Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Quyết định quản lý Nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.74 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÀ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đ Ỗ CÔ N G Q U Â N
QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CÃP TỈNH
- NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TlỂN
Chuvên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Ma sô: 6.01.01
LUẬN VÃN THẠC s ĩ KHOA HỌC LUẬT
• • » •
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ luật học Nguyễn Cửu Việt
Hà Nội, năm 2000
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẨU 1
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM QUYẾT ĐINH QUẢN LÝ NHÀ 6
NƯỚC CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Đặc điểm địa vị pháp lý của uỷ ban nhản dân cấp tỉnh 6
1.11. Vị trí, tính chất pháp lý 6
1 12 Tổ chức, cơ cấu 7
1 1 3 Hình thức hoạt động 7
1.14 Thẩm quyền 9
1 1 5 Các cơ quan chuyên mỏn thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh - bộ máy 12
giúp việc của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
1 2 Xảy dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước - hình thức 13
hoạt động chủ yếu của uỷ ban nhản dân cấp tỉnh
1 2 1 Khái niệm quyết định quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh 13
12 2 Xây dựng và ban hành quyết định quản lý - hình thức quản lý chủ yếu 17
của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
1 3 Phân loại quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp 22
tỉnh
1 3 1 Phân loại theo tính chất pháp lý 23


1 3 2 Phân loại theo hình thức pháp lý 34
1 3 3 Một số cách phân loại khác 35
CHƯƠNG 2: QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA UỶ 37
BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG HỆ THỐNG QUYẾT
ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA
2 1 Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của uV ban nhán dân 37
cấp tỉnh với quvết định pháp luật của co quan nhà nước cáp trẽn
2.1.1. Quan hộ giữa quyết định quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
2.1.2. Quan hệ giữa quyết định quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với
quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ
2.2. Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh với quyết định pháp luật của hội đồng nhân dân cùng cấp
2 3 Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh với quyết định pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp
dưới
2.3.1. Quan hệ giữa quyết định quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với
quyết định quản lý nhà nước của cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh
2.3.2. Quan hệ giữa quyết định quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với
quyết định pháp luật của hội đồng nhân dán và uỷ ban nhân dân cấp
huyện
2.4. Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhản dân
cấp tỉnh với quyết định pháp luật của toà án nhân dân và viện
kiểm sát nhân dán
2.4.1. Quan hộ giữa quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh với quvết định pháp luật của toà án nhân dân
2.4.2. Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp

tỉnh với quyết định pháp luật của viện kiểm sát nhân dân
CHƯƠNG 3: THỦ TỤC XÀY DỤNG VÀ BAN HÀNH QUYẾT
ĐỊNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ƯỶ BAN NHÀN DÂN CẤP
TỈNH
3 1. Thực trạng thủ tục xây dựng và ban hành quvết định quản lý nhà
nước của ủv ban nhân dân cấp tỉnh
37
38
41
47
47
49
52
52
54
60
60
3.1.1. Khái niệm thủ tục xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước 60
3.1.2. Các quy định pháp luật về thủ tục xây dựng và ban hành quyết định 63
quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
3.1.3. Thực tiễn thủ tục xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà 76
nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
3 2. Các giải pháp hoàn thiện thủ tục xây dựng và ban hành quyết định 87
quản lý nhà nước của uỷ ban nhàn dân cấp tỉnh
3 2 1 Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục xây dựng và 87
ban hành quyết định quản ]ý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
3 2 2 Các giải pháp hoàn thiện thực tiễn hoạt động xây dựng và ban hành 92
quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
3 2 3 Các giải pháp hoàn thiện các biện pháp bảo đảm cho hoạt động xây 99
dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân

cấp tỉnh
KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TẠI LIỆU THAM KHẢO 106
MỞ ĐẨU
1
1. Tính cấp thiết của để tài
Như chúng ta đã biết, xây dựng và ban hành quyết đinh quản lý nhà
nước là hình thức hoạt động chủ yếu của các chủ thể quản lý nhà nước.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 11 năm
1996, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong sự điều chỉnh pháp luật
đối với hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật. Tuy vậy, về cơ
bản Luật này và Nghị định 101/CP hướng dẫn thi hành Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật chỉ điều chỉnh hoạt động ban hành văn bản quy
phạm pháp luật ở các cơ quan trung ương, chưa điều chỉnh hoat đôns xây
dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước của các cơ quan chính
quyền địa phương.
Hiện nay, ờ một số tỉnh đã ban hành Quy chế hoặc Bản quy định tạm
thời về trình tự, thẩm quyền ban hành quyết định quản lý của uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh, tuy nhiên, những quy đinh này còn thiếu chặt chẽ, chưa tạo
được sự thống nhất trong hoạt động xây dựng và ban hành các quyết đinh
quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Từ đó, thẩm quyền ban
hành quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và của chủ
tịch uỷ ban nhân dân chưa thực sự có sự phân biệt về phạm vi cũng như
hình thức quyết định quản lý.
Thực tiễn hoạt động xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà
nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cũng rất đa dạng và thiếu nhất quán, có
tỉnh do cơ quan chuvên môn soạn thảo trình uỷ ban nhân dân thông qua, có
tỉnh do thư ký phụ trách lĩnh vực soạn thảo trình phó chủ tịch uỷ ban nhân
dân ký ban hành. Hơn nữa, ở một số tỉnh chưa đáp ứng các điéu kiện cán

