Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tội không tố giác tội phạm - một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.63 MB, 111 trang )

Đ Ạ I HỌC QUỐC G IA H À N Ộ I
KHOA LUẬT
PHÙNG QUANG H U Y
TỘI KHỐNG TỐ giác tội p h ạ m -
■ » ■
MỘT SỐ KHÍA CẠNH PHÁP LÝ HỈNH sự tò TỘI PHẠM HỌC
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mă số : 60 38 40
LU ẬN VÃN THẠC s ĩ LU Ậ T HỌC
Người hướng dần khoa học: TS. Trần Quang Tiệp
HOC Quóc G lM h a
ỈÍ?UNG TÂM îhlÔN'G ỈỈN THƯ VlẾN
L V r LQ / 993
卜 7 -

_ _
H À N Ộ I - 2006
M ỤC LỤ C
1

12.
1.3,
2.1
22
.
2.3.
3.1.
3.2.
MỞ ĐẨU
Chương 1 :
TỘI KHÔNG Tố GIÁC TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH


Sự VIỆT NAM
Khái lược sự hình thành và phát triển những quy định về tội
không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999
Những quy định về tội không tố giác tội phạm trong pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới
Chương 2

TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐIỂU KIỆN CỦA TỘI
KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM
Tình hình tội không tố giác tội phạm từ năm 1997 đến 2005
Nguyên nhân và điều kiện của tội khôĩìg tố giác tội phạm
Dự báo tình hình tội không tố giác tội phạm trong thời gian từ
nay đến năm 2010
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐÂU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI KHÔNG Tố GIÁC
TỘI PHẠM
Những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội không tố giác tội phạm
Những giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội không tố giác tội phạm
KẾT LUẬN
Trang
1
6
18
34
39
39

51
65
71
71
74
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
106
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thành tựu lớn nhất là đất nước ta
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế tăng trưởng khá cao; nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đẩu được thiết lập; cỏng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh- Quan hệ quốc tế được mở
rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều, tình hình chính trị, xã
hội ổn định, được nhân dân và bạn bè quốc tế khâm phục, đánh giá cao.
Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, chúng ta đã đạt được
những kết quả quan trọng, từng bước nâng cao nhận thức của toàn xã hội về
trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo lập cơ chế đồng bộ, phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lóp nhân dân
tham gia phòng, chống tội phạm; từng bước kiềm chế sự gia tăng của các loại
tội phạm, làm giảm một số loại tội phạm nghiêm trọng, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần quan trọng vào cộng cuộc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích
cực, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó
cọ nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên
tấl cả các lĩnh vực,trong đó tình hình tội không lố giác tội phạm đang là vấn đề
bức xúc của toàn xã hội. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, trong không
ít vụ án, một số công dân không làm tròn nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội
phạm, không tố giác tội phạm, cho nên các cơ quan bảo vệ pháp luật phải tốn rất
1
nhiều công sức để điều tra, khám phá vụ án, Việc một số công dân không thực
hiện quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội, có nghĩa là họ không
tham gia đâu tranh chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và trong các trường hợp đo pháp luật
hình sự quy định, hành vi không tố giấc tội phạm do họ thực hiện đã cấu thành
tội không tố giác tội phạm. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội không tố giác
tội phạm, đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên
cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp ỉý hình sự đặc trưng của tội
không tố giác tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tội không tố giác tội
phạm… Về mặt lý luận, xung quanh vấn đề đấu tranh phòng, chống tội không
tố giác tội phạm, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy,việc nghiên cứu để tài,
' T ội không tố giác tộ i phạm • một số

khía cạnh pháp lý hỉnh sự và tộ i phạm h ọ c '
mang tính cấp thiết, không
những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội không tố giác tội phạm là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức
tạp, đã được một số nhà luật học đề cập trong
Giáo trình luật hình sự Việt

