩm
để tổng kết phong trào đấu tranh giai cấp ở Pháp như tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở
Pháp (1848-1850), Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapac (1851-1852), Cách
mạng và phản cách mạng ở Đức (do F.Engels viết 1851-1852). Bộ Tư bản cũng được
Marx viết trong thời kỳ này.
- Từ 1871 trở đi, K.Marx và F.Engels có thêm kinh nghiệm của Công xã Pari.
Những tác phẩm hai ông viết trong thời kỳ này tiếp tục khái quát kinh nghiệm đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân, phát triển ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Marx
và làm phong phú thêm những nguyên lý của chủ nghĩa Marx. Marx tiếp tục viết tác
phẩm Tư bản, còn F.Engels viết các tác phẩm Chống Duhring (1876-1878), biện
chứng của tự nhiên (1873-1883). Sau khi Marx qua đời năm 1883, F.Engels hoàn thành
việc xuất bản bộ Tư bản của Marx, đồng thời tiếp tục lãnh đạo phong trào giai cấp
công nhân và viết một số tác phẩm như: Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và
nhà nước (1884), L.Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886).
c. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Marx
Triết học Marx được V.I.Lênin phát triển và vận dụng trong cách mạng vô sản
nên được gọi là triết học Mác-Lênin.
Vlađimir Ilich Lênin (1870-1924) sinh ở
Simbirsk. Lênin là người vận dụng và
phát triển chủ nghĩa Marx nói chung và
triết học Marx nói riêng.
Lênin phát triển chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng; lý luận nhận thức; lý
luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp; lý
luận về nhà nước và cách mạng vô sản,
về chuyên chính vô sản, về đảng kiểu
mới của giai cấp vô sản.
* Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Marx
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn
mới: chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc, là giai đoạn cao của chủ nghĩa tư
bản. Các nước tư bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc chiến tranh thế giới
1914-1918.
- Cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp.
- Sau khi F.Engels qua đời, các phần tử cơ hội trong Quốc tế II xuyên tạc chủ
nghĩa Marx. Tình hình đó đòi hỏi Lênin phải tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Marx.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 5
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý
học, có một loạt phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm siêu hình về vật chất và
vận động, gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Chủ nghĩa duy
tâm lợi dụng tình trạng khủng hoảng này để tấn công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật.
Lênin phải tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa duy vật.
* Vai trò của V.I Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Marx
trong điều kiện lịch sử mới
Trước năm 1907, Lênin lãnh đạo phong trào công nhân Nga, tiến hành đấu tranh
chống phái dân túy. Lênin viết các tác phẩm như: Những người bạn dân là thế nào và họ
đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao (1894); Nội dung kinh tế của chủ
nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn sách của ông Stơruvê về nội dung đó (1894);
Làm gì (1902); Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ
(1905).
Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908); Bút ký triết học (1914-1916); Ba bộ
phận cấu thành của chủ nghĩa Marx; tác phẩm K.Marx; Chủ nghĩa đế quốc, giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916); Nhà nước và cách mạng (1917). Trong
tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin phê phán chủ
nghĩa duy tâm chủ quan và phát triển chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận nhận thức duy
vật biện chứng. Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin tổng kết và phát triển phép biện
chứng duy vật.
Lênin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga
và lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra cho nhân loại một
thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới.
Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin nghiên cứu giải quyết các vấn đề của cách
mạng vô sản, xây dựng cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, vấn
đề xây dựng đảng và nhà nước. Những tác phẩm trong thời kỳ này là: Những nhiệm
vụ trước mắt của chính quyền Xô viết (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư
sản (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản (1820); Về Chính sách
kinh tế mới (1921); Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922). Đặc biệt,
trong chính sách kinh tế mới, Lênin nêu lên tư tưởng về nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
d. Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
- Cách mạng tháng Mười mở ra cho nhân loại thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới:
+ Sau cuộc cách mạng Tháng Mười thì chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành thực
tiễn, lịch sử phát triển của xã hội loài người xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới đối lập
với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 6
+ Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau
Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
+ Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào Cộng
sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hoà
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi thế giới.
+ Sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù
cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều quốc gia sau khi giành được độc lập dân tộc đã đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
- Sau khi Lênin qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản trên thế
giới tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng nó trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ nghĩa xã hội đã đem lại những thành tựu to lớn ở Liên Xô, đưa nước Nga
từ một nước tư bản lạc hậu thành một trong những nước có công nghiệp và khoa học
tiên tiến nhất thế giới. Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đã góp phần tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít, cổ vũ và ủng hộ phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên
toàn thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều dân tộc bị áp bức và lạc hậu trên thế
giới hướng về Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa như là ngọn cờ tiêu biểu cho độc
lập, dân chủ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước
đã mắc phải sai lầm trong việc nhanh chóng xóa bỏ kinh tế thị trường, xóa bỏ các thành
phần kinh tế tư nhân, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, duy trì quá lâu hệ thống
quan liêu bao cấp khi tình hình thế giới đã có những biến đổi lớn lao.