thiết cho hoạt động xây dựng và ban hành quyết định quản ]ý nhà nước cua
uỷ ban nhân dân cấp tình như kinh phí, tài liệu
2
Chính từ đó dẫn đến những yếu kém trong hoạt động xây dựng và
ban hành quyết đinh quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Hiện
tượng ban hành sai thẩm quyền, nội dung không bảo đảm tính hợp pháp và
hợp lý diễn ra tương đối phổ biến. Do vậy, việc hoàn thiện những quy định
của pháp luật về hoạt động ban hành quyết đinh quản lý nhà nước cũng như
thực tiễn hoạt động ban hành quyết đinh quản lý nhà nước của uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh là việc làm hết sức cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc
áp dụng thống nhất quy trình xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà
nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đổng thời bảo đảm cho nội dung của
quyết đinh quản lý nhà nước có tính khả thi cao, có hiệu lực trong thực tế
cuộc sống.
Xuất phát từ những yêu cầu và thực tiễn trên, chúng tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu “Quyết đinh quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước của
các cơ quan chính quyền địa phương nói chung và của uỷ ban nhân dân nói
riêng đang là vấn đề rất được quan tâm dưới góc độ lý luận và thực tiễn.
Tại Việt Nam đã có một số cống trình nghiên cứu về những vấn đề
xung quanh hoạt động ban hành quyết định quản lý của các cơ quan chính
quyền các cấp như: "Phê chuẩn quyết định: lý luận, thực tiễn và đổi mới",
"Đình chỉ, sửa đổi, bãi bỏ quyết định: lý luận, thực tiễn và đổi mới ”, "Cơ
chế giám sát việc ban hành các văn bản pháp luật" của tác giả Nguyễn Cửu
Việt, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, năm 1988, 1989 và 1993; "Cơ sở lý
luận, thực tiễn phân định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan chính quyền địa phương” của tác siả Thái Vĩnh Thắng- "Về
thẩm quyền của hội đổng nhân dân và uỷ ban nhân dán trong việc bãi bỏ

vãn bản sai trái" của tác giả Nguyễn Cường, Sở Tư pháp Hà Tinh; "Về
quyết định hành chính và quyền khiếu kiện đối với quvết định hành chính"
của tác giả Đinh Văn Mậu, Tạp chí Luật học, năm 1995; "Bàn về quy trình
xây dựng văn bản quản lý hành chính" của tác giả Nguyễn Thế Quyền, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, năm 1996; Giáo trình Luật hành chính, Khoa
Luật, Trường Đại học KHXH và NV, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 1997;
Giáo trình Luật Hành chính, Trường Đại học Luật Hà nội, năm 1997; "Tìm
hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp
năm 1992", Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1994 Tuy
nhiên, các cống trình đó chưa nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về hoạt động
ban hành quyết đinh quản lý của các cơ quan chính quyền địa phương (đặc
biệt chưa đi sâu phân tích hoạt động ban hành văn bản của uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh) và còn đặt ra một số vấn đề cần làm sáng tỏ. Vì vậy, việc nghiên
cứu sâu sắc và có hệ thống các vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn liên
quan đến quyết đinh quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để từ
đó đưa ra những kiến nghị nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực tiễn hoạt động xây dựng và ban hành quyết định
quản lý của uỷ ban nhân dân đang là vấn đề hết sức cấp bách.
3. Phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là vấn đề
lớn, trong đó có nhiều nội dung có liên quan như khái niệm, nội dung của
quyết định, vị trí, vai trò, thủ tục và một số yêu cầu liên quan đến tính hợp
pháp và hợp lý của quyết định.
Phạm vi nghiên cứu mà chúng tôi muốn đặt ra trong luận văn này chỉ
giới hạn những vấn đề ]ý luận và thực tiễn liên quan đến khái niệm, phấn
loại quyết định quản ]ý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, vị trí của
quyết định quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong hệ thống các quyết
định pháp luật của Nhà nước ta và thủ tục xây dựng và ban hành loại quyết
định này. Những nội dung này, theo chúng tôi là quan trọng và cũng đang
là vấn đề hết sức cấp bách, cần được nghiên cứu.

Mục đích của Luận văn là trên cơ sở phân tích rõ bản chất, vị trí, vai
trò quyết đinh quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thông qua
việc nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động xây
dựng và ban hành quyết đinh quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh nhằm rút ra kết luận để đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn
thiện hoạt động xây dựng và ban hành loại quyết định quản lý nhà nước
quan trọng này.
Để thực hiện mục đích trên, luận vãn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, khái quát những nét cơ bản về địa vị pháp lý của uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, vai trò quan trọng của hoạt động xây dựng và ban hành quyết định
quản lý nhà nước trong hệ thống các hình thức hoạt động nói chung của uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh.
Hai là, làm rõ vị trí của quvết đinh quản lý nhà nước của u ỷ ban nhân dân
cấp tỉnh trong hệ thống các quyết định pháp luật của Nhà nước ta.
Ba là, đánh giá khái quát thực trạng các quy định của pháp luật liên quan
đến hoạt động ban hành quyết đinh quản lý nhà nước của uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh và thực tiễn hoạt động ban hành quyết định quản lý nhà nước cúa
uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Bốn là, mạnh dạn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
điều chỉnh hoạt động ban hành quyết định quản lý nhà nước của uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh cũng như cơ chế, thủ tục và điều kiện bảo đảm cho hoat
động đó.
4. Co sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận vãn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của
triết học Mác - Lênin. các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hổ Chí Minh, lý luận về nhà nước và
pháp luật và các quan điểm của Đảng và Nhà nước trons giai đoạn hiện
nay. Bên cạnh đó. tác giả còn sử dụng các phươns pháp cụ thể như phán
tích tổng hợp, quy nạp và diễn giải, phương pháp hệ thống, phương pháp
lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học

5. Những điểm mới và ý nghĩa của Luận văn
Luận văn có những điểm mới sau đây:
- Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý nước ta
đánh giá khái quát và phân tích một cách có hệ thống về quyết định quản lý
nhà nước của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
- Lần đầu tiên trong khoa học pháp lý nước ta, trên cơ sở lý luận về quyết
định quản lý nhà nước , phân tích một cách hệ thống thực trạng hoạt động
xây dựng và ban hành quyết đinh quản lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
những khó khăn và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động
này.
- Đưa ra các kiến nghị mới cụ thể góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
liên quan đến hoạt động xây dựng và ban hành quyết định quản lý của uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời với những kiến nghị nhằm hoàn thiện thực
tiễn hoạt động này.
Những kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được tham khảo và
vận dụng từng bước vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyết định
quản lý của uỷ ban nhân dân, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu giảng dạy chuyên đề về quyết đinh quản lý nói chung.
6. Cơ cáu luận vãn
Luận vãn gồm: Phần Mở đầu, ba chương, Phần kết luận và Danh mục
tài liệu tham khảo.
6
CHƯƠNG I - KHÁI NỆM QUYẾT ĐỊNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Đặc điểm địa vị pháp lý của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
7.7.7. Vị trí, tính chất pháp lý
Theo quy đinh của Hiến pháp thì “Uỷ ban nhân dân do hội đổng nhân
dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của hội đổng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật,
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân

dân"[23, Đ 123l Tương tự, uỷ ban nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) cấp
tỉnh do hội đổng nhân dân (sau đây gọi tất là HĐND) cấp tỉnh bầu ra, chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cấp tỉnh. Nếu coi HĐND với
tư cách là cơ quan đại biểu của nhân dân ở địa phương thì UBND với ý
nghĩa là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở địa
phương, có vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức và chỉ đạo việc thi
hành các nghị quyết của HĐND.
Một đổi mới quan trọng về vị trí, tính chất pháp lý của UBND được
ghi nhận trong Luật sửa đổi “Luật tổ chức Hội đổng nhân dán và uỷ ban
nhân dân 1983” ban hành năm 1989 (sau đây gọi tắt là Luật năm 1989), đó
là sự xuất hiện của thường trực HĐND với tư cách là cơ quan bên trong của
HĐND. Luật tổ chức Hội đổng nhân dân và uỷ ban nhân dân (sửa đổi) năm
1994 (sau đây gọi tắt là Luật năm 1994) vẫn giữ quy định này băng viêc
quy định thường trực HĐND được thiết lập ở cấp tỉnh và cấp huyện 1 18 11
181 ]
Quyết định mới này có tác dụng xác định rõ hơn vị trí, tính chất của
ƯBND, ƯBND khồng còn có tư cách “hai mãt” (vừa là “cơ quan thường
trực” vừa là cơ quan chấp hành của HĐND) i lồ-ư 181J
/
1.1.2. Tổ chức, cơ cấu
Theo quy đinh của luật hiộn hành, UBND được thiết lập ở cả 3 cấp:
tỉnh, huyện và xã. ƯBND cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành viên, riêng ƯBND
Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có không quá 13 thành
viên[31, \
Thành phần của UBND gồm có chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên.
Khác với Luật Tổ chức Hội đổng nhân dân và u ỷ ban nhân dân năm 1983
(sau đây gọi tắt là Luật năm 1983), Luật năm 1994 và Luật năm 1989 quy
đinh: ngoài chủ tịch UBND, các thành viên khác không nhất thiết phải là
đại biểu HĐND. Đổi mới này cùng với việc bỏ chức năng thường trực
HĐND, càng tách rõ hơn chức năng chấp hành của UBND ra khỏi chức

năng của HĐND[ls-ư-182].
Cũng như các cấp khác, UBND cấp tỉnh do HĐND cấp tỉnh thành lập,
song kết quả bầu các thành viên của UBND cấp tỉnh phải được Thủ tướng
Chính phủ phê chuẩn (Điều 46 Luật năm 1994). Tuy nhiên, cũng như Luật
năm 1989, Luật năm 1994 chưa tính đến trường hợp rất có khả năng xảy ra
trong thực tế, đó là Thủ tướng Chính phủ không phê chuẩn kết quả bầu cử
nói trên.
1.1.3. Hình thức hoạt động
Theo Luật năm 1989, UBND làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh
đạo (Điều 52). Sau khi Hiến pháp năm 1992 ban hành, nguyên tắc này được
sửa đổi thành nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 3 Luật năm 1994) [18' ư
Hiến pháp năm 1992 và Luật mới đã tăng cường quyền hạn của cá
nhân chủ tịch ủy ban. Chẳng hạn, chủ tịch UBND có quyền lãnh đao. điêu
hành hoạt động của uỷ ban, đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định
quản lý sai trái của các cơ quan thuộc UBND và các quyết định quan lý sai
trái của UBND cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của HĐND
cấp dưới, đồng thời đề nghị HĐND cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó.
Quyền này trước đây thuộc tập thể uỷ ban, nay quy định cho chủ tịch1'8
ư.185] ỊQịông những thế, các quyền đình chỉ, bãi bỏ quyết đinh quản lý nói ở
đây còn được quy đinh trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 124). Điều này có
nghĩa là chủ tịch UBND có quyền ra quyết định quản lý nhà nước - một loại
quyết đinh pháp luật quan trọng. Quyền này còn được thể hiện gián tiếp tại
Điều 114 Hiến pháp năm 1992 thông qua quyền của Thủ tướng Chính phủ
đình chỉ, bãi bỏ quyết đinh quản lý của chủ tịch UBND cấp tỉnh.
Tuy vậy, chế độ tập thể vẫn còn rất quan trọng, vì: “Khi quyết định
những vấn đề quan trọng ở địa phương, uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập
thể và quyết đinh theo đa số” (Điều 2 Hiến pháp năm 1992, Điều 48 Luật
năm 1994). Nhằm phân định thẩm quyền của tập thể uỷ ban với nhiệm vụ,
quyền của cá nhân chủ tịch UBND, Luật hiện hành còn quy định một danh
mục bốn loại vấn đề được thảo luận và biểu quyết theo đa số, đó là:

