Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.22 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
TRẦN THỊ HẠNH
Tư TƯỞNG YÊU NƯỚC
CỦA HUỲNH THÚC KHÁNG
LUẬN VÃN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬTRIẾT HỌC.
MÃ SỐ: 5.01.01
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS LÊ VÃN QUÁN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu
của riêng tôi, chưa từng được công bố. Các tư liệu, số liệu, kết
quả trong luận văn này là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả Trần Thị Hạnh
J lííi cả m Ú41
&ội x in ehân thành. eàm ờn, Cịián m' - rĩiêú ũ Mỉ (ĩ)ãn.
Quán đ ã lậ n tình, hiiónụ d ẩn , ekL hủo, tfiúp
á ?
tỏ i hoìm thành.
Luận năn. t ế t m/lỉiêp này,.
'rĩài xút eâ m ơn eúe. íị i á o u i , rp i t ó í^ iả o u i , 'diên »ĩ, xĩhụtr
ũ. ừànụ tá c ớ' ỉtottíỊ tùi n ụ eà i <Tì)ại họe qiiôe g ia '3ÔÒ. ■Hội đ ã tận.
tìn h giảng, dụ iị , hưóitụ dẫn. tòi. irontị muốt qu á trình, họe Cítíị
học nà iùêt lu ậ n IU.ỉn.
tĩỗi aein eám tín lãnh đạo rĐ ạ ì họe Qíiôỉ' ạ ia '3ÔÒ. (.Mội,
^ĩníổiựị <Dại hạc 3Cfafíii họe x ã h ộ i ƠÌL (ỈỈPứLn o ĩtn , rỊ)liìm ụ fĐào
tạo, 3 ơ to a \J v iit họe rĩviitìnụ <Đại hạc. 3CỈIBU hạc
x ã
h ộ i từi


fỉlhún năn, ông, ‘TCuìịmPl (ĩỉăn. íphutốe. - SẦ £ịỉủ t) dục. oà <Dà& tọ a
rĩhùnh pltô ^ĩ)à nẴnụ. cừu
t ị
eáe. đềng. infltit>p (Tã ạiú p, đă tò i
hoàn th ành ehưtíttíỊ trình hạc tậfí đạt. kết (Ịỉm t ế t.
'JỗỌ4i ni i n r ĩ rần &IÙ. 'ĩf>ạnh
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1- Lý do chọn đề tài: 1
2- Tình hình nghiên cứu về đề tà i 2
3- Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3
4- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4
5- Đóng góp của luận văn
4
6- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5
7- Kết cấu của luận văn 5
Chương 1 6
NHŨNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG C ỦA

6
HUỲNH THÚC KHÁNG 6
1.1 Tiền đề kinh tế - Chính trị - xã hội tạo nen sự hình thành tư
tưởng Huỳnh Thúc Kháng, 6
1.2 Tiền đề Tư tưởng tạo nên sự Hình thành tư tưởng Huỳnh Thúc
Kháng 16
1.3 Cuộc đời và sự nghiệp của nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng 22
Kết luận chương 1 29
Chương 2 31

TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC CỦA HUỲNH THÚC KHÁNG

31
2.1 Tư tưởng yêu nước theo khuynh hướng duy tân của Huỳnh Thúc
K háng 31
2.2 Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng trong thời kỳ làm
viện trưởng viện nhân dân đại biểu trung kỳ (1921- 1928)

40
2.3 Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng trong thời kỳ làm
chủ bút tờ báoTiếng dân (1928-1945) 48
2.3.1 Tư tưởng chính tr ị
50
2.3.2 Tư tưởng về nhân dân 60
2.4 Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng trong thời kỳ tham
gia chính quyền cách mạng (1945-1947)

69
2.4 .1 Tư tưởng g iữ gìn độc lập dân tộc, chống ngoại xâm 72
2 .4.2 Tư tưởng đại đoàn k ế t dân tộc, g iữ vững ổn định tình hình
trong nước, chôhg k ẻ thù chung 76
Kết luận chương 2
82
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
I

MỞ ĐẦU
1- LÝ DO CHỌN ĐỂ TÀI:
Yêu nước là tình cảm tự nhiên của mỗi con người. Chủ nghĩa yêu nước

là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của
mỗi con người đối với quê hương mình, phát triển lên thành tư tưởng và hệ
thống tư tưởng, làm chủ sự nhận thức đúng sai, tốt xấu, đã và đang là tư tưởng
chỉ đạo rất nhiều đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người Việt Nam
trong bất cứ thời đại nào cũng đều phát huy tinh thần yêu nước, tính tự cường
dân tộc của mình. Chủ nghĩa yêu nước cùng với tình đoàn kết, tính cộng đồng
được sản sinh ra từ yêu cầu sống còn của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống
thiên tai thường xuyên đe doạ cuộc sống của con người và trước những cuộc
chiến tranh xâm lược và ách đô hộ của các thế lực bên ngoài, đã tạo nên một
cái tinh tuý của bản sắc văn hoá Việt Nam, trở thành truyền thống cực kỳ quý
báu của dân tộc ta.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựnế nước và giữ nước của dân tộc ta đã
xuất hiện biết bao tấm gương yêu nước, anh dũng hy sinh. Ngày nay, khi nước
ta đang bước sang thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng, Nhà nước và
toàn thể nhân dân ta đều ý thức được rằng chúng ta muốn thành công trong
nhiệm vụ cách mạng mới thì cần phải giáo dục, bồi đắp, phát huy không
ngừng những tinh tuý của dân tộc mà chủ nghĩa yêu nước là một.
Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) là một trong những chí sĩ yêu nước
tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX,
cùng với các nhà yêu nước nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
v.v
“Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất
cao. Vì lòng yêu nước, mà trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn
Đảo. Mười mấy năm trường, gian nan cực khổ. Nhưng lòng son dạ sắt, yêu
nước thương nòi của cụ Huỳnh chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết.
1
Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm siêu lòng, nghèo khổ
không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan.
Cả đời cụ không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu,
không thèm làm quan. Cả đời cụ chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được