Nanu
tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,

1998;
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)
của Khoa luật,
Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997; Đề tài khoa
học cấp Bộ:
”M ột số vấn đề lỷ luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình

sự (sửa đổi
)”,mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp,
nghiệm thu năm 1998;
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
của Viện Khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản nảm 1992,
1997); ThS. Phạm Thanh Bình và TS, Nguyễn Vạn Nguyên có công trình:
nCác

tộ i xâm phạm hoạt động tư pháptf
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997).*.
Sau khi Bộ luật hình sự năm í 999 được ban hành, tội không tố giác tội
phạm được tiếp tục đề cập trong
Giáo trình luật hình sự Việt Nam
của Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật
2
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)
của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
Nxh Đại học quốc gia, Hà Nội, 2002;
Bình liuin khoư học Bộ ỈHÙt hìỉìh sự 1999

ị Phần các tội phạm)

của TS. Phùng Thế vắc, TS. Trần Văn Luyện, luật sư
ThS. Phạm Thanh Binh, TS, Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyền
Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
Ngoài ra, tác giả Vũ Thành Long có bài viết: irMâỳ ý
kiến
về Điều 3Ỉ4
Bộ luật hình sự về tội không tố giác tội phạm”
(Tạp chí Tòa án nhân dân,
tháng 10-2005); ThS. Trần Đại Thắng có bài viết:
"M ột số vấìì đề vé việc báo

vệ người tô giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án hình

Sỉ/'
(Tạp chí Kiểm sát, tháng 12-2005, số 24); tác giả Thái Vân Đoàn có bài
viết:
"M ột số bất hợp lý trong các quy định vé tộ i che g iấ u tội phạm vủ tội

không tổ giác tội phạm (Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 10-2005,số 19)
Các công trình nói trên đã đề cập tội không tố giác tội phạm, nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về tội
không tố giác tội phạm dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đốỉ tượng và phạm vĩ nghiên cứu của luận vãn
M ục đích của luận ván
Mục đích của luận vãn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội không tố giác tội phạm, nêu ra những giải pháp mang lính hệ
thống để nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này,
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận vãn đã đặt ra và giải quyết các
nhiộm vụ sau:

• Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của những quy định
về tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam.
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của
tội không tố giác lội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999; phân tích các quy
định của pháp luậl hình sự một số nước trên thế giới vé tội phạm này.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình tội khỏng tố giác tội
phạm, nguyên nhân của thực trạng đó; dự báo tình hình cúa tội không tố giác
tội phạm trong những thời gian tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống lội không tố giác tội phạm.
Đối tượng nghiên cứu của luận vân
Luận vãn nghiên cứu tội không tố giác tội phạm,
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận vãn nghiên cứu tội không tố giác tội phạm dưới hai góc độ: pháp lý
hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2005,
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng, chông tội phạm.

sở thực tiền của luận vãn là những bản án, quyết định của Tòa án
về tội không tố giác tội phạm; số liệu thống kê,báo cáo tổng kết của Tòa án
nhân dân tối cao về tội phạm này.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện để tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống,
lịch sử,logic, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp khác
như so sánh, điều tra xã hội
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt

Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện và tương đối có hệ thống vẻ tội không tố giác tội phạm dưới hai góc độ:
pháp lý hlnh sự và tội phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những
đóng góp mới về khoa học của luận văn:
4
- Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định về
tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam.

Làm sáng tỏ những vấn đề lý ỉuận chung về tội không tố giác tội
phạm; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp
luật hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về tội không tố giác tội phạm
trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp
lý về lập pháp hình sự, để vận dụng cỏ chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và
giải pháp được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình tội không tố giác tội phạm ở Việt
Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp

tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và nhũng kiến nghị của luận vãn có ý nghĩa nhất
định đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác
tội phạm ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả
mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển lý luận về tội
phạm học, luật hình sự, cũng như công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
có tính nhạy cảm cao và phức tạp này.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự,

tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan
Công an, Việii kiểm sát, Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương,8 mục.
5
Chương 1
TỘ I KHÔNG TỐ GIÁC TỘ I PH Ạ M
• 9 «
TRONG LU ẬT H ÌNH s ự V IỆT N AM
1