- Chương trình làm việc của UBND;
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách, quyết
toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ ở địa phương trình HĐND;
- Các biện pháp thực hiện nghị quyết của HĐND về kinh tế - xã
hội, thông qua báo cáo của ƯBND trước HĐND;
- Đề án thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên
môn thuộc ƯBND và việc phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính ở địa phương131, Đ 49].
Điều đáng nói ở đây là trong bốn loai vấn đề phải thảo luận tập thể và
biểu quyết theo đa số không đề cập tới hoạt động ban hành quvết định
quản lý của UBND. trong đó có cả những quyết định m ans tính quy pham
và chủ đạo. Theo chúng tôi, việc xem xét thóng qua các quyết đinh, chỉ thị
mang tính chủ đạo và quy phạm của UBND phải được đưa vào nội dung các
phiên họp của UBND.
Chủ tịch ƯBND là người lãnh đạo và điều hành công việc của UBND,
cùng với tập thể UBND chịu trách nhiệm về hoạt động của UBND trước
HĐND và với cơ quan nhà nước cấp trên. Hiệu quả hoạt động của uỷ ban
được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động của tập thể UBND, của chủ tịch
UBND và của các thành viên UBND.
Là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chủ
tịch UBND thực hiện hai nhóm nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu sau đây: Thứ
nhất, những thẩm quyền mà Hiến pháp và luật trao đích danh cho chủ tịch
UBND; thứ hai, những nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp mình, trừ
những vấn đề mà Luật đòi hỏi ƯBND phải thảo luận tập thể và quyết định
theo đa số.
Chủ tịch UBND cấp tỉnh triệu tập và chủ tọa các phiên họp của UBND
cấp tỉnh, phê chuẩn kết quả bầu thành viên của UBND cấp huyện, điều
động, miễn nhiệm, cách chức chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện
Chủ tịch UBND lãnh đao công tác của UBND, các thành viên của
UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Các phó chủ tịch là người

giúp chủ tịch chỉ đạo việc thực hiện một số mảng hoạt động của UBND
theo sự phân công của chủ tịch UBND. Chính vì vậy, các phó chủ tịch phải
thường xuyên giữ mối liên hệ và báo cáo vói chủ tịch UBND, chịu trách
nhiệm vể phần công việc của minh[31,Đ 51-2
1.1.4. Thẩm quyền
Là cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền chung, kết hợp việc quản lý
ngành và quản lý theo lãnh thổ, UBND cấp tỉnh thực hiện việc quản lý trong
địa bàn tỉnh trong các lĩnh vực nông nghiệp, lám nghiệp, ngư nshiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương mại, du lịch, vãn hóa, giáo due. V tế, khoa học,
công nghệ và môi trường, thể dục, thể thao, báo chí, phát hành, truyền hình
và các lĩnh vực xã hội khác, quản lý nông nghiệp về đất đai và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên khác, quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn đo lường chất
lượng sản phẩm hàng hóa[31Đ 43]. Do vậy, lĩnh vực quản lý là cãn cứ phân
loại các nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh.
Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xác đinh khối lượng thẩm quyền
của UBND hình thành chủ yếu dựa trên sự phân cấp quản lý giữa bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ với các cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương.
Như chúng ta đã biết, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước. Là cơ
quan quản lý thẩm quyền riêng, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính
phủ có trách nhiệm xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành, lĩnh vực ở quy mô toàn quốc và tổ chức hướng dẫn các ngành, các
cấp thực hiện sau khi được chính phủ phê duyệt. Với tinh thần cải cách nền
hành chính quốc gia, Đảng và Nhà nước ta trong thời gian gần đây có chủ
trương, một mặt, giảm dần số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, mặt khác,
nhấn mạnh chức năng hoạch đinh chính sách ở tầm vĩ mô, vai trò dự báo và
định hướng phát triển của các bộ, cơ quan ngang bộ[2].
Như vậy, mục đích của Đảng và Nhà nước ta là giải phóng các cơ quan
này khỏi những nhiệm vụ không đúng tầm cỡ hoặc không nhất thiết phải có

sự can thiệp của trung ương. Mặt khác, thực tế hoạt động quản lý cho thấy,
nhiều công việc được các cơ quan nhà nước ở địa phương thực hiện sẽ đảm
bảo linh hoạt, hiệu quả hơn do các cơ quan này gần với đối tượns quản lý
và hiểu biết về địa bàn. Do vậy, để bảo đảm tính liên tục và hiệu quả cua
hoạt động quản lý, pháp luật hiện hành quy đinh: Bộ trình Chính phu quyết
định nội dung quản lý nhà nước của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đối với ngành, lĩnh vực; hướng dẫn, kiểm tra ƯBND cấp tỉnh về việc
phân cấp cho UBND cấp huyện và xã về nội dung quản lý ngành, lĩnh vực
do Bộ quản lý[35 Đ 17].
Pháp lệnh về nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của Hội đổng nhân dân và ưỷ
ban nhân dân ở mỗi cấp quy định hệ thống thẩm quvền của UBND tương
ứng với các lĩnh vực quản lý của các cơ quan này. Tuy vậy. qua quá trình
thực hiện Pháp lệnh đã bộc lộ một số nhược điểm cần khắc phục, v ề mặt kỹ
thuật, Pháp lệnh sử dụng phương pháp liệt kê để pháp điển hóa những
nhiệm vụ, quyền hạn của UBND ở mỗi cấp được quy định rải rác ở một số
lượng lớn các văn bản pháp luật. Như vậy, khó có thể cho rằng pháp luật có
tính tổng hợp cao và tính khái quát. Trong khi đó, việc phân cấp quản lý
luôn chịu sự tác động của sự phát triển các quan hệ kinh tế - xã hội và có
tính biến động linh hoạt. Điều đó dẫn đến khả năng một số nhiệm vụ, quyền
hạn mói phát sinh sẽ không được ghi nhận một cách hoàn toàn trong pháp
luật. Mặt khác, pháp luật có xu thế “bình quân hóa” khối lượng thẩm quyền
của các đơn vị hành chính trong cùng một cấp chính quyền mà trên thực tế,
chúng khác xa nhau về đặc điểm tự nhiên và xã hội, dân số, diện tích, trình
độ và năng lực quản lý của cán bộ.
Ở đây có một thực tế là các tỉnh có đặc thù riêng của mình về điều
kiện kinh tế - xã hội - dân số cũng như những đặc điểm tự nhiên và xã hội.
Ngoài ra, giữa tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương cũng có sự khác xa
nhau về điều kiện kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của
các UBND ở các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương hoăc giữa các tỉnh
khác nhau cũng khác nhau.