độc lập.”[35,121]
Những lời trong thư gửi đồng bào cả nước sau ngày Huỳnh Thúc Kháng
tạ thế đã thể hiện sự đánh giá trân trọng và chuẩn xấc của Hồ Chủ Tịch, sự tôn
vinh của đồng bào cả nước đối với nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng.
Để góp phần vào công việc nghiên cứu, giáo dục chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam nói chung và nghiên cứu về các nhà yêu nước, các nhà tư tưởng Việt
Nam nói riêng, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ triết học, tôi mạnh dạn chọn
đề tài “Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng ” làm đề tài tốt nghiệp.
2- TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu VỀ ĐỂ TÀI
Từ trước tới nay đã có khá nhiều học giả, các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước nghiên cứu về chủ nghĩa yêù nước Việt Nam, về các nhà yêu nước
tiêu biểu trong lịch sử. Trong số các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ 20 có.
thể nói sau Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng đã để lại cho chúng ta một
khối lượng sáng tác đồ sộ bao gồm thơ văn bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ
dưới nhiều thể loại, số lượng lớn các bài báo trên báo Tiếng dân. Tuy nhiên
các công trinh nghiên cứu về chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng lại không
nhiều nếu không nói là ít so với tầm vóc, vai trò lịch sử của ông.
Trước năm 1954, các công trình nghiên cứu, tuyển chọn thơ văn của
Huỳnh Thúc Kháng chủ yếu được xuất bản ở Huế và Sài Gòn, nội dung đã làm
sáng tỏ cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của ồng.
Từ năm 1954 trở đi nhất là sau năm 1975- đất nước ta hoàn toàn thống
nhất, các công trình sưu tầm, tuyển chọn thơ văn và các công trình nghiên cứu
về cuộc đời, sự nghiệp đặc biệt là các công trình đề cập đến tư tưởng của
Huỳnh Thúc Kháng tuy không nhiều nhưng đã có hệ thống chứng tỏ việc tìm
2
hiểu, đánh giá vị trí con người và tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng đã được ổn
định song chưa thật đúng tầm, đúng mức. Có thể kể tên một vài công trình tiêu
biểu:
Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng - Vương Đình Quang
Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng (chọn lọc) - Chương Thâu.

Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng - Tổng tập văn học Việt Nam .
Huỳnh Thúc Kháng - Con người và thơ văn- Nguyễn Q. Thắng
Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng - Hội khoa học lịch sử.
Huỳnh Thúc Kháng niên phổ và Thư trả lời Kỳ ngoại hầu Cường Để.
Ngoài ra chỉ có một số lượng rất hạn chế các khoá luận tốt nghiệp, luận
văn của ngành lịch sử, các bài viết trong các báo hoặc tạp chí Nghiên cứu lịch
sử.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập đến cuộc đời, sự nghiệp,
các trước tác của Huỳnh Thúc Kháng, rất có giá trị. Tuy nhiên, tập trung vào
I
nghiên cứu sự hình thành, nội dung cơ bản của tư tưởng Huỳnh Thúc Kháng
nói .chung và tư tưởng yêu nước nói riêng như cách đặt vấn đề của luận văn thì
chưa có công trình nào thực hiện.
3- MỤC TIÊU VÀ NHIỆM vụ NGHIÊN cứu
Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi xác định mục tiêu là:
Tìm những đặc trưng, đặc điểm của tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc
Kháng.
Để thực hiện được mục tiêu trên luận văn có nhiệm vụ:
-Tìm hiểu những tư tưởng, quan điểm, hành động vì dân vì nước của
Huỳnh Thúc Kháng qua phân tích những trước tác của ông và của các học giả
viết về ông. Từ đó tìm hiểu quá trình tiếp biến của tư tưởng Huỳnh Thúc
Kháng.
3
- Nhân xét, đánh giá về những tiến bộ và hạn chế trong tư tưởng của
Huỳnh Thúc Kháng, đánh giá vai trò, vị trí của nhà yêu nước Huỳnh Thúc
Kháng, của tư tưởng Huỳnh Thúc Kháng trong lịch sử và lịch sử tư tưởng Việt
Nam.
4- Cơ Sỏ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
Tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng luôn gắn với cuộc đời hoạt động vì
dân vì nước của ông và được thể hiện qua những bức thư, những bài viết,

những lời phát biểu, những bài thơ gắn với từng thời điểm lịch sử cụ thể,
từng đối tượng cụ thể, phục vụ cho những mục tiêu, công việc cụ thể của thực
tiễn.
Để hiểu đúng và đánh giá chính xác giá trị tư tưởng, hành động, việc
làm của Huỳnh Thúc Kháng, luận văn được thực hiện dựa trên các quan điểm
lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam. Chúng tôi cũng sử dụng những kết quả củầ các công trình nghiên
cứu của các học giả về Huỳnh Thúc Khápg.
Chúng tôi sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phân tích- tổng hợp, lịch sử-lôgic, hệ thống- cấu trúc,
lối chiếu so sánh
5- ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Phân tích một cách biện chứng mâu thuẫn dàn tộc và mâu thuẫn giai
:ấp trong xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, nủa đầu thế kỷ XX để thấy rõ
ỉự biến chuyển của những nhu cầu thực tiễn, đó là cơ sở, căn cứ khách quan
:ho sự hình thành, phát triển của những nội dung cơ bản trong tư tưởng yêu
ìước của Huỳnh Thúc Kháng .
4
CHƯƠNG 1
NHŨNG TIỀN ĐỂ HÌNH THÀNH Tư TƯỞNG CỦA
HUỲNH THÚC KHÁNG.
I
1.1 TIỀN ĐỂ KINH T Ế - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TẠO NÊN sự HÌNH THÀNH
Tư TƯỞNG HUỲNH THÚC KHÁNG.
Quá trình hình thành, phát triển tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng gắn
liền với sự biến đổi của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong xã hội Việt
Nam ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những điều kiện lịch sử ấy có ảnh
hưởng rất lớn đối với tư tưởng ông.
Trong những thập kỷ 80-90 của thế kỷ XIX Việt Nam là quốc gia phong