KHÁI LƯỢC Sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHŨNG QUY ĐỊNH
VỂ TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH s ự VIỆT NAM
L L 1 . Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lê cho đến trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945
Tội không tố giác tội phạm là một trong những tội phạm được quy định
rất sớm trong luật hình sự Việt Nam.
Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống và quan
trọng nhất của triều đại nhà Lê đẫ đề cập tội không tố giác tội phạm tại Điều 500:
Những người biết có kẻ mưu phản loạn, mưu đại nghịch, thì
phải đến mật báo ngay với các quan ty gần đó, nếu không tố cáo, thì
xử tội lưu đi châu xa. Biết có kẻ chỉ trích nhà Vua hay là đặt ra những
lời quái gở mà không đi báo, thì xử nhẹ hơn tội kể trên một bậc.
Quan ty thấy báo mà không tâu lên hay đi bắt ngay (quan ở kinh thành
thì phải tâu ngay, quan

ngoài thì phải bắt ngay), để quá nửa ngày,
thì cũng phải tội như kẻ không đi báo. Nếu là việc truy bắt còn phải
sấp đặt nên quá thời hạn trên thì không phải tội [41


tr. 181-182].
Đáng chú ý, Quốc triẻu Hình luật đã phân biệt trách nhiệm phát hiện,
tố giác tội phạm giữa quan và dân thường như quy định tại Điều 158 Bộ luậl:
Các quan giám lâm, quan chu ty biết thuộc viên phạm tội mà
không phát giác, xử biếm hai tư, đàn cư quan biết mà không phát
giác, tội cũng như thế, Những người biết hàng XÓIĨ
1
của minh phạm
tội mà không phát giác, tội giảm một bậc. Riêng việc đúc tien và
việc phản nghịch là tội nặng, thì luận tội khác [41, tr. 79].
6
Điéu 355 Bộ luậl còn quy định việc khen thưởng cho người tố giác tội
phạm: "Dân đinh mà tự thiến mình, thì xử tội lưu; ai thiến hộ hoặc chứa chấp
kẻ ấy, thì giảm tội một bậc; các nhà lân cận không tố cáo, thì xử tội nhẹ hơn
hai bậc; xã quan không phát giác, thì xử tội đồ; người tố cáo đúng sự thật thì
được thưởng một tước tư" [41,tr. 119]* Đặc biệt, Điều 373 Bộ luật còn đổng
nhất việc không tố giác tội phạm với che giấu tội phạm trong trường hợp quan
biết mà không tố giác:
Nhung người cày ruộng đất công mà khai dối là cày cấy cho
quan ty, để mong tránh đóng thuế, thì xử tội theo luật chiếm ruộng
đất công. Quan ty dung túng thì cung đồng tội; không biết thì không
xử tội. Xã quan biết mà không tố giác thì xử tội giấu giếm; không
biết thì được giảm 2 bậc; quan lộ huyện vô tình không biết thì xử tội
biếm [41,tr, 137].
Bộ luật này còn đề cập việc tố giác ồng bà, cha mẹ, vợ chổng phạm tội
tại Điều 504:
Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi
gì, đều xử tội lưu đi châu xa; vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên. Tô
cáo ông bà ngoại, cha mẹ và ông bà, cha mẹ về bậc tôn trưởng vào

hàng cơ thân của chồng, cùng là nô tỳ tố cáo người vào bậc cơ thân
của chủ,dẫu việc có thật, cũng phải tội biếm hay tội đồ; nếu là tội
mưu phản, đại nghịch hay là mẹ đích,mẹ kế mà giếl cha, cha mẹ
nuôi giết con đẻ thì cho phép tố cáo (41, tr. 183],
Đây là quy định mang tính nhân vãn, thể hiện truyền thống tôn kính
đối với ông bà, cha mẹ, đồng thời kết hợp được chữ ”hiếu" đối với sự tồn vong
của đất nước. Chính vì vậy, mặc dù tại khoản 7 Điểu 2 của Bộ luật này quy
định bất hiếu là một trong mười tội ác (thập ác): "Bất hiếu là tố cáo, rủa mắng
ông bà, cha mẹ, trái với lời cha mẹ dạy bảo" [41,tr. 37], nhung Bộ luật này
7
vẫn quy định: nếu là tội mưu phản, đại nghịch hay là mẹ đích, mẹ kế mà giết
cha, cha mẹ nuôi giết con đẻ thì cho phép tố cáo.
Điều 508 Bộ luật đã quy định cụ thể cách thức tố cáo: ”TỐ cáo lội người,
thì phải ghi năm tháng và trình bày sự thực không được nói là việc còn ngờ (nói
việc đó không đáng tin cũng vậy); trái luật này thì phải phạt 80 trượng; quan
nhận những đơn trái lệ này, mà đem ra xét
xử,
thì phạt tiền 30 quan" [41