Một ví dụ khác, một số tỉnh có đồng bào thiểu số cư trú, trong khi một
số tỉnh, thành phố lại không có đặc điểm nàv dẫn đến việc thực hiện chính
sách dân tộc giữa các tỉnh có sự khác nhau.
Để thực hiện các nhiệm vụ, chức năng, các quyền và nghĩa vu chung
của mình, UBND được quyền ra quyết định, chỉ thị trone phạm vi thẩm
quyền và kiểm tra việc thi hành những quyết đinh quản lý đó (khoản 2 Điều
124 Hiến pháp năm 1992, Điều 41 Luật năm 1994). Chủ tịch ủy ban cũng
được giao những quyền hạn cụ thể, quan trọng. Tuy nhiên, cả Hiến pháp và
luật đều chưa quy đinh rõ quyết định quản lý nào là của tập thể UBND,
quyết đinh quản lý nào là của chủ tịch uỷ ban, tuy như trên đã phân tích,
chính Hiến Pháp năm 1992 và Luật năm 1994 đã gián tiếp trao cho chủ tịch
ƯBND quyền ra quyết đinh quản lý nhà nước118' ư l87]. Đây chính là vấn đề
quan trọng cần làm sáng tỏ và cần được quy định thật rõ ràng, bởi quyền
ban hành quyết định quản lý nhà nước là phương tiện pháp lý quan trọng
nhất để cơ quan nhà nước nói chung, chủ tịch UBND nói riêng, thực hiện có
hiệu quả chức nãng, nhiệm vụ của mình.
1.1.5. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh - bộ máy giúp việc
của UBND cấp tỉnh
Sẽ là một khiếm khuyết nếu trong nhận đinh tổng quan về địa vị pháp
lý của UBND chúng ta không nêu khái lược về các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là bộ máy
giúp việc của UBND cấp tỉnh. Các cơ quan này, một mặt, giúp UBND cấp
tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh, chịu sự chỉ đạo
và quản lý tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp tỉnh, mặt khác bảo
đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của ngành, lĩnh vực công tác từ trung
ương đến cơ sở và chịu sự chỉ đạo về chuyên món, nghiệp vụ cùa bộ, cơ
quan ngang bộ.
Các cơ quan chuyên môn tuy theo luật được gọi là thuộc UBND cùng
cấp, nhưng thực tế đa phần trong số này được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc “hai chiều trực thuộc”. Theo chiều ngang, thủ trưởng cơ quan

chuyên môn chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước ƯBND (Điều 56
Luật năm 1994). Theo chiều dọc, cơ quan chuvên môn chiu sự ch] đao về
nghiệp vụ, đổng thời chịu trách nhiệm và báo cáo cóng tác trước cơ quan
chuyên môn cấp trên (Điều 54 Luật năm 1994)[l8' ư 188189ỉ Căn cứ vào hoạt
động thực tiễn, rõ ràng chiều trực thuộc ngang là cơ bản đối với đa phần các
cơ quan chuyên môn. Tuy vậy, có cơ quan chỉ trực thuộc ngang (văn
phòng), có loại chủ yếu trực thuộc dọc (công an, quân đội, bưu điện )ri4)-
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan chuyên
môn có quyền ra quyết đinh pháp luật. Quyền này được ghi nhận một cách
gián tiếp tại Điều 124 Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, đáng tiếc rằng, trong
suốt vài chục năm trở lại đây và hiện nay, pháp luật nước ta chưa có quy
định về hình thức pháp lý (tên) của quyết đinh mà cơ quan này được ban
hành, trình tự ban hành và hiệu lực pháp lý của chúng[18-ư 189]. Thực tiễn này
có lẽ là hộ quả của những quan điểm chưa thống nhất về việc có nên trao
cho loại cơ quan này quyền ban hành quyết đinh quản lý nhà nước hay
không, đặc biệt là quyết đinh quy phạm. Đây là vấn đề quan trọng mà luân
văn cũng cần dừng lại phân tích (xin xem Phần 2.3.1.), vì nó liên quan trực
tiếp tới quyền ban hành quyết định quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh.
1.2. Xây dựng và ban hành quyết định quản ly nhà nước - hình thức
hoạt động chủ yếu của UBND cấp tỉnh
Lý luận về quyết đinh quản lý nhà nước đã chỉ ra rằng, để thực hiện
các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước, các chủ thể quản lý sử dụng
những hình thức hoạt động khác nhau, nhưng hình thức cơ bản và quan
trọng nhất là hoạt động xây dựng và ban hành quyết đinh quản lý nhà
nước[l8- ư 273].
UBND cấp tỉnh với tính chất là một chủ thể quản lý nhà nước, cũng
hoạt động với hình thức chủ yếu là ban hành các quyết đinh quản lý nhà
nước.
1.2.1. Khái niệm quyết định quản lý nhà nước cùa UBND cấp tỉnh
v ề bản chất quyết đinh quản lý nhà nước, hiện có rất nhiều quan điểm

khác nhau liên quan đến nội dung này. Khái niệm “quyết định” bắt nguồn
từ thuật ngữ tiếng Latinh “ACTUS” mà một trong những ý nghĩa của nó là
hành động, hành vi. Người ta còn gọi quyết đinh pháp luật là mệnh lệnh, là
sự thể hiện ý chí quyền lực, là văn bản, là kết quả và hình thức thể hiện của
hoạt động nhà nước[l8-ư 2741.
Trong sách báo pháp lý nước ngoài, người ta cho rằng hành động và
hoạt động dẫn đến hậu quả pháp lý là một quyết định pháp luật. Trong sách
báo chính trị - pháp lý nước ta, người ta thường đồng nhất khái niệm quyết
định pháp luật với văn bản. Nhưng thật ra văn bản pháp luật chỉ là một
trong những hình thức thể hiện ra bên ngoài của quyết đinh pháp luật mà
thôi. Quan điểm cho rằng quyết định là hành động, là sự thể hiện ý chí
(thực ra cũng là hành động) đã gần với bản chất của quyết định pháp luật
nhưng chưa thật chính xác, chưa cụ thể, chưa thể hiện rõ vị trí của quyết
đinh pháp luật trong hệ thống các phương tiện quản lý. Mặt khác, quan
niệm này không cho phép phân biệt được quyết định pháp luật với các hành
động gắn liền với chủ thể, không tổn tại thiếu chủ thể. Trong khi đó quyết
đinh pháp luật có thể tổn tại không phụ thuộc vào sự tồn tại của chủ thể ban
hành ra nó (người có thẩm quyền và cơ quan ban hành quyết đinh có thể
không còn giữ chức vụ cũ, đã bị giải thể, nhưng về nguyên tắc chung, quyết
đinh pháp luật đó vẫn còn hiệu lực pháp luật). [18 ư 2741
Ngoài ra, quan điểm này không cho phép phân biệt quyết đinh pháp
luật với các hoạt động có tính cưỡng chế có siá trị pháp lý cao của nhữns
người đại diện cho quyền lực nhà nước như: dẫn giải phạm nhân, khám
nhà ll8,ư 274]
Quan điểm cho quyết định pháp luật là kết quả và là hình thức thể hiện
của hoạt động nhà nước cũng đã tiếp cận với bản chất của quyết định pháp
luật nhưng còn chung chung, chưa thật chính xác. Từ sự phán tích trén. có
thể thấy quyết định quản lý nhà nước là kết quả của hoạt động mang tính
pháp lý, quyền lực - kết quả sự thể hiện ý chí quyền ỉ ực nhà nước. ll8ư 2751
Quyết đinh quản lý nhà nước là một loại quyết đinh pháp luật, vì vậy