kiến đang bước sang giai đoạn suy vong, tan rã. Cuối thế kỷ XIX, kinh tế của
Việt Nam chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ do chính sách “bế
quan toả cảng” của triều Nguyễn.
Hiệp ước Hácmăng (1883) và Patơnốt (1884) ký giữa triều đình Huế và
chính phủ Pháp dưới áp lực quân sự của tư bản Pháp đã đánh dấu sự sụp đổ
hoàn toàn của nhà nước phong kiến độc lập Việt Nam và sự đầu hàng của triều
Nguyễn trước chủ nghĩa tư bản Pháp, công nhận bảo hộ lâu dài của người Pháp
ở Việt Nam. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam thiết lập hệ thống cai trị, duy
trì bộ máy phong kiến Việt Nam đã lỗi thời dưới quyền điều hành của chúng,
chia Việt Nam thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau dưới quyền Pháp.
Nam kỳ dưới chế độ trực trị, Trung kỳ dưới chế độ bảo hộ, Bắc kỳ dưới chế độ
ở giữa hai thứ chế độ đó, mỗi kỳ là một bộ phận của Đông Dương thuộc Pháp
bao gồm cả Campuchia và Lào. “Chia để trị” là chính sách lớn của thực dân
Đầu thế kỷ XX, chính sách khai thác thuộc địa thu lợi nhuận của thực dân
Pháp đã làm nảy sinh một loạt các hình thức hoạt động kinh tế mới ở Việt
Nam, làm thay đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam.
6
Thực dân Pháp thực hiện thống nhất tài chính toàn Đông dương, nguồn
thu chủ yếu là các loại thuế đè nặng lên nhân dân Đông Dương. Tư bản nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX chủ yếu là của Pháp, đầu tư chủ
yếu hai ngành nông nghiệp và công nghiệp. Các khu công nghiệp như Hồng
gai, Thái nguyên, Cao bằng, Lao cai .được lập ra. Diện tích các đồn điền cao
su, cà phê ở Trung kỳ và Nam kỳ tăng lên gấp bội đồng nghĩa với việc thực
dân Pháp chiếm hàng loạt ruộng đất của nhân dân Việt Nam .
Hệ thống giao thông được mở ra để phục vụ cho việc vận chuyển các
sản phẩm và hàng hoá mà Pháp khai thác được: đường thuỷ, đường sắt, đường
bộ đồng thời là phương tiện để đưa quân đội tới những nơi cần thiết để đàn
áp các cuộc nổi dậy của nhân dân.
Các thành phố được nâng cấp, phát triển, như Hà Nội, Sài Gòn, Hải
phòng, Thái nguyên, Nam định Đà nẵng V V chủ yếu là để mở mang thị

trường phục vụ cho quyền lợi kinh tế của Pháp.
Dưới tác động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa do Pháp du
nhập vào, nền kinh tế Việt Nam dần dần chuyển biến từ nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế thuộc địa- tư bản chủ nghĩa, có bước phát triển
nhanh chóng nhưng cũng tạo ra một cơ cấu kinh tế què quặt mất cân đối dẫn
đến sự phân hoá thiếu triệt để của cơ cấu giai cấp xã hội.
Về chính tr ị , bộ máy cai trị thực dân đã được xây dựng và củng cô' dưới
sự “hợp tác’ chặt chẽ của triều đình Huế và của một phần không nhỏ tầng lớp
phú hào.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp là một nước thắng trận cho nên
chúng lại càng ra sức khai thác thuộc địa chủ yếu ở Đông Dương và châu Phi.
Chính quyền thực dân- phong kiến thi hành hàng loạt các chính sách cải cách
nhằm đối phó lại những biến động đang diễn ra trong xã hội Việt Nam. Mục
tiêu của Pháp là mở rộng cơ sở xã hội nhưng không ảnh hưởng đến nền tảng
thống trị ở thuộc địa. Nhằm mục đích can thiệp trực tiếp vào làng xã, từ năm
1904, thực dân Pháp bắt đầu thi hành chính sách “cải lương hương chính”, đưa 1
7
tầng lớp tân học lên cầm quyền thay tầng lớp cựu học ở Bắc kỳ và Nam kỳ.
Chủ trương chung của Pháp là tiếp tục sử dụng giai cấp địa chủ và tay sai
người Việt vào việc cai trị. v ề căn bản, chính sách cải lương hương chính chấp
nhận những cơ chế cổ truyền của làng xã nhưng nó ra sức nắm lấy bộ phận
cầm đầu các hương thôn. Sau khi đã xây dựng và củng cố được quyền lực của
mình trên thực tế, thực dân Pháp tìm cách gạt bỏ vai trò của triều đinh phong
kiến trong công việc quốc gia. Công cuộc cải cách về chính trị- hành chính với
những biểu hiện: tăng cường số lượng công chức người Việt trong bộ máy
hành chính thuộc địa. Chính sách này nhằm tranh thủ lôi kéo một bộ phận nhỏ
trong “giới thượng lưu” người Việt Nam gồm một sô' nhà tư sản và địa chủ lớn
vì quyền lợi cá nhân đứng về phía Pháp để chống lại nhân dân ta làm cho tình
hình chính trị và sự phân hoá trong xã hội ở Việt Nam ihêm gay gắt.
Thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác trên quy mô lớn từ đầu thế kỷ XX

đã làm cho nhân dân lao động bị bần cùng hoá, xã hội phân hoá ngày càng sâu
sắc, nông thôn và thành thị đều có những biến chuyểrì rõ rệt. Những biến đổi
về cơ cấu xã hội tất yếu có ảnh hưởng đến tư tưởng Việt Nam, đến tính chất
I
của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta diễn ra trong giai đoạn đó và
sau-này. Xã hội Việt Nam có sự phân hoá của các tầng lớp cũ và mới:
- Địa chủ phong kiến: vốn là giai cấp cũ tồn tại lâu đời trong xã hội
phong kiến Việt Nam. Được thực dân Pháp nâng đỡ, ưu thế kinh tế và chính trị
của địa chủ Việt Nam tăng lên. Ngoài địa chủ Pháp, địa chủ Nhà thờ, địa chủ
quan lại, địa chủ thường, còn có các địa chủ kiêm công thương. Địa chủ phong
kiến Việt Nam phát triển hơn trước và trở thành chỗ dựa vững chắc cho thực
dàn Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa và duy trì trật tự xã hội có lợi
cho chúng. Xét trên bình diện tư tưởng, giai cấp này cũng bị phân hoá thành 2
bộ phận:
Một bộ phận trở thành tay sai cho Pháp, là chỗ dựa cho bọn thực dân
ngoại bang, trở thành đầy tớ tin cậy cho chính phủ bảo hộ, ra sức đàn áp, bóc
lột nông dân.
8
Một bộ phận những gia đình phong kiến tuy bị ràng buộc với điền địa
nhưng có tinh thần dân tộc, căm thù giặc, tham gia các cuộc nổi dậy chống
Pháp.
- Giai cấp nông dân: bắt đầu bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chi
phối. Tư bản Pháp và bè lũ phong kiến tay sai trắng trợn cướp đoạt ruộng đất
của nông dân trên quy mô lớn để lập các đồn điền nông nghiệp. Lúa gạo trở
thành hàng xuất khẩu, ruộng đất bị tập trung, nạn phu phen tạp dịch, sưu thuế
càng trở nên nặng nề làm cho cuộc sống của nông dân vốn đã khốn khổ càng
trở nên xơ xác. Nông dân bị phân tán, một số bị bần cùng hoá, thoát li khỏi
ruộng đất, li tán ra thành thị , khu công nghiệp kiếm sống, không thoát khỏi
ách áp bức bóc lột. Trong các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng,
nông dân là lực lượng đông đảo tham gia, góp phần vào thắng lợi chung của