tr. 184J.
Như vậy, trong Bộ luật Hồng Đức, tội không tố giác tội phạm đã được
tương đối cụ thể, chi tiết, thể hiện trình độ lập pháp hình sự rất cao của cha
ông chúng ta thời kỳ này.
Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp thực hiện chính sách Mchia để t r ị'
chia đất nước Việt Nam làm ba xứ với ba chế độ chính trị khác nhau. Nam Kỳ
là đất thuộc địa, không còn quan hệ phụ thuộc vào triều đình Huế; Bắc Kỳ là
đất "nửa bảo hộ” đặt dưới quyển cai trị của một viên thống sứ người Pháp; ở
Trung Kỳ, triều đình bù nhìn vẫn còn được duy trì với danh hiệu "Chính phủ
Nam triểu",nhưng quyền hành thực tế nằm trong tay viên khâm sứ người Pháp
là chủ tịch Hội đồng bảo hộ Trung Kỳ [35, tr. 86]. Ở Nam Kỳ, theo Điều 11

Sắc luật ngày 25-7-1884,Bộ luật Gia Long được áp dụng đối với người phạm
tội tà người bản xứ. Trong sắc luật ngày 16-3-1890

thực dân Pháp quy định từ
thời điểm này, các Tòa án

Nam Kỳ phải áp dụng pháp luật hình sự của Pháp
thay cho Bộ luật Gia Long,ngoại trừ trường hợp pháp luật hình sự của Pháp
chưa dự liệu được [18

tr. 132-133]. sắc luật ngày 31-12-1912 của toàn quyền
Đông Dương đã sửa đổi 56 điều của Bộ luật hình sự Pháp thành Hình luật
canh cải (Code pénal modifié) vằ cho áp dụng tại Nam Kỳ,
Ở Bắc Kỳ, Nghị định ngày 2-12-1921 của toàn quyền Đồng Dương đã
cho áp dụng Luật hình An Nam, ở Trung Kỳ, bằng Dụ số 43 ngày 31-7-1933 cưa
Bảo Đại, Hoàng Việt hình luật được ban hành. Trong Hoàng Việt hình luậl,không
có quy định về tội không tố giác tội phạm, mà đề cập đến việc tố cáo những
người thân thuộc, bất hiếu,bất cố gia truyền. Điều 341 Bộ luật này quy định:
8
Phàm cáo giác ông bà cha mẹ, tức ỉà bất hiếu sẽ bị câu cầm
lừ 6 nâm đến 10 nãm. Trừ trường
hợp
sau này thời người cáo giác
không có tội: hoặc cha mẹ ông bà phạm một tội đại hình có can đến
sự trị an của Bổn quốc (hay nước bảo hộ), hoặc là mẹ giết cha, cha
giết mẹ hoặc cha mẹ mình làm con nuôi cho người ta mà giết cha
mẹ nuôi hoặc cha mẹ nuôi giết cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ giết ông bà
nội, ông bà ngoại hoặc là cha mẹ ông bà ngược đãi con bé chưa đến
16 tuổi và đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng [23]•
Quy định này cho thấy, ngoài việc tiếp tục kế thừa tinh hoa của Bộ luật