nó có tất cả những tính chất của một quyết đinh pháp luật. Các tính chất
quyết đinh quản lý nhà nước là tính ý chí, tính quyền lực nhà nước bởi lẽ,
cũng như các loại quyết đinh pháp luật khác, nó là kết quả sự thể hiện ý chí
của các chủ thể quản lý có thẩm quyền thực hiện nhân danh nhà nước, vì lợi
ích của nhà nước. Trong quyết đinh quản lý nhà nước ý chí của nhà nước
thể hiện một cách tập trung nhất và mang tính quyền lực. Đó là ý chí đơn
phương của nhà nước mà mọi chủ thể pháp luật khác đều phải tuân theo nếu
họ thuộc phạm vi tác động của quyết đinh đ ó.118,11 2761
Hai đặc điểm này cho phép phân biệt quyết định quản lý nhà nước với
các hoạt động tổ chức - xã hội trực tiếp, các tác nghiệp vật chất - kỹ thuât.
Tính pháp lý thể hiện ở hệ quả pháp lý của nó, đó là sự thay đổi trong
cơ chế điều chỉnh pháp luật. Bởi vì, quyết định quản lý nhà nước: hoạch
định chủ trương, đường lối, nhiệm vụ lớn cho hoạt động quản lý; đặt ra, sửa
đổi , bãi bỏ các quy phạm pháp luật hoặc làm thay đổi phạm vi hiệu lực của
chúng; làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
[18.tr. 276]
Ngoài ra, quyết đinh quản lý nhà nước có những tính chất khác với
mọi quyết định pháp luật nói chung, những tính chất này được gọi là các
đặc trưng. [l8 ư 2771
Đặc trưng đầu tiên là tính dưới luật. Xuất phát từ nsuyén tắc pháp chế
trong hoạt động quản lý nhà nước, thể hiện ở chỗ các quyết định quản lv
nhà nước được ban hành trên cơ sở và đê cu thể hóa luật. Nếu xem xét chủ
thể là UBND cấp tỉnh thì quyết định quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh
được ban hành phải phù hợp và để thi hành khống chỉ Hiến pháp, luât, pháp
lệnh, mà mọi quyết đinh pháp luật của các cơ quan Nhà nước cấp trên và cơ
quan quyến lực cùng cấp (nghị quyết của HĐND cấp tỉnh).
Tính dưới luật của quyết đinh quản lý nhà nước khống chỉ gắn với nội
dung mà cả trình tự xây dựng, ban hành và hình thức của quyết định. Có
nghĩa là, quyết đinh quản lý nhà nước phải được ban hành theo hình thức và
trình tự do pháp luật quy định (pháp luật ở đây theo nghĩa rộng - nghĩa là

mọi quy đinh của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền).I18,lr 2771
Đặc trưng cơ bản thứ hai và là thuộc tính của quyết định quản lý nhà
nước, đó là quyết đinh quản lý nhà nước ban hành để thực hiện các nhiệm
vụ và chức năng quản lý nhà nước. Chủ thể chủ yếu ban hành quyết đinh
quản lý nhà nước là các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng các cơ quan khác
cũng ban hành quyết định quản lý nhà nước khi chúng thực hiện những mặt
hoạt động mang tính chất chấp hành và điều hành. Như vậy, hoạt động chấp
hành và điều hành là giới hạn để phân biệt quyết định quản lý nhà nước với
các quyết đinh pháp luật khác.[18 ư 2781
ƯBND cấp tỉnh là một chủ thể quản lý, là cơ quan quản lý thẩm quyền
chung trên địa bàn tỉnh. UBND cấp tỉnh cũng ban hành quyết định quản lý
nhà nước của mình để thực hiện chức năng quản lý. Cũng như các quyết
đinh quản lý nhà nước nói chung, quyết đinh quản lý nhà nước của UBND
cấp tỉnh được ban hành để cụ thể hóa văn bản pháp luật của các cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Trên cơ sở khái quát bản chất, đăc trưng và thuộc tính của quyết đinh
quản lý nhà nước, có thể định nghĩa quyết định quản lý nhà nước của
UBND cấp tỉnh: ìà kết quả sự thê hiện V chí, quyên lực đơìì phương của
UBND cấp tỉnh, chủ tịch UBND cấp tỉnh, được thực hiện trên cơ sở và để
thi hành luật, theo trình lự và hình thức do ìuậỉ định, nhằm định ra chủ
trươììg, đườĩìg lôi, nhiệm yụ ỉớìì có tính chất đinh Ìiướììg; hoặc đặí va. sửa
đổi, bãi bỏ, áp dụng các quy phạm phup luật hay làm thay đổi phạm w hiệu
lực của chúng; hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp
luật cụ thề’ đ ể thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước của
UBND cấp tỉnh và của chủ tịch ƯBND cấp tỉnh.
1.2.2. 'X ây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước của UBND cấp
tỉnh - hình thức quản lý chủ yếu của UBND cấp tỉnh
Lý luận về quyết định quản lý nhà nước đã chỉ ra rằng hoạt động xây
dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước là hình thức quản lý chủ
yếu. Cũng như vậy, hoạt động xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà

nước của UBND cấp tỉnh là hình thức hoạt động chủ yếu của UBND cấp
tỉnh. Cần phải nhận thấy rằng, bên cạnh hoạt động ban hành quyết định
quản lý nhà nước, UBND cấp tỉnh còn thực hiện những hình thức quản lý
khác như: thực hiện các hoạt động tổ chức - xã hội trực tiếp, thực hiện các
hoạt động mang tính chất tác nghiệp vật chất - kỹ thuật cụ thể, hoặc hợp
đồng hành chính
Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền han cụ thể của Hội đổng nhân dân và
u ỷ ban nhân dân ở mỗi cấp đã quy định tương đối rõ nét nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể của UBND cấp tỉnh trong các lĩnh vực cụ thể. Qua nghiên cứu
các nhiệm vụ, quyền hạn, chúng ta có thể thấy bên cạnh hoạt động ban
hành quyết định quản lý, UBND cấp tỉnh còn thực hiện nhiều hoạt động
khác.
ƯBND cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ. quyền hạn của mình tổ chức
triển khai, chỉ đạo thực hiện các để án. chương trình, dự án trong các lĩnh
vực trên địa bàn tỉnh, tham gia với các bộ. ngành, trung ươns xây dựng các
chương trình dư án của bộ, ngành, truns ương trên địa bàn tỉnh. Nsoài ra.
UBND tỉnh còn tổ chức các hội thi phong trào thi đua, mít tinh, tuần hành
trên địa bàn tỉnh như: tuyên truyền, phổ biên, giáo dục pháp luật, phòne
chống các tệ nan xã hội, các hội diễn thê due thể thao, triển lãm hội chợ.
sinh hoạt văn hóa trên địa bàn tỉnh. UBND cấp tỉnh cấp. thu hổi siấ\ phép
* # _ V A h 4 * 1
'7^ :,M . '-)<
\ Z T i / 'rX
17
kinh doanh du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, cho phép thành lập. giải thể,
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước theo phân cấp của Chính phủ; cấp,
thu hồi giấy phép thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, cho phép các tổ chức kinh tế trong nước đặt văn
phòng đại diộn, chi nhánh hoạt động trên địa bàn tỉnh [41' Đ l9*23]
Như vậy, bên cạnh hoạt động ban hành quyết định quản lý, UBND cấp

tỉnh còn thực hiện rất nhiều các hoạt động tổ chức - xã hội hoặc mang tính
tác nghiệp vật chất - kỹ thuật. Quản lý thực chất là hoạt động tổ chức. Nó
có thể được thực hiện thông qua việc ban hành các quyết định pháp luât,
nhưng trong nhiều trường hợp chỉ cần áp dụng hoạt động tổ chức trực tiếp.
[18. ư. 279]
Những hoạt động tổ chức - xã hội trực tiếp cụ thể trong hoạt động của
UBND cấp tỉnh bao gồm các hoạt động tổng kết, phổ biến kinh nghiệm, tổ
chức kiểm tra, điều phối hoạt động, nghiên cứu dư luận, lấy ý kiến tham
khảo; tổ chức các cuộc hội thảo, thảo luận, soạn thảo kế hoạch hoạt động,
tổ chức các cuộc mít tinh, tuần hành, phong trào thi đua Với tính chất là
cơ quan thẩm quyền chung trong phạm vi địa bàn tỉnh, các hoạt động tổ
chức - xã hội trực tiếp của ƯBND cấp tỉnh diễn ra tương đối phong phú và
phổ biến. Hàng năm ƯBND cấp tỉnh đều có tiến hành đánh giá, tổng kết để
rút kinh nghiệm cho năm tới. Có khi UBND cấp tỉnh chỉ đưa ra một kế
hoạch thí điểm tổ chức trong vài tháng để thăm dò ý kiến của nhấn dân, sau
đó mới tiến hành tổng kết và áp dụng phổ biên. Hoạt động này có thể diễn
ra trên tất cả lĩnh vực quản lý của UBND cấp tỉnh về kinh tế, văn hóa, xã
hội, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng
Thông thường thì các hoạt động này được UBND cấp tỉnh ủv quyền
giao cho các cơ quan chuyên môn thực hiện. Chẳng hạn, sở tư pháp giúp
ƯBND cấp tỉnh trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo due pháp luât trên
địa bàn tỉnh. Sở thể dục thể thao giúp UBND cấp tỉnh tổ chức các hoạt động
thể thao, thể dục , các phong trào vui khỏe Tuy nhiên, việc thực hiện hoạt
động này ở một số tỉnh cũng có đôi chút khác biệt. Ví dụ: ở một số tỉnh
không thành lập sở thể dục - thể thao, bởi lẽ, nhu cầu hoạt động thể dục thể
thao ở đó chưa phát triển hoặc do điều kiện vật chất, kỹ thuật chưa cho
phép. Do vậy, việc tổ chức các cuộc thi thể dục, thể thao, các hoạt động thể
thao văn hóa có thể được giao cho sở văn hoá -thông tin đảm nhiệm.1141
Cho dù có những nét khác biệt như vậy, nhưng ở tỉnh, thành phố nào
UBND cũng thực hiện các hoạt động mang tính tổ chức -xã hội trực tiếp.