- Trong những năm đầu thập kỷ 80, chủ nghĩa xã hội bắt đầu lâm vào cuộc
khủng hoảng: sản xuất rơi vào tình trạng trì trệ, hiệu quả và tính tích cực xã hội giảm
sút. Do sai lầm trong cải tổ, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu không đồng nhất với sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Một số nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc,
Việt Nam thực hiện thành công công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội, chẳng những đã
có thể ra khỏi khủng hoảng, mà còn thực hiện tốt hơn những mục tiêu của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải là thất bại của
chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là sự thất bại của một mô
hình thực tiễn nhất định, tức mô hình Liên Xô của chủ nghĩa xã hội. Việc đổi mới
thành công chủ nghĩa xã hội ở một số nước đã mở ra cho nhân loại nhiều triển vọng
mới. Nhân loại chẳng những không từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà trái lại, tìm kiếm một
mô hình mới của chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mới.
- Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng ta phát động và lãnh đạo không có
nghĩa là từ bỏ mà là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên trì mục tiêu chủ
nghĩa xã hội; nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước ta và trên thế giới trong tình
hình hiện nay.
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP,
NGHIÊN CỨU NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 7
1. Đối tượng và mục đích của việc học tập, nghiên cứu
- Đối tượng học tập, nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin” là: “những quan điểm và học thuyết” của K.Marx, F.Engels và V.I Lênin trong
phạm vi những quan điểm, học thuyết cơ bản nhất thuộc ba bộ phận cơ bản cấu thành
chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Mục đích của việc học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin là để xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận dụng sáng
tạo những nguyên lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đồng thời hiểu rõ cơ
sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam; nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng niềm tin, rèn luyện
và tu dưỡng đạo đức nhằm đáp ứng được với tình hình mới.
2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu
- Thứ nhất, những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là lý luận
“chết cứng”, một chiều mà nó luôn luôn vận động và phát triển cùng với tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Do đó, khi học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh
kinh viện, giáo điều trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý cơ
bản đó trong thực tiễn.
- Thứ hai, sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin là một quá trình.
Trong quá trình ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin có mối quan hệ mật
thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau. Vì vậy, học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin chúng ta phải đặt trong mối quan hệ với các luận điểm khác, ở
các bộ phận cấu thành khác, có như vậy mới thấy được sự thống nhất trong tính đa
dạng và nhất quán của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Thứ ba, học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin để hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, phải gắn những luận điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và bối cảnh của thời đại, có như
vậy mới thấy được sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.
- Thứ tư, chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là một hệ thống khép kín, nhất thành
bất biến, trái lại, đây là một hệ thống lý luận không ngừng vận động và phát triển trên
cơ sở những thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời cũng là quá trình tổng kết, đúc
kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa học, tính cách mạng và nhân văn vốn
có của nó. Mặt khác, việc học tập, nghiên cứu các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin cũng cần phải đặt nó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân
loại, có như vậy chúng ta mới đảm bảo được tính khoa học và tính cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 8
PHẦN THỨ NHẤT
THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
Thế giới quanh ta là gì? Nó có bắt đầu và có kết thúc hay không? Sức mạn nào
chi phối sự tồn tại và biến đổi của thế giới?
Con người là gì? Nó được sinh ra từ đâu? Quan hệ giữa con người với thế giới
bên ngoài ra sao? Vì sao có người tốt kẻ xấu? Cuộc sống của con người có ý nghĩa gì?
Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì vị trí, vai trò của con
người đối với giới tự nhiên như thế nào? Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên thì khả năng nhận thức của con người với giới tự nhiên ra sao?
Những câu hỏi như trên được đặt ra với những mức độ khác nhau đối với con
người từ thời nguyên thuỷ cho đến ngày nay và mai sau.
Toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về vị trí và vai trò của con
người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con người hợp thành thế giới
quan của con người, cộng đồng người trong một tời đại nhất định.
Vậy thế giới quan là gì?
Thế giới quan là toàn bộ hệ thống những quan niệm chung nhất của con người
về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới nhằm giải đáp những vấn đề về mục
đích, ý nghĩa cuộc sống của con người.
Nhân sinh quan là gì?
Nhân sinh quan tức toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người và
loài người.
Bản thể luận là gì?
Bản thể luận theo tiếng Hy Lạp nó bắt nguồn từ từ “On” Ontos và “Logos”:
Khoa học; tồn tại. Đây là một danh từ của triết học chỉ khoa học về tồn tại.
Nhận thức luận là gì?
Nhận thức luận theo tiếng Hy Lạp là “Gnonis” và “Logos” : Tri thức, lời nói,
học thuyết. Hay còn gọi là lý luận về nhận thức. Học thuyết triết học về con người có
khả năng nhậnh thức được hiện thực, tìm ra chân lý; lý luận về những nguồn gốc của
nhận thức và về những hình thức của quá trình nhận thức.
Trong lịch sử nhân loại đã tồn tại 3 hình thức thế giới quan cơ bản là:
- Thế giới quan thần thoại. Đây là hình thức thế giới quan của người nguyên
thuỷ trong giai đoạn sơ khai của lịch sử và nó còn tồn tại lâu dài đến nhiều thế kỷ sau
đó. Đặc trưng của thế giới quan thần thoại, nó phản ánh những kết quả cảm nhận ban
đầu của con người về thế giới mà trong đó các yếu tố hiện thực và tưởng tượng, cái có
thật và cái hoang đường, tư duy và xúc cảm hoà quyện vào nhau.
- Thế giới quan tôn giáo: Đó là sự phản ánh hiện thực một cách hư ảo, đặc trưng
của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào sự tồn tại và sức mạnh của một đấng siêu
nhiên, của thần thánh. Tôn giáo tin vào lực lượng trên trời, vào đấng sáng thế.