Hồng Đức, Hoàng Việt hình luật đã thể hiện rõ sự thuộc vào nước Pháp bảo hộ
của chính quyền thực dân phong kiến.
LL2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám nãm 1945 thành cồng
cho đến trước khỉ Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa - Nhà nước công nông non trẻ đầu tiên ở Đông Nam Á ,đã tiến
hành tích cực hoạt động lập pháp nói chung và hoạt động lập pháp hình sự nói
riêng. Chỉ trong gần bốn tháng năm 1945 và nâm 1946,Nhà nước la đã ban
hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, đáp ứng yêu cầu giữ
vững chính quyén nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển lực lượng, chuẩn
bị sẩn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài của cả nước.
Tuy nhiên, do tình hình hết sức khẩn trương, không thể ban hành kịp
các vãn bản quy phạm pháp luật nói chung, vãn bản quy phạm pháp luật hình
sự cần thiết nói riêng, nên ngày 10-10-1945,Nhà nước ta đã ban hành sắc
lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có bộ "Luật hình An
N am ' bộ "Hoàng Việt hình luật" và bộ "Hình luật pháp tu chính” với điéu
kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thê dân
chủ cộng hòa” [10,tr 190].
9
Từ khi Cách mạng thang Tám thành công cho đến năm 1954 là thời
điểm ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ
ta ỉà Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, do phải tập trung quy định các tộỉ phạm liên
quan đến sự an nguy của chính quyển nhân dân như các tội phản bội Tổ quốc,
tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô
… ,
cho nên, trong giai đoạn này, tội không tố
giác tội phạm chưa được quy định.
Sau chiến tháng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay

sai thống trị. Tình hình đó đã hình thành

nước ta ,1hai khu vực có chế độ
chính trị và xã hội khác nhau” [22

tr. 505]. Ở miền Bắc, Đảng la chủ trương
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bác thành căn cứ vững
mạnh của cách mạng cả nước;

miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân
chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai,
thực hiện thống nhất nước nhà.
Sác lệnh số 267-SL ngày 15-06-1956 của Nhà nước ta vẻ trừng trị
những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Họp tác xã,
của nhân dân và cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước đã dề
cập vấn clc tố giác tội phạm tại Điều 14: ”Đối với kẻ phạm pháp, nhân dân có
nhiệm vụ tố cáo hoặc mật báo với cơ quan có trách nhiệm và hết sức giúp đỡ
việc điều tra xét xử, nhưng không được vì thù riêng, lợi riêng mà vu cáo.
Người nào có công trong việc tố cáo, khám phá các vụ phạm pháp, tìm bắt kẻ
có tội, sẽ được khen thường” [10, tr. 117]. Tuy nhiên, Sắc lệnh chưa có quy
định về trường hợp không thực hiện nghĩa vụ này, thì phải có chịu trách nhiệm
hình sự hay không?
Vé mặt lập pháp hình sự, các vãn bản quy phạm pháp luật hình sự ban
hành trong thời gian sau đó như Pháp lệnh ngày 30-10-1967 trừng trị các tội
phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài
10
sản xã hội chủ nghĩa, Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị ẹác tội xâm phạm
tài sản của công dân, đều đã đề cập vấn đề động viên nhân dân tố giác tội
phạm


lời nói đầu: ”Để nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân
dân,động viên toàn dân tích cực tham gia giữ
gìn
trật tự an ninhM [10, tr. 193]
và "Để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân, viên chức, bộ
đội và toàn thể nhân dãn, đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, động viên mọi người
ra sức đấu tranh chống những hành động xâm phạm tài sản đóM [10