Đó là hoạt động không thể thiếu và trong nhiều trường hợp, ở vào những
thời điểm nhất đinh các hoạt động này có phần diễn ra phổ biến và là hình
thức hoạt động quan trọng của UBND cấp tỉnh.
Bên canh đó, UBND cấp tỉnh cũng thực hiện các hoạt động mang tính
chất tác nghiệp vật chất - kỹ thuật cụ thể. Đây là hình thức trợ giúp cho
hình thức ban hành quyết định quản lý nhà nước. Ví dụ: Chuẩn bị tư liệu,
dữ liệu thông tin cho việc ban hành quyết đinh quản lý, lập các báo cáo,
nhật trình công việc, chuẩn bị các tài liệu liên quan đến kỹ thuât, quản lv
công văn, giấy tờ, quản lý máy tính [I8-ư 279]
Những công việc này thường do văn phòng của UBND cấp tỉnh thực
hiện. Với tính chất là bộ máy làm việc của UBND cấp tỉnh, văn phòng
UBND có chức năng phục vụ sự quản lý tập trung thống nhất, sự chỉ đạo
điều hành mọi mặt công tác của UBND cấp tỉnh. Với vị trí đó, văn phòng
ƯBND cấp tinh có những nhiệm vụ như: tổ chức công tác thông tin và xử lý
thông tin bảo đảm phản ánh được thường xuyên, kịp thời, chính xác tình
hình các mặt công tác trong tỉnh, xây dựng chươns trình làm việc của
UBND cấp tỉnh, giúp UBND cấp tỉnh quản ]v côns tác văn thư. hành chính,
lưu giữ hổ sơ của UBND và hướng dẫn các neành trong tỉnh và huvện về
công tác văn thư, hành chính và lưu giữ thống nhất theo đúns nsuvên tắc,
chê độ của Nhà nước, đảm bảo các điều kiện vật chất cho bộ máy của uỷ
ban hoạt động bình thường (sắp xếp nơi làm viộc, tổ chức bộ máy dịch vụ,
tổ chức các cuộc hội nghị do uỷ ban triệu tập).[37, Đ 2 31
Nhìn chung, đúng với tính chất của mình, văn phòng của UBND cấp
tỉnh có nhiệm vụ đảm bảo các điều kiện vật chất, kỹ thuật - nghiệp vụ cho
hoạt động của UBND. Tuy nhiên, nhiều khi việc ban hành quyết định quan
lý nhà nước của UBND cấp tỉnh lại do các cơ quan chuyên môn của uỷ ban
đề nghị. Trong những trường hợp đó việc thành lập ban soạn thảo do chủ
tịch UBND cấp tỉnh quyết đinh và thành phần chủ yếu là chính cơ quan
chuyên mồn đó và một số ban ngành khác. Việc chuẩn bị tư liệu, dữ liệu,
thông tin cho việc ban hành quyết đinh quản lý do chính ban soạn thảo đảm

nhận, trong đó vai trò chính là của cơ quan chủ trì soạn thảo. Phần lớn các
quyết định quản lý của UBND cấp tỉnh do các cơ quan chuyên môn đề nghị
và chủ trì soạn thảo. Tuy vây, khồng vì thế mà làm giảm vai trò của văn
phòng UBND cấp tỉnh trong việc bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt
động của UBND. Ngay cả khi quyết định quản lý do các cơ quan chuyên
môn chủ trì soạn thảo thì các giai đoạn trình ký, họp thảo luận tại uỷ ban
cũng cần đến vai trò của văn phòng uỷ ban trong việc chuẩn bị tài liệu liên
quan và tổ chức hội họp. Hơn nữa, một vài quyết định quản lý của UBND
do chính văn phòng UBND chủ trì soạn thảo, chịu trách nhiệm chính, chuẩn
bị tài liệu và dữ liệu cần thiết cho việc ban hành văn bản đó.
Thực hiện các hoạt động mang tính chất tác nghiệp vật chất - kỹ thuật
cụ thể được coi là hình thức ít mang tính pháp lý, bởi lẽ, trong một số
trường hợp nhất định hình thức này cũng có ý nghĩa pháp lý. Ví du: Việc
công chứng, việc giám định tư pháp hoặc đãng ký hộ tịch có ý nghĩa pháp
lý nhất định đối với công tác quản lý. điều tra. Tuy vậy, những chứng nhận
đó chỉ có hiệu lực chứng cứ, khồng có ý nghía pháp lý trực tiếp đúng với ý
nghĩa của nó tức là khồng làm thay đổi cơ chê điều chỉnh pháp luật. IS ư 2791
Tóm lại, UBND cấp tỉnh thực hiện nhiều hình thức quản lý nhà nước,
nhưng chúng ta có thể thấy hoạt động ban hành quyết đinh quản lý nhà
nước là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất. Các hình thức hoạt động quản
lý khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho hoạt động xây dựng và ban
hành quyết đinh quản lý nhà nước hoặc là để tổ chức thực hiện các quyết
đinh đó.
Việc so sánh hình thức quản lý nào là quan trọng hơn và cơ bản hơn,
theo chúng tôi, phải dựa vào vị trí, tính chất của các hình thức quản lý đó
đối với hoạt động thực tế của chủ thể quản lý, ở đây là UBND cấp tỉnh.
Cũng có khi, tính về số lượng, ở vào một thời điểm nào đó, các hình
thức quản lý khác xảy ra phổ biến hơn hoạt động ban hành quyết định quản
lý nhà nước. Ví dụ: hoạt động kiểm tra, tổ chức chỉ đạo, triển khai của
UBND cấp tỉnh như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, các hoạt động đó trong

nhiều trường hợp cũng chỉ nhằm hỗ trợ hoặc tạo điều kiện cho hoạt động
xây dựng, ban hành hoặc tổ chức thực hiện các quyết định quản lý.[3]
Chẳng hạn, khi tiến hành kiểm tra, nếu phát hiện vi phạm pháp luật thì
ƯBND cấp tỉnh có thể ra quyết định xử lý vi phạm hành chính hoặc tổ chức
các phong trào thi đua, đợt vận động để thực hiện các quyết đinh quản lý
quan trọng.
Hơn nữa, vị trí của các quyết đinh quản lý đối với toàn bộ hoạt động
của UBND cấp tỉnh còn được khẳng đinh ở chỗ quyết đinh quản lý là cơ sở
pháp lý cho hoạt động của uỷ ban và cơ sở cho các hình thức quản lý khác.
Như đã biết, hoạt động của UBND cấp tỉnh được thể hiện qua hoạt động của
tập thể uỷ ban, các thành viên uỷ ban, của các cơ quan chuyên môn của uỷ
ban. Thông thường, các hoạt động này cũng cần phải có sư định hướng về
mặt nguyên tắc và trong nhiều trường hợp phải được luật hóa. Điều này đã
được thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ, quvền và tổ chức của các cóng tác
này và chính điều này đã được luật hóa bang các văn ban pháp luât có giá

×