Ôguytxtanh (350 – 430) đã nói, Chúa hoàn toàn làm chủ và định đoạt số phận
của con người và số phận của thế giới. Chúa ban phát cho con người nguồn sống. Vì
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 9
vậy, con người không thể kỳ vọng vào điều gì khác ngoài sự ân sảng của chúa. “Con
người chỉ là kẻ bộ hành trên trái đất, là cây nêu trước gió mạnh”.
- Thế giới quan triết học: (Như khái niệm trên)
+ Nguyên nhân của mưa là gì? Nó thuộc vấn đề của khí tượng học. Nhưng cái
gì là nguyên nhân và kết quả của mưa thì lại thuộc về vấn đề triết học.
+ Trái đất vận động như thế nào? Thuộc về vấn đề của vật lý địa cầu. Nhưng
trái đất vận động là do nó tự vận động hay là do cái hích bên ngoài, có hay không lực
thúc đẩy thì đây lại thuộc về vấn đề của triết học.
Quan niệm của người Trung Quốc hiện đại về Cuộc đời:
1 trung tâm: Sức khoẻ
2 một chút: Thoải mái một chút, Hồ đồ một chút
3 quên: Quên tuổi tác, quên bệnh tật, quên hận thù
4 có: Có bạn tri âm, có bạn đời, có nhà ở, có sổ tiết kiệm,
5 phải: Phải vận động, phải biết hoà nhã lịch sự, phải biết cười, phải biết kể
chuyện, phải biết mình là người bình thường.
Triết học là gì?
Triết học: Nguyên trong tiếng Hy Lạp Philosophie. Philos có nghĩa là “người
yếu quý” “người bạn” và sophie có nghĩa là “trí khôn”, “khôn khéo”, “khôn ngoan”.
Mấy nghĩa này không hoàn toàn khác nhau vì theo người Hy Lạp ngày xưa có
hiểu biết thời đại mới là không ngoan, nhờ đó mà có thể hành động khôn khéo, không
hiểu biết thì không thể thành công.
Khái niệm triết học thay đổi theo lịch sử Đông – Tây, nhưng thường có hai yếu
tố:
- Yếu tố nhận thức
Tri thức về vũ trụ và con người, giải thích bằng một hệ thống tư duy
- Yếu tố nhận định
Đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ, hành động.
“Triết học là một hệ thống quan điểm chung về thế giới (Tự nhiên, xã hội)
và vai trò của con người trong thế giới đó”.
“Triết học là một trong những hình thái ý thức xã họi; là hệ thống những quan
điểm, quan niệm chung nhất của con người về thế giới; về mối quan hệ giữa tồn tại và
nhận thức; về vị trí và vai trò của con người trong thế giới đó; về những quy luật
chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy”.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 10
Chương I
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học
Triết học với tư cách là thế giới quan bao gồm vấn đề của rất nhiều lĩnh vực (tự
nhiên, xã hội và tư duy nhân loại), rất nhiều phương diện (bản thể luận, nhận thức
luận, giá trị luận, nhân sinh quan, phương pháp luận), nhưng trong đó có một vấn đề
xuyên suốt các lĩnh vực và phương diện quyết định toàn bộ tính chất hệ thống triết học
và có tác dụng chi phối đối với việc giải quyết các vấn đề triết học, đó chính là vấn đề
cơ bản của triết học.
a. Nội dung và ý nghĩa của vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm “L.Feuerbach và sự cáo chung của Triết học cổ điểm
Đức” F.Engels đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” (Toàn tập, t21,tr.403).
Trong thế giới có vô vàn hiện tượng nhưng chung qui lại chúng ta chỉ phân làm
hai loại, một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là, những hiện tượng
tinh thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được
goi là “vấn đề cơ bản lớn nhất” hay “vấn đề tối cao” của triết học. Vì việc giải quyết
vấn đề này là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
+ Tự nhiên – tinh thần
+ Tồn tại – tư duy
+ Vật chất – ý thức
* Vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Bởi vì:
- Vật chất và ý thức là hai hiện tượng rộng lớn nhất của đời sống con người
- Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sơ để phân định lập
trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra
cái nào, cái nào quyết định cái nào? (Trong mối quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên thì vị trí và vai trò của con người đối với giới tự nhiên như thế nào?)
- Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng
nhận thức thế giới chung quanh hay không? (Trong mối quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên thì khả năng nhận thức của con người với giới tự nhiên ra sao?)
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 11
b. Sự đối lập giữa hai quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải quyết vấn đề
cơ bản của triết học
- Chủ nghĩa duy vật là trào lưu triết học cho rằng tồn tại (tự nhiên, vật chất) có
trước tư duy (tinh thần, ý thức), và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy vật có những hình thức lịch sử cơ bản: chủ nghĩa duy vật ở
phương Đông và Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII và chủ
nghĩa duy vật biện chứng do K.Marx và F.Engels sáng lập.
- Chủ nghĩa duy tâm là trào lưu triết học cho rằng tư duy, ý thức có trước vật
chất, sinh ra và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức: Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ
nghĩa duy tâm chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng có một lực lượng
siêu tự nhiên (ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, Trời, Thượng đế) có trước,
sinh ra và quyết định thế giới vật chất. Những đại biểu của trào lưu này là Platon,
G.V.Hegel, Thomas Aquinas (Tômát Đacanh), v.v Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho
rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà phụ thuộc
vào cảm giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này là George Berkeley (Beccơli),
David Hume (Đavít Hium).