tr. 203],
Tuy nhiên, cả hai Pháp lệnh này đểu chưa đề cập tội không tố giác tội phạm,
mà chỉ quy định nguyên tắc tương tự. Ví dụ: Điều 21 Pháp lệnh ngày 30-10-1967
trừng tiị các tội phản cách mạng, quy định: nĐối với những tội phản cách mạng
chưa nêu trong Pháp lệnh này, thì áp dụng những điều về tội phạm tương tự
trong Pháp lệnh này mà
xét xử” [10,tr. 198].
Trong thời gian này,eác Tòa án của ta đã xét xử một số trường hợp
không tố giác tội phạm nghiêm trọng như tội phản cách mạng, tội giết người.
Ví dụ: bản án số 13 ngày 20-03-1958 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
đã xử phạt Nguyễn Thị Chất là vợ Hải 3 năm quản chế, vì khi biết âm mưu,
hoạt động của bọn Hải mà không tố cáo với cơ quan có thẩm quyền.
Đối với những hành vi không tố giác những tội phạm ít nghiêm trọng,
thực tiễn xét xử của ta trong thời gian này khống coi là tội phạm cần truy cứu
trách nhiệm hình sự. Điều đó xuất phát từ tình hình xã hội ta lúc đó: tâm lý sợ
thù oán không đầm tố giác, tình cảm nể nang trong gia đình còn khá phổ biến.
Vì vậy, chủ yếu áp dụng biện pháp giáo dục nhiều hơn là biện pháp trừng trị
bằng pháp luật hình sự.
Từ sau ngày miển Nam được giải phóng cho đến năm 1979,trong bối
cảnh Mỹ và các thế lực thù địch khác ra sức bao vây, cấm vận,nước ta còn
phải đối phó với hai cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biên giới phía Tây Nam và
phía Bắc. Ngoài ra, chúng ta còn phải đương đầu với những khó khăn chồng

chất và gay gắt về kinh tế và đời sống; tình hình tiêu cực, nhất là tệ hối lộ diễn
11
biến phức tạp, Trước lình hình đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IV đã để ra chủ trương: MKiên quyêì dấu tranh
khắc phục những mal tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội, nhất là tê an
cấp, hối lộ, ức hiếp quần chúng" [38

tr. 8], Để kịp thời thể chế hóa chủ trương
lrên của Đảng và trên cơ sở Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nảm 1980,ngày 20-5-1981, ủ y ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ. Sự ra đời của Pháp lệnh là một sự kiện pháp lý
quan trọng, góp phần giữ vững và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, động
viên, cổ vũ quần chúng nhân dân tích cực đấu tranh chống tệ hối lộ và các
hiẹn tượng tiêu cực xã hội khác trong xã hội.
Nhằm động viên mọi công dân trong việc tố giác tội hối lộ, Điều 12
Pháp lệnh quy định việc khen thưởng cả về tinh thần và vật chất đối với những
người có công phát hiện tội hối lộ:
Những người không nhận hối lộ và tố giác với

quan có
trách nhiệm người đưa hối lộ hoặc người môi giới hối lộ thì được
khen thưởng theo quy định chung của Nhà nước.
Những người tố giác và giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm
trừng trị tội hối lộ thì được khen và được thưởng tiền bàng 10% giá
trị của hối lộ đã bị tịch thu [38

tr. 69].
Tuy nhiên, Pháp lệnh vẫn chưa để cập tội không tố giác tội phạm.
Trong thời gian từ năm 1978 đến những năm 1980, 1981,tình hình
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép diễn biến phức tạp, gây

rối loạn thị trường,ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch nhà nước và đời sống của
nhân dân, Đấu tranh chống các loại tội phạm, những hiện tượng tiêu cực trên thị
trường là một yêu cầu cấp bách nhằm thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt
trận phân phối lưu thông, góp phần ổn định giá cả, thúc đẩy sản xuất, cải thiện
đời sống của nhân dân. Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
12
giá,kinh doanh trái phép được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30-6-1982
là đê đáp ứng yêu cầu trên và nguyện vọng của nhân dan.
Để động viên, khuyến khích việc tố giác đầu cơ,buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép, Điểu 12 Pháp lệnh quy định:
Người có công trong việc chống đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép, được xét khen thưởng theo chế độ chung
của Nhà nước. Ngoài ra,tùy theo tính chất của vụ án và công lao
đóng góp của mỗi người, CÒĨ
1
được thưởng một khoản tiền từ
5%
đến
10% trị giá hàng hóa tịch thu hoặc tiền phạt [35,tr. 98].
Cũng như Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ, Pháp lệnh này chưa đề cập tội
không tố giác tội phạm.
Cùng với sự phát triển của khoa học luật hình sự, khái niệm tội không
tố giác tội phạm đã bát đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý. Giáo trình
hình luật xã hội chủ nghĩa của Trường cao đẳng Kiểm sát Hà Nội dã đề cập tội
không lố giác tội phạm và đưa ra khái niệm không tố giác tội phạm:
Không tố giác tội phạm nghĩa là không báo cáo cho cư quan
có thẩm quyền về một tội phạm mà mình biết đang được chuẩn bị
ihực hiện hoặc đã được thực hiện hoặc biết rõ một kẻ sắp phạm tội
• % • ■癱 Ă» • M t 9 •
hay đã phạm tội rổi nhưng không báo cáo.