dân tộc.
- Giai cấp công nhân mới xuất hiện với lực lượng rất mỏng, chủ yếu
xuất thân từ nông dân họ trở thành công nhân từ nhiều con đường khác nhau.
Một số bị tước đoạt hết tư liệu sản xuâ'í phải tự đến hầm mỏ, xí nghiệp kiếm
công việc. Một số khác chỉ tranh thủ “tháng ba ngày tám” ra xí nghiệp, hầm
mỏìàm thuê bổ sung cho thu hoạch nông nghiệp. Một số khác nữa là “phu”-
công nhân bị cưỡng bức, bị thực dân phong kiến bắt các làng xã phải giao nộp
để làm các công trình phục vụ chế độ thực dân: đường sắt, đường bộ, công
sở .Công nhân chịu sự bóc lột trực tiếp của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
- Giai cấp tư sản: Đầu thế kỷ XX, tầng lớp tư sản và tiểu tư sản tuy chưa
hội đủ các điều kiện là giai cấp nhưng đã có hình hài theo 2 kiểu:
Một bộ phận lợi dụng cuộc khai thác thuộc địa của Pháp, cấu kết với
Pháp nhanh chóng trở thành tư sản thực sự. Xuất hiện sớm nhất là một só tư
sản mại bản đứng ra bao thầu các bộ phận kinh doanh của Pháp, nhận cung
cấp tiếp tế lương thực, nguyên liệu cho Pháp hay đúng ra làm đại lý phân phối
hàng hoá của chúng. Quyền lợi của họ gắn liền với quyền lợi của thực dân.
9
Một bộ phận nữa có quan hệ với tư bản nước ngoài nhưng mặt nào đó
có ít nhiều tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, đã có những đóng góp cho
phong trào yêu nước chống thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng dân
chủ tư sản tiến bộ. Trong số này có những người làm kinh doanh thương
nghiệp để hỗ trợ cho công tác chính trị, hỗ trợ cho các phong trào yêu nước.
Lúc này, tư sản Việt Nam hình thành một giai cấp trong xã hội, bắt đầu
bước lên vũ đài chính trị. Tuy vậy vì cơ sở kinh tế của giai cấp tư sản Việt
Nam hết sức nhỏ yếu nên thái độ chính trị của họ rất bạc nhược. Trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc sau chiến tranh, vai trò chủ yếu thuộc về tầng lớp
tiểu tư sản chứ không phải tư sản; sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930) bị
thất bại thì vai trò chính trị của gai cấp tư sản hầu như chấm dứt.
- Cùng ra đời với tầng lớp tư sản là tầng lớp tiểu tư sản, đông hơn các
nhà tư sản. Họ là các nhà tiểu công nghệ, tiểu thương, những người làm việc ở

các sở cổng hay tư, những người làm nghề tự do, học sinh các trường Tuy
đời sống vật chất của những người này so với các tầng lớp khác có phần khá
hơn nhưng họ cũng bị chèn ép rát nhiều,về mặt chuyên môn nghề nghiệp cũng
như chính trị.
- Tầng lớp trí thức: bắt đầu có sự phân hoá về tư tưởng và hành động
giữa bộ phận trí thức cũ theo Nho học và trí thức mới theo xu hướng duy tân.
Ngay trong bản thân các bộ phận trí thức cũng có sự phân hoá theo các
khuynh hướng tư tưởng khác nhau. Tầng lớp trí thức trực tiếp, gián tiếp tiếp
thu các hệ tư tưởng mới từ bên ngoài vào, trở thành lãnh tụ tinh thần cho các
khuynh hướng, trào lưu tư tưởng ở Việt Nam.
Cùng với sự biến đổi trong kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội, giáo duc,
đời sống văn hoá và tâm lý ở Việt Nam cũng có nhiều biến chuyển.
Chính sách xã hội của thực dân Pháp đối với các giai tầng xã hội rất
khác nhau. Đối với các tầng lớp trên chúng dành cho những đặc quyền đặc lợi
cả về kinh tế, chính trị và văn hoá. Đối với tầng lớp dưới, thực dân chủ trương
tăng cường bóc lột, áp bức và đẩy họ vào chế độ ngu dân. Thực dân Pháp chủ
10
trương nhanh chóng xoá bỏ hoàn toàn nền giáo dục Nho học (kỳ thi cuối cùng
vào năm 1919) đồng thời tiếp tục mở rộng hệ thống giáo dục Pháp - Việt.
Giáo dục Việt Nam có nhiều thay đổi về hệ thống tổ chức, cơ cấu ngành nghề
và nội dung đào tạo nhưng có sự phân biệt lớn giữa người Pháp và người bản
xứ. Phần lớn học sinh nhất là học sinh các lớp cao, sinh viên là con em các gia
đình giàu có hoặc có địa vị trong xã hội, còn con em các gia đình nghèo may
lắm cũng chỉ có khả năng cho con em theo học lớp chữ Hán hoặc chữ Quốc
ngữ ở trường địa phương, trường làng, do vậy tình trạng thất học vẫn là phổ
biến.
Các trào lưu tư tưởng mới, các thành tựu khoa học và kĩ thuật, văn hoá
và nghệ thuật phương Tây thông qua sách báo trong và ngoài nước tràn vào
nước ta, thúc đẩy và tăng cường mối quan hệ tiếp xúc giữa hai nền văn hoá Á -
Âu, Đông- Tây; có sự giao thoa, đan xen và tồn tại đồng thời giữa những yếu