2. Các hình thức phát triển của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy
vật đã được hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất
phác. chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
a. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật giai
đoạn này đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể, coi đó là thực thể đầu
tiên, là bản nguyên của vũ trụ.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 12
Mặt thứ nhất
CNDV
CNDT
Nhất nguyên monism – monos (duy nhất )
Nhị nguyên dualism – dualis (2 mặt)
Đa nguyên Pluralism – plulis (nhiều)
Mặt thứ hai
Khả tri
Bất khả tri
Nhận thức được thế giới
Không nhận thức được thế giới
Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại đã có nhiều
đóng góp cho lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại vì nó đã lấy bản thân giới tự
nhiên để giải thích giới tự nhiên, nó không viện đến thần linh hay một đấng sáng tạo
nào để giải thích thế giới.
b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình xuất hiện từ khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của cơ học vì vậy
nó đã ảnh hưởng lớn tới quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này. Chủ nghĩa duy
vật trong giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình,
máy móc của cơ học cổ điển. Họ nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới khổng lồ
mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì
đó chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về số lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây
nên.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do K.Marx và F.Engels xây dựng, sau đó được
V.I.Lênin và những người kế tục bảo vệ và phát triển. Kế thừa những tinh hoa trong lịch
sử triết học của nhân loại và vận dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời
K.Marx và F.Engels đã xây dựng nên những quan điểm, nguyên lý, quy luật cơ bản nhất
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan
trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp
công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
II. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
a. Phạm trù vật chất
Việc khám phá ra bản chất và cấu trúc tồn tại của thế giới xung quanh ta, mà trước
hết là thế giới của những vật hữu hình là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong lịch sử
nhận thức của nhân loại. Hầu hết các trường phái triết học đều bằng cách này hay cách
khác giải quyết vấn đề này. Và bởi vậy trong triết học phạm trù vật chất xuất hiện.
Phạm trù là gì? Phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh
vực hiện thực nhất định gọi là phạm trù.
* Khái quát quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Marx về vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan. Cho
rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự kết hợp” những cảm giác
của con người.
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật
chất:
+ Thales (Talét): nước
+ Anaximenus (Anaximen): Không khí
+ Heraclitus: Lửa
+ Anaximanđrơ cho rằng, thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định
được về mặt chất và vô tận về mặt lượng.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 13
+ Lơxíp và Democrite: Nguyên tử. Các ông coi đây phần tử cực kỳ nhỏ, cứng, truyệt
đối không thâm nhập được, không quan sát được và nói chung không cảm giác được, chỉ
có thể nhận biết nhờ tư duy. Democrite hình dung nguyên tử có nhiều loại, sự kết hợp
hoặc tách rời giữa chúng theo các trật tự khác nhau của không gian sẽ tạo nên toàn bộ thế
giới.
+ Triết học Ấn Độ: Đất, nước, lửa, gió
+ Thuyết Âm dương - Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và
khối lượng.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học như:
+ Năm 1895 W.Conrad Roentgen (1845 – 1923) phát hiện ra tia X, một loại
sóng điện từ có bước sóng từ 0,01 đến 100.10
-8
cm
+ Năm 1896 Antoine Henri Becquerel (1852-1908) phát minh ra hiện tượng phóng xạ
trong chất uranium và sau đó Marie Curie (1867-1934) tiếp tục phát triển. Với phát hiện này,
người ta hiểu ra rằng quan niệm về sự bất biến của nguyên tử là không chính xác.
+ Năm 1897 Sir Joseph Thomson (1856 – 1940) phát hiện ra điện tử và chứng
minh được rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ
phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh.
+ Năm 1901 Kaufman, nhà bác học người Đức đã chứng minh được khối lượng
của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà nó sẽ thay đổi theo tốc độ vận động của
điện tử.
+ Năm 1905 Albert Eisntein (1879-1955) đã phát minh ra thuyết tương đối hẹp
(E = mc
2
) là nền tảng cho sự phát triển năng lượng nguyên tử và là một trong những cơ
sở khoa học của các lý thuyết hiện đại về vũ trụ.
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong
vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật
lý: vật chất tiêu tan mất. Các nhà triết học duy tâm chủ quan đã lợi dụng quan điểm
này để tấn công, phủ nhận vật chất và chủ nghĩa duy vật. Tình hình đó đòi hỏi Lênin
phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật.
Tóm lại, các nhà triết học trước Marx đại đều không trả lời được câu hỏi, bản
chất của thế giới là gì? Mà họ lại đi vào nghiên cứu, tìm hiểu cấu tạo của vật chất. Do
vậy, họ đã khẳng định vật chất là cái bất biến, cái cụ thể nào đó. Quan niệm này đã tồn
tại suốt nhiều thế kỷ trong lịch sử triết học.
* Quan niệm của K.Marx và F.Engels về vật chất
K.Marx và F.Engels cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, ở đâu có
vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất; nội dung và ý nghĩa.
* Định nghĩa
Kế thừa tư tưởng của K.Marx và F.Engels, trên cơ sở khái quát những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX về mặt triết học, trên
cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, V.I.Lênin đã đưa ra
định nghĩa vật chất như sau:
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 14
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. (Tập 18, tr.151)
* Những nội dung cơ bản
- Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
Phạm trù vật chất là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức. Do
đó:
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ triết học chứ không phải
dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi
đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng
trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
+ Chúng ta không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông
thường. Về mặt nhận thức luận, theo V.I.Lênin, chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật
chất trong mối quan hệ đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức.
Khi định nghĩa phạm trù vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan, V.I.Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu,
nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất,
phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan.
Đó chính là “thực tại khách quan”.
Thực tại khách quan đó chính là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và không lệ
thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt cái gì là
vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất – cái tồn tại khách quan bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Phạm trù vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin phải được hiểu là bao gồm
tất cả những gì tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức.
Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết học, nó chỉ thực tại khách quan
nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Còn vật chất với tư cách
là một phạm trù khoa học cụ thể, đó là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có
giới hạn, sinh ra mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không thể qui vật chất
về vật thể, không thể đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của vật chất giống như
quan niệm của các nhà triết học trước Marx.
- “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Điều này khẳng định với chúng ta rằng, vật chất là cái có trước, cảm giác (ý
thức) là cái có sau, vật chất là cái đóng vai trò quyết định đến nguồn gốc và nội dung
khách quan của ý thức. Bởi vì, thực tại khác quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa
lại cảm giác cho con người chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách
quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Điều này đã khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hiện thực khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin tiếp tục giải quyết
được mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Điều này chứng minh rằng:
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 15
+ Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện
thực, được biểu hiện dưới các dạng sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của chúng
ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, về nguyên tắc không có đối
tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng vật chất chưa thể
nhận thức được mà thôi.
+ Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới bên ngoài, khi sự vật tác động vào giác
quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương pháp nhận
thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh) con người có thể nhận thức được thế giới
vật chất.
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng
thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
* Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời đã khắc
phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ
nghĩa duy vật trước Marx, chống lại chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết.
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương
pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất, định hướng
và cổ vũ họ ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu vào khám phá những
thuộc tính mới của thế giới vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của vật thể
trong thế giới.
- Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật
biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
b. Phương thức vận động, hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là gì?
* Vận động là gì?
- Vận động là mọi biến đổi nói chung , chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi
lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu
F.Engels viết: “Vận động, đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biến
hóa nói chung”. (Tập 20, tr742). “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, -
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” (Tập 20, tr 519).
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
“Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào
cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động”. (F.Engels)
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có
vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất.
“Vật chất không có vận động, cũng như vận động không có vật chất, đều là điều
không thể hình dung nổi” (Tập 20, tr 89).
+ Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.
Ví dụ: Thuộc tính của kim loại là: dẫn điện, dẫn nhiệt, có khả năng dát mỏng,
kéo thành sợi Nhưng những thuộc tính này chỉ được biểu hiện thông qua sự vận
động của sự vật đó là: Thuộc tính dẫn điện của kim loại chỉ được bộc lộ ra khi chúng
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 16
ta đặt nó trong sự chênh lệch về điện áp. Thuộc tính dẫn nhiệt của sự vật chỉ được bộc
lộ ra khi chúng ta đặt nó trong sự chênh lệch về nhiệt độ.
Tiền chỉ đẻ ra tiền khi chúng ta đưa nó vào trong quá trình sản xuất. (Bản thân
tiền không tự đẻ ra tiền, ngay cả khi chúng ta đưa nó vào quá trình lưu thông).
“Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được
thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật thể
không vận động thì không có gì mà nói cả” (F.Engels, Tập 20, tr 743).
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
+ Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh ra
và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Vận động được bảo toàn cả về lượng và về chất.
F.Engels khẳng định: “Cần phải hiểu tính bất diệt của vận động không chỉ đơn
thuần về mặt số lượng mà cần phải hiểu cả về mặt chất lượng nữa” (Tập 20, tr 479).
* Các hình thức vận động của vật chất
Theo F.Engels, có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử, của các hạt
cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.
- Vận động hóa học (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các nguyên
tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.
- Vận động sinh vật: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng
hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa.
- Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội của con người; sự thay thế các hình
thái kinh tế -xã hội từ thấp đến cao.
* Vận động và đứng im:
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
- Đứng im chỉ xảy trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi
quan hệ.
- Đứng im chỉ xảy trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới).
- Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu sự vận động.
- Xác định quan điểm duy vật biện chứng; xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng
thái vận động, biến đổi không ngừng. Đứng im chỉ là tạm thời, tương đối.
- Hiểu vận động là cái vốn có của vật chất, không do ai tạo ra và không bao giờ
bị tiêu diệt. Chống lại các quan điểm duy tâm siêu hình.
- Nắm vững các hình thức vận động của vật chất để hiểu tính đa dạng, phong phú
của vận động.
- Sự vật có nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng
một hình thức vận động nhất định. Không thể quy hình thức vận động cao về hình thức
vận động thấp hoặc ngược lại. Phê phán sai lầm của thuyết Darwin xã hội (Social
Darwinism).
c. Không gian và thời gian với tư cách là hình thức tồn tại của vật chất
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 17
-
-
Quan điểm siêu hình
Quan điểm siêu hình
coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa
coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật
chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không tồn
tại trong không gian và thời gian.
- Quan điểm duy vật biện chứng:
+ Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, gắn liền với
sự vận động của vật chất.
+ Không có không gian và thời gian không có vật chất cũng như không thể có
sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
“Vì các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại
ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian” (Tập 20, tr78).
+ Không gian vô tận. Thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
+ Không gian có 3 chiều. Thời gian có một chiều.
+ Không gian và thời gian có tính tương đối.
d. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Điều này cho thấy:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, vật chất là cái có trước, tồn tại
khách quan độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và cũng
không bị mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới đều có mối liên hệ khách quan, biểu hiện ở chỗ chúng đều là
những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật
chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật
chât.