tố văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại lai, giữa nền văn hoá nô dịch của các
nhà tư bản thực dân và nền văn hoá mới đang nảy sirìh và dần dần phát triển
trong lòng xã hội thuộc địa Việt Nam. Cùng với sự mở mang, phát triển của
các đô thị, cùng với cao trào đòi tự do dân chủ, nhiều trí thức tiến bộ đã dùng
báo chí làm công cụ đấu tranh, để bộc lộ những quan điểm chính trị của mình.
Hoạt động báo chí, văn hoá đã diễn ra sôi nổi trên cả nước. Có nhũng tờ báo in
bằng tiếng Pháp: “Diễn đàn bản xứ “ của Bùi Quang Chiêu mang tư tưởng
quốc gia cải lương, tờ “Chuông rạn” của Nguyễn An Ninh và “An Nam” của
Phan Văn Trường công khai đả phá chế độ thực dân, chống lại chủ nghĩa Pháp
- Việt đề huề. Bên cạnh đó, xuất hiện nhiều tờ báo tiếng Việt phản ánh các
nguyện vọng về tự do dân chủ của quần chúng, tuyên truyền tư tưởng văn hoá
tiến bộ, kịch liệt chống lại chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề: “Hữu thanh” của Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu ở Hà nội, “Tiếng dân” của Huỳnh Thúc Kháng ở Huế,
“Pháp - Việt nhất gia” của Trần Huy Liệu, Lê Thanh Lực ở Sài gòn. Cùng với
các hoạt động báo chí, một số trí thức còn thành lập các đại lý hoặc cơ sở sản
xuất, mua bán các tài liệu, sách báo có tư tưởng yêu nước. Các ấn phẩm văn
hoá tiến bộ đã phần nào phản ánh được nguyện vọng tự do, dân chủ, nhân đạo,
11
yêu nước của nhân dân ta, được đông đảo thanh niên hưởng ứng, trở thành
động lực quan trọng của cao trào đấu tranh đòi tự do dân chủ những năm 20
30 của thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đổ xô sang Viễn đông
tìm kiếm thị trường, đối tượng chính là Trung Quốc, Nhật Bản. Đầu thế kỷ
XX, những biến cô' lớn ở Trung Quốc và Nhật Bản, chiến tranh thế giới thứ
nhất, chiến tranh thế giới thứ hai, thay đổi chính trị ở nước Pháp đã ảnh hưởng
sâu sắc đến tình hình chính trị và tư tưởng ở Việt Nam .
Nhật Bản cho đến giữa thế kỷ XIX cũng là nước phong kiến, thực hiện
bế quan toả cảng. Từ giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản bị các cường quốc phương
Tây tiến công đòi mở cửa. Nhật Bản bắt đầu duy tân từ 1868, đã nhanh chóng
phát triển thành quốc gia có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, thành quốc gia

cường thịnh trong khu vực, bắt đầu tiến hành xâm lược các nước trong vùng.
Năm 1879, Nhật chiếm quần đảo Lưu Cầu; năm 1882-1884 Nhật gây sự ở
Triều Tiên; năm 1894-1895 họ gây chiến tranh với Trung Quốc, chiếm Đài
Loan. Trong thời gian này người Việt Nam mới chỉ biết rằng Nhật Bản nhờ
khai thương mà trở nên giàu mạnh. Năm 1904-1905, xảy ra chiến tranh Nga-
Nhât, Nhật đánh bại“cường quốc da trắng”. Điều này có tác động lớn đến sự
nhận thức của một sô' người Việt Nam yêu nước. Họ cho rằng chúng ta muốn
đánh đuổi thực dân Pháp phải cầu ngoại viện, thì không gì bằng cầu viện “anh
cả Á châu”- Nhật Bản. Phong trào Đông du từ sự nhận thức đó mà được khởi
xướng và phát triển (1904-1908).
Trung Quốc ở gần Việt Nam “đồng văn, đồng chủng” và cùng cảnh
ngộ, từ nước độc lập thành nửa thuộc địa. Những năm cuối cùng của thế kỷ
XIX, các nước tư bản phương Tây cùng với Nhật đua nhau xâu xé Trung
Quốc. Sau chiến tranh Trung- Nhật, uy tín của triều Mãn Thanh càng sút kém,
tinh thần cách mạng của nhân dân Trung Quốc lên cao. Khuynh hướng cải
lương phát triển mạnh mẽ, nhất là trong giới trí thức xuất thân sĩ phu phong
kiến hay giai cấp tư sản mới hình thành. Xuất hiện khuynh hướng cải lương,
12
biến pháp ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây với các lãnh tụ:
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Dương Thâm Tú, Đàm Tự Đồng Họ sáng
lập ra học hội, học dường, hiệu sách, ra báo khắp nơi, thực hiện biến pháp.
Phong trào Duy tân thất bại, biến pháp không được thi hành do ở địa phương
phe thủ cựu còn nắm nhiều quyền binh, hơn nữa họ chỉ chú trọng tranh thủ sự
ủng hộ của một bộ phận trong các tầng lớp trên của xã hội mà thiếu sự tham
gia của quấn chúng nhân dân nhất là nông dân. Tuy nhiên phong trào cũng đã
thức tỉnh được tinh thần yêu nước của nhân dân , đề cao ý thức độc lập dân tộc
chống ngoại xâm, ý thức dân chủ chống chuyên chế, mặc dù mới chỉ hạn chế
trong phạm vi quân chủ lập hiến.
Đối với Việt Nam , cuộc vận động biến pháp ở Trung Quốc và sau đó là
thành công của Cách mạng Tân Hợi 1911 tạo điều kiện khách quan cho sự

hình thành phát triển của phong trào Duy tân ở nước ta đầu thế kỷ XX. Các sĩ
phu Việt Nam được làm quen với tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây của
Rútxô, Môngtetxkiơ qua các tác phẩm của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi.
Trên cơ sở những biến đổi kinh tế- xã hội Việt Nam, cùng với ảnh hưởng của
tư tưởng bên ngoài vào, tư tưởng tư sản bắt đầu xuất hiện trên vũ đài chính trị ở
nướ.c ta: Duy tân hội, Đông kinh nghĩa thục, Việt Nam quang phục hội .ra đời
và hoạt động, tuy chưa dẫn đến thành công nhưng đã phát động phong trào yêu
nước rầm rộ trong toàn quốc, tập hợp được một lực lượng kháng Pháp khá
hùng hậu, chuẩn bị về mặt tinh thần cho các cuộc đấu tranh sau này.
Thời kỳ những năm 20-30 của thế kỷ XX lại là thời kỳ xuất hiện nhiều
hoạt động yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài.Trong 3 thập kỷ đầu thế
kỷ XX, Trung Quốc và Pháp là hai nước có quan hệ chặt chẽ nhất và có tác
động mạnh mẽ đối với quá trình vận động và biến chuyển của phong trào dân
tộc ở Việt Nam. Trung Quốc trở thành nơi tụ họp và địa bàn hoạt động của
nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước. Các hoạt động yêu nước của người
Việt Nam ở Pháp: Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc diễn ra sôi nổi tác
động đến tình hình chính trị trong nước.
13
Trong nước, phong trào dân tộc Việt Nam do chịu tác động của trào lưu
tư tưởng mới thông qua các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và đông đảo Việt
kiều ở Pháp và Trung Quốc, bắt đầu phát triển sôi nổi và nhanh chóng chuyển
sang giai đoạn mới. Phong trào yêu nước bắt đầu từ trong Nam rồi lan ra ngoài
Bắc và phát triển thành phong trào có tính toàn quốc, thu hút đông đảo các
tầng lớp nhân dân tham gia. Mở đầu cho phong trào đòi tự do dân chủ là các
hoạt động tuyên truyền cách mạng của một sô' tờ báo tiến bộ in bằng tiếng
Pháp cũng như tiếng Việt. Từ trong phong trào yêu nước đã bắt đầu xuất hiện
các tổ chức chính trị của thanh niên trí thức, tiêu biểu là Hội Phục Việt, Đảng
Thanh niên và từ sự tuyên truyền của các đảng này mà phong trào đấu tranh
yêu nước của quần chúng nhân dân càng trở nên mạnh mẽ: phong trào đấu
tranh đòi thả Phan Bội Châu, đám tang Phan Chu Trinh, đấu tranh đòi thả