Như vậy, trong thế giới không có gì khác hơn là vật chất đang vận động. Tinh
thần chỉ có trong đầu óc con người và là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức
cao. Không có bằng chứng về thế giới tinh thần tồn tại bên ngoài thế giới vật chất
(Thiên đường, địa ngục, Niết bàn).
Carl Edward Sagan (1934-1996), nhà thiên văn học Mỹ nói: Chúng ta sống trên
một lớp đất đá và kim loại bao bọc một ngôi sao buồn tẻ; nó là một trong 400 tỷ ngôi
sao khác tạo nên Ngân hà của chúng ta; và Ngân hà của chúng ta lại là một trong hàng
tỷ thiên hà khác tạo nên vũ trụ; và vũ trụ của chúng ta có lẽ là một trong con số vô tận
những vũ trụ khác”.
Stephen Hawking (1942- ), nhà vật lý lý thuyết và toán học Anh, Giáo sư Đại
học Cambridge viết:
“Nếu mà vũ trụ mà có khởi đầu, chúng ta mới có thể giả định rằng có một đấng
sáng thế. Nhưng nếu vũ trụ là thực sự tự nó chứa đựng trong nó, không có ranh giới và
đường biên, thì nó sẽ không có khởi đầu và không có kết thúc; nó chỉ đơn giản là tồn
tại. Vậy thì có chỗ nào cho một đấng sáng thế”?
Thomas Edison (1847-1931), nhà sáng chế nổi tiếng người Mỹ nói: “Tôi không
thấy một mảy may bằng chứng khoa học nào cho những lý thuyết tôn giáo về thiên
đường và địa ngục, về kiếp sau của cá nhân, hoặc về một cá nhân Thượng đế”.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 18
Richard Dawkins viết: “Vũ trụ mà chúng ta quan sát được thực sự chỉ có những
thuộc tính mà chúng ta có thể biết: về cơ bản là nó không có thiết kế, không có mục
đích, không có thiện, không có ác, không có gì ngoài sự lãnh đạm vô tình mù quáng”.
Các hình thức và các dạng tồn tại của vật chất và vận động có thể chuyển hóa lẫn
nhau trong những điều kiện nhất định.
Vật chất vận động tuân theo những quy luật nhất định. Có những quy luật riêng
chi phối một lĩnh vực cụ thể. Có những quy luật phổ biến chi phối tất cả sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của
triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trong lịch sử triết học. Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của
khoa học, của thực tiễn xã hội triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta nhận thức rõ
được về nguồn gốc và bản chất của ý thức.
* Quan điển triết học ngoài Mácxít về ý thức
- Quan điểm duy tâm khách quan: tìm nguồn gốc của ý thức từ một lực lượng
siêu tự nhiên (ý niệm, Brahman, Thượng đế, Trời, v.v.).
- Quan điểm duy tâm chủ quan: ý thức là cái vốn có của con người, không do
thần thánh ban cho, cũng không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
- Quan điểm vật hoạt luận: mọi dạng vật chất đều có ý thức.
- Quan điểm duy vật tầm thường: ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý thức
cũng như gan tiết ra mật”.
* Quan điểm duy vật biện chứng về ý thức
Ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: ý thức là thuộc tính (thuộc tính
phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc là cơ quan vật chất của ý thức. Nhưng tại sao bộ óc con người lại có thể
sinh ra ý thức, là mối liên hệ vật chất với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật
chất này đã hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người.
+ Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là năng lực
giữ lại, tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động
qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận
tác động, và vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
+ Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là phản
ánh vật lý, hoá học. Các hình thức này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng,
chưa có sự lựa chọn.
Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho cho giới tự nhiên sống, là sự phát
triển mới về chất trong hình thức phản ánh của vật chất.
Hình thức phản ánh của cá thể sống đơn giản nhất là tính kích thích, là sự trả
lời của cơ thể đối với những tác động của môi trường.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 19
Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh, là tính
cảm ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường.
Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh là các phản xạ
Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất
hiện là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới chỉ là sự phản ánh có tính
chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
Ý thức chỉ nảy sinh ở trong giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng
với sự xuất hiện con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người,
không thể tách rời con người.
Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài ý thức là sự phản ánh
thế giới bên ngoài vào đầu óc con người.
Bộ óc của con người là cơ quan phản ánh, nhưng chỉ với riêng bộ óc thì chưa
thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên giác quan và qua đó lên
bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc
tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được,
nhưng chưa đủ, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, đó
chính là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động:
Các nhà nghiên cứu đã viết: “Lịch sử bắt đầu từ sản xuất, con người bắt đầu từ
lao động”.
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại, là hoạt động
mang tính đặc thù của con người, làm cho con người khác với các động vật khác.
+ Trong lao động con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng
các công cụ đó để cải tạo của cải vật chất.
+ Lao động là hoạt động có tính mục đích, tác động vào thế giới khách quan
nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách
tích cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà thế giới khách
quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thức, mà trái lại con người có ý
thức chính là con người chủ động tác động vào thế giới khách quan thông qua hoạt
động thực tiễn để cải tạo thế giới. Hay nói cách khác, lao động giúp con người cải tạo
thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua quá trình lao động, bộ óc của con người
phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người
cũng ngày càng phát triển.
+ Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hôi lại với nhau, làm
nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển
cùng với lao động.
- Ngôn ngữ.
F.Engels đã viết: “Đem so sánh con người với loài vật, người ta sẽ thấy rõ ràng
ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích
duy nhất đúng về ngôn ngữ”.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 20
+ Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể
tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo K.Marx, nó chính là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ con người không thể có ý
thức.
+ Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa
là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà
con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại những tri thức
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có
tính chất xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi về mặt ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ.
Như F.Engels đã chỉ rõ: “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với
lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc con
vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người” (Tập 20,
tr646).
b. Bản chất và kết cấu của ý thức
* Bản chất của ý thức
- Do chịu ảnh hưởng của quan điểm siêu hình nên nhiều nhà duy vật trước Marx
đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc, mà không thấy được tính
năng động, sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh.
- Trái lại, các nhà duy tâm lại cường điệu tính năng động, sáng tạo của ý thức đến
mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải sự phản ánh của vật chất.
- Khác với những quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên quan
điểm lý luận phản ánh, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người một cách năng động và sáng tạo.
+ Thứ nhất, để hiểu được bản chất của ý thức chúng ta phải thừa nhận cả vật
chất và ý thức đều tồn tại, nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập:
Vật chất là cái được phản ánh, tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với cái
phản ánh tức là ý thức.
Cái phản ánh là ý thức, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, bị sự vật
khách quan quy định. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh
(vật chất) với cái phản ánh (ý thức).
+ Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì đó
không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý thức là của
con người, ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức
con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
Theo K.Marx, ý thức, “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó”.
+ Thứ ba, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú và đó là sự
thống nhất của ba mặt:
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 21
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện
thực hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý
thức là sáng tạo của sự phản ánh theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh,
mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần.
+Thứ tư, Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện
tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới
của con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội,
do đó, ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào
con người còn tồn tại.
* Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng xã hội – tâm lý có kết cấu hết sức phức tạp. Tuỳ theo
cách tiếp cận mà có nhiều cách phân chia khác nhau.
- Theo chiều dọc, thì ý thức chính là lát cắt nội tâm của con người, nó bao gồm
các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
- Theo chiều ngang: ý thức bao gồm các yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí. Trong đó tri thức là yếu tố cốt lõi. Tri thức đóng vai trò là phương thức tồn tại của
ý thức. Điều này có nghĩa là không có ý thức thì sẽ không có ý thức.
Nếu chỉ có tri thức không thôi thì đó là một ý thức phát triển không toàn diện,
sơ cứng. Tri thức được xem là vốn hiểu biết của con người nhưng nếu biến cái tri thức
đó thành hành động thì đó là một quá trình lâu dài. Tuy nhiên, sự tác động của thế giới
bên ngoài đến con người không chỉ đem lại sự hiểu biết về thế giới mà còn đem lại
tình cảm của con người đối với thế giới. Tình cảm là một thình thái đặc thù của sự tồn
tại, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thế giới
khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và là một trong
những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức có biến thành tình cảm
mãnh liệt mới sâu sắc và thông qua hành động thì tri thức mới biến thành hành động
thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
* Vật chất quyết định ý thức
- Vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật chất là nguồn gốc sinh ra ý
thức.
- Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Ý
thức phản ánh thế giới hiện thực khách quan, các quy luật khách quan, hoạt động thực
tiễn chính là cơ sở cho sự hình thành các quan điểm, quan niệm, ý chí, tình cảm xã hội.
- Trong tồn tại xã hội, ý thức chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, tồn tại xã hội thay
đổi thì ý thức xã hội sớm muộn cũng phải thay đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội.
- Ý thức xã hội không tồn tại tự nó, nó chỉ có thể hình thành và phát triển trên
cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 22
b. Tính độc lập tương đối của ý thức
Vai trò của ý thức đối với vật chất chính là vai trò của con người trong quá trình
cải tạo thế giới khách quan.
- Ý thức có tính năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thực tiễn của con
người có thể thúc đẩy hoặc kìm hảm ở một mức độ nhất định các điều kiện vật chất,
góp phần cải biến thế giới khách quan.
+ Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nó sẽ góp phần thúc đẩy
hiện thực khách quan phát triển.
+ Ngược lại, ý thức khi không phản ánh đúng hiện thực khách quan thì nó sẽ trở
thành lực cản đối với sự phát triển của hiện thực khách quan.
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với thế giới hiện thực khách quan
(vật chất) phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất và các điều kiện khách quan nhất
định.
Như vậy, tri thức khoa học giúp con người hiểu biết được những mối liên hệ và
quy luật khách quan nhờ đó mà cải tạo được tự nhiên và xã hội. Trình độ nhận thức
quy luật càng cao thì khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội càng lớn.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn
ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan. Trong nhận thức và hành
động con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo
hiện thực khách quan, chống chủ nghĩa duy tâm và chủ quan duy ý chí.
- Khẳng định ý thức có vai trò tích cực trong sự tác động trở lại đối với vật chất,
phép biện chứng duy vật yêu cầu trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn con
người cần phải nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ động, sáng
tạo, chống lại thái độ tiêu cực, thụ động.