Nguyễn An Ninh, phong trào văn hoá tiến bộ.
Từ năm 1925 ở Việt Nam xuất hiện những tổ chức tiến bộ và cách
mạng: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội), Tân Việt cách mạng đản^, Việt Nam quốc dân đảng .Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên góp phần truyền bá tư tưởng Mác-Lênin, tích cực
thúe đẩy phong trào cách mạng Việt Nam chuyển nhanh theo hướng cách
mạng vô sản. Việt Nam quốc dân đảng là tổ chức tiêu biểu nhất của khuynh
hướng cách mạng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ
XX. Vì nó thiếu một cơ sở kinh tế và giai cấp đủ mạnh, công tác tổ chức lỏng
lẻo nên nó không đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Sự phát triển ngày càng đa dạng và ỏ trình độ ngày càng cao của các
phong trào yêu nước ở Việt Nam từ 1925 trở đi đã đặt ra một nhu cầu thành
lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng dân tộc, gánh
vác vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời năm 1930 trên cơ sổ thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam: An
Nam Cộng sản đảng, Đông dương Cộng sản đảng, Đông dương Cộng sản liên
đoàn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa
14

Chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam , chứng tỏ sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam đủ khả năng
đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 dẫn nước Pháp đến tình
trạng không những bị khủng hoảng về kinh tế mà còn bị khủng hoảng về chính
trị, các đảng cánh hữu liên tiếp lên nắm quyền, những tổ chức phát xít ở Pháp
cũng xuất hiện và tăng cường hoạt động. Giới cầm quyền một số nước tư bản
đã đưa đất nước vào con đường phát xít hoá: Italia, Đức, Nhật. Các thế lực phát
xít có mặt ở hầu khắp các quốc gia châu Âu, liên kết với nhau thành một khối,
gây nguy cơ chiến tranh đe doạ loài người.

Năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, Pháp đẩu hàng. Từ
đó nhân dân Việt Nam chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Sau khi đã đưa
quân vào Bắc Đông Dương, Nhật tiếp tục ép Pháp nhượng bộ, kí kết các hiệp
ước. Về chính trị-tư tưởng bọn quân phiệt Nhật không lật đổ bộ máy chính
quyền thực dân Pháp mà sử dụng nó như một công cụ để đàn áp phong trào
cách mạng Đông Dương, để vơ vét, bóc lột sức người sức của của Đông Dương
phục vụ chiến tranh. Các tổ chức phản động thân Nhật được khôi phục hoặc tổ
chức mới ở Việt Nam, các nhóm thân Pháp cũng hoạt động làm cho tình hình
chính trị ở Việt Nam lúc đó rất rối ren.
Cuối năm 1944, đầu năm 1945 bọn phát xít liên tiếp thất bại trên nhiều
mặt trận. Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở đông Dương, độc chiếm Đông
Dương tạo nên một sự khủng hoảng chính trị sâu sắc. Nhật lập chính phủ bù
nhìn Trần Trọng Kim, lập ra hàng loạt các tổ chức đảng phái chính trị phản
động như Đại Việt quốc xã, Việt Nam quốc gia độc lập .Chính sách vơ vét về
kinh tế, phản động về chính trị của Pháp- Nhật đã dẫn đến tình trạng đời sống
nhân dân Việt Nam bị kiệt quệ. Đầu năm 1945 đã xảy ra nạn đói làm chết gần
2 triệu người.
Những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tình hình chính trị-
xã hội ở Việt Nam diễn ra khá phức tạp, có nhiều biến động lớn. Sự biến động
15
đó có nguyên nhân từ những mâu thuẫn trong nội bộ nước ta đồng thời cũng
chịu tác động mạnh mẽ của những diễn biến chính trị trong khu vực và trên thế
giới. Những biến động phức tạp của chính trị- xã hội thể hiện sự biến đổi cũng
khá phức tạp của lĩnh vực tư tưởng, của ý thức hệ; sự biến đổi, đấu tranh của ý
thức hệ cũng chi phối khá lớn đến tình hình chính trị nước ta thức tỉnh các nhà
Nho yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng.
Những điều này cũng xuất phát từ nhận thức của Huỳnh Thúc Kháng - một
nhà Nho đã từng viết lời tựa cho quyển “Quốc văn Chu dịch diễn giải” của
Phan Bội Châu. Vậy nên Huỳnh Thúc Kháng hiểu lẽ “biến dịch” của trời đất
sao cho thích hợp với thời nước chưa độc lập, dân chưa tự do, ông không thể

khoanh tay đứng nhìn. Thời cuộc như thúc giục các nhà Nho yêu nước tham
gia đấu tranh đòi quyền lợi dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, giành độc lập,
đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Huỳnh Thúc Kháng cũng như bao nhà Nho
yêu nước khác hoà mình với nhân dân, đất nước làm cách mạng đấnh đổ thực
dân Pháp và triều đình phong kiến. ,
1.2 TIỀN ĐỂ TƯ TƯỎNG TẠO NÊN sự HÌNH THÀNH Tư TƯỞNG HUỲNH
THÚC KHÁNG.
Những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế - chính trị xã hội nửa
cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX là điều kiện, nguyên nhân dẫn đến sự
thay đổi lớn trong tư tưởng Việt Nam, xuất hiện các màu sắc mới của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Nho giáo là hệ ý thức
chính thống độc tôn của nhà nước phong kiến. Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa
giáo tuỳ theo mức độ ảnh hưởng cũng có mặt trong hệ tư tưởng Việt Nam .
Ngoài ra, nhân dân và đặc biệt là tầng lớp trí thức Việt Nam khống biết đến
một hệ thống tư tưởng nào khác , không biết phương Tây, Âu, Mỹ phát triển
kinh tế, kỹ thuật như thế nào. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, triều
đình Huế không thể tìm ra trong kinh điển Nho giáo, Phật giáo hay Đạo giáo
một kế sách nào có thể cứu quốc một cách hiệu nghiệm. Có thể nói hệ ý thức
16
phong kiến ở Việt Nam đã hoàn toàn bất lực khi giải quyết các vấn đề mà lịch
sử dân tộc đặt ra lúc bấy giờ. Vua bỏ dân bán nước, số đông bề tôi vẫn “ngu
trung” theo truyền thống phục cổ, thủ cựu, cản trở mọi kế hoạch đổi mới,
canh tân.
Bên cạnh đó vẫn có một số sĩ phu yêu nước chủ chiến, ly khai triều đình
kiên quyết đánh Pháp, canh tân đất nước. Tư tưởng đó thể hiện chủ nghĩa yêu
nước bền vững, nồng nhiệt của nhân dân ta. Trên khắp đất nước ta đã dấy lên
phong trào đấu tranh yêu nước do các sĩ phu tổ chức và lãnh đạo: cuộc chiến
đấu do Trương Định lãnh đạo ở Nam Bộ, phong trào “ Văn thân Cần vương”
được đông đảo các sĩ phu trong cả nước hưởng ứng, cuộc khởi nghĩa Hương