- Sức mạnh của ý thức con người không phải là ở chỗ tách rời những điều kiện
vật chất mà phải biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế
giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý trí và nhiệt tình cao. Ý thức của
con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế
giới khách quan có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 23
Chương II
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Chúng ta không chỉ cần biết thế giới có tính vật chất tồn tại khách quan mà còn
phải biết nó tồn tại như thế nào. Điều này cần phải học phép biện chứng. Có nhiều
người cảm thấy để nắm vững được phép biện chứng là muôn phần kỳ diệu và khó
khăn. Bởi vì, giữa phép biện chứng và chủ nghĩa tương đối, giữa phép biện chứng và
thuật nguỵ biện thường chỉ có một khoảng cách rất nhỏ; những người của chủ nghĩa
tương đối và nguỵ biện thường xuất hiện với bộ mặt của phép biện chứng. Điều đó
càng tăng thêm sự khó khăn đối với việc lý giải phép biện chứng. Kỳ thực, phép biện
chứng không hề thần bí. Phép biện chứng vốn có trong sự vận động của thế giới khách
quan và trong hoạt động nhận thức của con người. Khi mới ra đời, triết học loài người
đã xuất hiện hình thức biện chứng giản đơn. Còn phép biện chứng của chủ nghĩa Marx
không phải là phép biện chứng giản đơn, mà là phép biện chứng khoa học, tự giác sau
khi đã phủ định phương thức siêu hình, là phép biện chứng duy vật mới sau khi sau khi
đã kế tục phép biện chứng chủ quan và phép biện chứng giản đơn. Hạt nhân của phép
biện chứng là quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập. Mâu thuẫn không
những là động lực bên trong của sự vận động của thế giới khách quan, mà còn thúc
đẩy sự phát triển nhận thức của con người và nhận thức quy luật cơ bản của thế giới.
Phép biện chứng không chỉ là thế giới quan mà còn là phương pháp luận. Biết rõ phép
biện chứng không bằng hiểu biết thực sự phép biện chứng.
1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Phép biện chứng
* Khái niệm phép biện chứng
- Biện chứng là bản tính của thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy; biện chứng chính
là tính thống nhất trong vận động và phát triển của thế giới.
Biện chứng gồm hai bộ phận:
- Biện chứng khách quan là phạm trù dùng để chỉ biện chứng của bản thân các
sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập và bên ngoài ý thức con người.
- Biện chứng chủ quan là phạm trù dùng để chỉ tư duy biện chứng và biện
chứng của chính quá trình phản ánh biện chứng khách quan vào đầu óc của con
người.
- Phép biện chứng là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của mọi
sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Phép biện chứng gồm hai bộ phận: Lý luận biện chứng (chủ quan – hữu hạn)
phản ánh biện chứng của thế giới (khách quan – vô hạn), và nguyên tắc nhận thức và
thực tiễn.
- Phương pháp biện chứng là cái được rút ra từ phép biện chứng, nó tồn tại
dưới dạng nguyên tắc, các công thức, thủ thuật, thủ đoạn và được con người sử dụng
như những công cụ, phương tiện trong hoạt động nhận thức.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 24
Thời cổ đại Hy Lạp, một số nhà triết học duy tâm (Platon) coi phép biện chứng là
nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý. Arixtôt đồng nhất phép biện chứng với lôgíc học.
Một số nhà triết học duy vật có tư tưởng biện chứng về sự vật (biện chứng khách
quan). Heraclit coi sự biến đổi của thế giới như một dòng chảy. Ông nói: “Mọi vật đều
trôi đi, mọi vật đều biến đổi”. “Người ta không thể tắm được hai lần trong cùng một
dòng sông”.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
G.V.Hegel, là người xây dựng phép biện chứng tương đối hoàn chỉnh với một hệ
thống khái niệm, phạm trù, quy luật. Tuy nhiên, phép biện chứng G.V.Hegel là phép
biện chứng duy tâm, là phép biện chứng ngược đầu; ông coi biện chứng của ý niệm
sinh ra biện chứng của sự vật, chứ không phải ngược lại.
- Phép biện chứng duy vật
K.Marx và F.Engels, kế thừa có phê phán hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng
của G.V.Hegel và sáng tạo ra phép biện chứng duy vật, là phép biện chứng dựa trên nền
tảng của chủ nghĩa duy vật, xuất phát từ biện chứng khách quan của tự nhiên và xã hội.
Theo F.Engels : “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và
của tư duy” (Tập 20, tr.201).
F.Engels phân biệt biện chứng khách quan (biện chứng của tự nhiên và xã hội )
và biện chứng chủ quan (biện chứng của tư duy).
“Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện
chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong
toàn bộ giới tự nhiên ” (Tập 20, tr.694).
2. Phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp.
- Lý luận là gì? Lý luận là hệ thống những khái niệm, phản ảnh bản chất,
những mối liên hệ tất yếu, những quy luật hoạt động và phát triển của đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp là gì? Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là
methodos, theo nghĩa thông thường dùng để chỉ những cách thức, thủ đoạn nhất định,
được chủ thể hành động sử dụng để thực hiện những mục đích đã vạch ra. Còn theo
nghĩa chặt chẽ và khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ
tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn
nhằm thực hiện mục đích nhất định.
- Phương pháp luận là gì? Phương pháp luận là tổng thể những nguyên tác
chung chỉ đạo việc thiết kế và sử dụng các nghiên cứu của một số ngành khoa học.
- Phương pháp luận triết học là gì? Phương pháp luận triết học là cấp độ lý luận
cao nhất của phương pháp. Nó thiết lập nên các nguyên tắc chung nhất của nhận thức và
hoạt động thực tiễn, từ đó định ra các phương pháp phổ biến đặc trưng cho triết học.
- Phép biện chứng duy vật là gì?
F.Engels cho rằng. “Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
(Toàn tập, tập 20, tr.201)
Giáo viên biên soạn: Trần Viên 25