Sơn của Phan Đình Phùng, cuộc đấu tranh vũ trang Yên Thế do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo .nhưng tất cả đều kết thúc thất bại. Sự thất bại này thể hiện sự
thất bại của một thế giới quan lạc hậu với thời đại. Thất bại này các sĩ phu yêu
nước hiểu rằng để chiến thắng kẻ thù mới này cần phải có sức mạnh vật chất
và sức mạnh tinh thần hơn hẳn sức mạnh của các CUỘG chống quân xâm lược
phong kiến phương Bắc trong lịch sử. Ta yếu địch mạnh, các kinh sách thánh
- I, , ,
hiển không giúp các sĩ phu vạch được lối thoát, sức mạnh của chủ nghía yêu
nước truyền thống phải có đường lối đúng dắn mới phát huy được. Logic của
lịch sử thôi thúc các sĩ phu yêu nước đi tìm con đường khác giải thoát cho
mình và cứu nguy cho dân tộc.
Một cuộc đi tìm hệ tư tưởng mới, tìm thế giới quan mới, tìm con đường
cứu nước giải phóng dân tộc của các trí thức yêu nước dấy lên sôi nổi ở Việt
Nam đầu thế kỷ XX.
Có thể nói đại diện cho chủ nghĩa yêu nước thời kỳ này chủ yếu là lớp
nhà nho yêu nước, luôn trăn trở tìm con đường cứu nước cứu dân, tiếp thu cái
mới tiến bộ của nhân loại, chủ trương duy tân đất nước theo tư tưởng dân chủ
của phương Tây. Tuy cùng mục tiêu cứu nước cứu dân nhưng tư tưởng và hành
động của các nhà yêu nước thời kỳ này tách ra theo các khuynh hướng khác
nhau:
- Chủ trương dùng bạo động đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập sau
mới canh tân đất nước. Đại biểu cho xu hướng này là Phan Bội Châu. Ông
cùng các nhà khoa bảng như Nguyễn Hàm, Đặng Thái Thân .thành lập nhóm
yêu nước gọi là Tân đảng, tổ chức Duy tân hội; ông cùng Tăng Bạt Hổ sang
Nhật cầu viện trợ tạo ra cuộc Đông du với ý tạo ra nhân tài, dân trí, dân khí.
Thực dân Pháp -Nhật và triều Mãn Thanh cấu kết với nhau, Duy tân hội,
phong trào Đông du và sau này cả Việt Nam Quang phục hội khuôn theo cách
mạng Tân Hợi Trung Quốc cũng tan vỡ và đó cũng là sự tan vỡ của một chủ
trương, đường lối yêu nước chưa phù hợp với lịch sử.
- Chủ trương dùng đấu tranh công khai ôn hoà yêu cầu nhà cầm quyền

phải thực hiện chính sách dân chủ, lật nhà nước phong kiến lạc hậu; tự lực tự
cường và dần dần đem lại độc lập cho dân tộc. Đại biểu cho xu hướng này là
Phan Chu Trinh. Ông không nhận thấy đối lập chính là đối lập giữa dân tộc
Việt Nam và thực dân Pháp, không rõ bản chất của chế độ thực dân, không hề
đặt vấn đề đánh đổ Pháp, ông chĩa mũi nhọn của sự'Công kích vào quan lại
Việt Nam bất tài, tham nhũng, công kích quân quyền độc đoán, ông phản đối
bạo động cách mạng, phản đối đi cầu viện nước ngoài để khôi phục độc lập.
Nét. đặc sắc trong tư tưởng Phan Chu Trinh là dựa vào nhà nước Pháp dân chủ
cộng hoà để chống với quân chủ chuyên chế Việt Nam và thực hiện cải cách
tiến bộ trong nước ta. Trong tư tưởng Phan Chu Trinh có một mâu thuẫn khá
lớn đó là ông công kích nhà nước phong kiến nhưng lại không phủ định hoàn
toàn hệ tư tưởng đã tạo ra hệ thống chính trị lạc hậu đó, ông ở Pháp nhiều
năm, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản những vẫn là một nhà Nho. Hơn nữa, tư
tưởng dân chủ tư sản mà Phan Chu Trinh theo là tư tưởng dân chủ tư sản kiểu
cũ, trên thế giới nó đã trở nên lỗi thời nhất là khi đã có cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công. Tư tưởng, đường lối, chủ trương của Phan Chu Trinh
cũng đã thất bại trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc.
- Chủ trương không “cầu ngoại viện”, không “ bất vọng ngoại” và
“bất bạo động” mà phát động phong trào dân chủ tự cường khai trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh, tổ chức thành lập các phường hội để dân làm giàu đồng thời
18
giáo dục ý thức yêu nước, dân chủ cho nhân dân, tập hợp lực lượng đòi quyền
độc lập dân tộc. Đại biểu cho xu hướng này là Huỳnh Thúc Kháng. Huỳnh
Thúc Kháng muốn theo một đường lối “cách mạng công khai” gồm 3 yếu tố:
phát triển trường học, mở mang báo chí, hoạt động ở nghị trường. Ông hy
vọng sẽ đòi được quyền lợi thiết thực cho dân để khai dân trí. Nhưng rồi tự
thân Huỳnh Thúc Kháng kinh nghiệm thấy không có con đường “ cách mạng
hoà bình” ở xứ thuộc địa, ở nơi có sự bảo hộ của đế quốc thực dân. Sự thất bại
của chủ trương này cũng là sự tan vỡ của “chủ nghĩa yêu nước ôn hoà”của các
trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX khi dùng nó để giải quyết mâu thuần dân tộc.

Tuy chủ trương và hoạt động của các khuynh hướng có khác nhau
nhưng giữa các khuynh hướng có sự bổ sung hỗ trợ cho nhau trên tinh thần
yêu nước, tôn trọng lý tưởng của nhau, tất cả chung mục đích cứu nước cứu
dân, đem lại độc lập dân tộc và dân chủ xã hội.
Những năm 20, 30 của thế kỷ XX trong lĩnh vực tư tưởng chính trị ở
•Việt Nam đã xuất hiện chủ nghĩa dân tộc cải lương. Đố'là tư tưởng chính trị xã
hội của giai cấp tư sản bản xứ. Giai cấp tư sản Việt Nam chủ yếu là giai cấp tư
sản thương mại chứ không phải là tư sản công nghiệp nên không mâu thuẫn
nhiều về quyền lợi kinh doanh với đế quốc thực dân nên họ chỉ yêu cầu với
Pháp những điều sửa đổi trong khuôn khổ chế độ thuộc địa, xin cải cách từng
phần, không đả động đến sự cai trị của Pháp ở nước ta, chống lại mọi hình
thức đấu tranh cách mạng của quần chúng. Trong lúc hô hào cải lương thì họ
cũng nói đến lợi ích dân tộc, đến tương lai dân tộc được Pháp bảo hộ chắc
chắn sẽ có ngày được bình đẳng với Pháp nhưng đó cũng chỉ là ảo tưởng bởi
chính sự bạc nhược, theo đuôi của giai cấp tư sản Việt Nam. Đại diện của
khuynh hướng tư tưởng này có thể kể đến: nhóm Đông Dương tạp chí ở Bắc kỳ
và Nguyễn Văn Vĩnh, nhóm Nam Phong và Phạm Quỳnh, nhóm Diễn đàn
Đông Dương và Bùi Quang Chiêu.
Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, tư tưởng chính trị của tầng lớp tiểu tư
sản ở Việt Nam chủ trương đi đến giành độc lập cho nước nhà bằng bạo động
cách mạng đánh đổ đế quốc thực dân biểu hiện bằng việc thành lập các đảng
19
chính trị, hội văn hoá, cơ quan ngôn luận và cả các đoàn thể đậm màu sắc tôn
giáo. Có thể nói đó là đường lối theo chủ nghĩa dân tộc cách mạng hay còn gọi
là chủ nghĩa quốc gia cách mạng, về thành phần xã hội thì đảng dân tộc cách
mạng như Việt Nam quốc dân đảng là một đoàn thể tiểu tư sản có tư tưởng
phản đế nhưng thực chất ý thức tư sản và ý thức tiểu tư sản về cơ bản là cùng
một hệ ý thức. Đảng dân tộc cách mạng yếu ớt về tổ chức, không quan tâm
đến lý luận tư tưởng, không phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân nên
cuối cùng cũng bị thực dân Pháp tiêu diệt. Sau năm 1930, phong trào quần

chúng lên cao dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì chủ nghĩa dân tộc cách
mạng bị phân hoá mạnh, một là quay đầu lại thoả hiệp với thực dân, hai là
những người yêu nước chân thành sẽ chuyển tư tưởng và hành động của mình
về phía phong trào quần chúng dưới sự lãnh đạo chính nghĩa của Đảng Cộng
sản. Sự chuyển biến của những người yêu nước này là sự chuyển biến vượt bậc
có thể so sánh với sự chuyển biến của các nhà Nho sang tư tưởng duy tân đầu
thế kỷ XX và động cơ của sự chuyển biến đó là tư .tưởng yêu nước truyền
thống Việt Nam. Sự bất lực hoàn toàn của hệ ý thức tư sản trước các nhiệm vụ
lịch sử của dân tộc Việt Nam thể hiện sứ lạc hậu, không phù hợp với điều kiện
khách quan cũng như chủ quan của Việt Nam . Lịch sử tư tưởng Việt Nam đòi
hỏi có một hệ ý thức mới, tiến bộ mang tầm thời đại để giải quyết các vấn đề
của dân tộc lúc bấy giờ.
Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga đã mở
đường cho nhân dân Việt Nam đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, đem đến cho
nhân dân Việt Nam thế giới quan tiên tiến của thời đại- thế giới quan làm cơ
sở cho việc vạch cương lĩnh, định đường lối đưa cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh- lúc đó là đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người
Cộng sản đầu tiên của Việt Nam đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Người đã dày công rèn luyện và đào tạo
lớp Ihanh niên trí thức và công nông về lý luận cách mạng, đưa họ vượt qua sự
hạn chế của chủ nghĩa yêu nước truyền thống mà hầu hết các sĩ phu phong
kiến đương thời không vượt qua được. Người đã giáo dục họ khắc phục những
2 0
I
bế tắc của các nhà cách mạng có xu hướng dân chủ tư sản. Chủ tịch Hồ Chí
Minh truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam trong khi phong trào đấu
tranh yêu nước , giải phóng dân tộc của nhân dân ta đang khao khát tìm con
đường giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của đế quốc Pháp, khỏi sự đô hộ
của chế độ phong kiến lỗi thời. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
đang cần có lý luận cách mạng soi đường để giai cấp công nhân giải phóng

mình và giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam rất chú
trọng đại đoàn kết dân tộc đặc biệt vận động trí thức yêu nước, không ngừng
cảm hoá, rèn luyện họ trở thành những chiến sĩ cách mạng giải phóng dàn tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này. Tâm trạng của cả lớp người có học
thức, cầu tiến bộ mà bị đế quốc phong kiến áp bức, kìm hãm; lớp người cảm
thấy thấm thìa cái nhục mất nước, cái khổ thiếu tự do, dẫn họ đến đấu tranh
yêu nước, chống đế quốc, chống phong kiến. Vì vậy bất cứ sự kiện nào liên
quan đến đấu tranh yêu nước là họ hào hứng tham gia, hành động nào chống
đế quốc phong kiến là họ ủng hộ. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem
1
đến cho nhân dân ta và những trí thức yêu nước nói riêng thế giới quan tiên
tiến của thời đại, làm cơ sở cho mọi suy nghĩ và hành động. Sau cách mạng
Tháng Tám, nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước đã tham gia nhiệt tình vào Chính
phủ, vào các tổ chức quần chúng cách mạng để cùng với Đảng, với nhân dân
xây dựng chế độ mới. Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng là một ví dụ điển
hình.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ra đời không những có ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc nói chung mà có ý nghĩa
đặc biệt đối với sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam nói riêng. Đó là
thành tựu vĩ đại, là kết quả minh chứng cho sự tiếp biến một cách hợp quy
luật khách quan của một ý thức hệ ở Việt Nam. Sự du nhập, truyền bá, sáng
tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng
hoảng tư tưởng Việt Nam diến ra từ cuối thế kỷ XIX.
21

×