Tội không tố giác tội phạm khác với tội che giấu ở chỗ, hành
vi của kẻ khống tố giác là một hành vi tiêu cực (biết chắc chắn mà
không báo cáo) [54

tr. 189].
1-1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đờỉ cho đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Trong quá trình thực hiện các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV ,V của Đảng, nhan dân ta đã giành được những thành tựu quan
13
trọng trôn một số lĩnh vực kinh tế - xã hội,tạo ra những cơ sớ vậl chất kỹ thuật
đáu tien cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, chúng ta đã gặp phái
khồng ít khó khăn và khuyết điểm như chủ quan duy ý chú ci uy trì quá lâu mô
hình kinh tế quan liêu, bao cấp, nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là
ổn định mộl cách cơ bản tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Mặt
khác, các vãn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được
toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc
ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có
ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xă
hội và bảo vệ Tổ quốc Việl Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985,Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa V ỈI,tại kỳ họp thứ 9,đă
thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ
luật hình sự năm 1985).
Bộ luật hình sự năm 1985 là Bộ luật hình sự đầu tiên của chế độ dân
chủ nhân dân, đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự Việt
Nam từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời
gian lới.
Lán đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, Bộ luật đã có

quy định về tội không tố giác tội phạm tại Điều 19: "Người nào biết rõ tội
phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà
không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự vé tội không tố giác tội phạm
trong những trường hợp mà Bộ luật này quy đ ịn h ' Việc Bộ luật hình sự năm
1985 chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tội không tố giác tội phạm, là bước
tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của Nhà nước ta.
Để bảo đảm hoạt động tư pháp được thực hiện đúng đắn, Bộ luật hình sự
năm 1985 đã quy định về các tội xâm phạm hoại động tư pháp tại Chương X.
14
Trừ tội bắt, giam, khám người, kham đổ vật, nhà ở, thư tín trái phép và tội tra
tấn, dùng nhục hình đã được quy định trong Luật số 103-SL ngày 20-5-1957
bảo đảm quyền tự do thân thể và quyển bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ
vật, thư tín của nhân dân, các tội phạm khác, trong đó có tội không tố giác tội
phạm mới được quy định tại chương này.
Điều 19 Bộ luật chưa quỵ định cụ thể những trường hợp không tố giác
tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 247 Bộ luật quy định cụ thể về
những trường hợp không tố giác tội phạm cấu thành tội phạm và phải chịu
trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, Điều 247 đã liệt kê các tội cụ thể mà
hành vi không tố giác tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự:
1 ■ Người nào biết rõ một trong những tội phạm quy định


các điều sau đây đang được chuẩn bị hoặc đã được thực hiện mà
không tố giác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
- Các điều từ 72 đến Điều 85 về các tội đặc biệt nguy hiểm
xâm phạm an ninh quốc gia; Điều 87 (tội chiếm đoạt máy bay, tàu
thủy); Điều 94, khoản 2 (tội phá hủy công trình, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia); Điều 95,khoản 2 và 3 (tội chế tạo, tàng
trữ, sử đụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân đụng,

phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 96,khoản 2 và 3 (tội chế tạo,
tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất
eháy, chất độc, chất phóng xạ); Điều 96 a, khoản 2 và 3 (tội sản xuất,
tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái, phép các chất ma túy); Điều 98
(tội làm tiền giả, tội tàng trữ, ỉưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ);
- Điều 101 (tội giết người); Điều 112,khoản 2,3 và 4 (tội
hiếp dâm);
- Điều 129 (tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điêu 132,
khoản 2 và
3
(tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 133

15
khoản 2 và 3 (tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa); Điểu 138,khoán 2
và 3 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa);
- Điều 151 (tội cướp tài sản của công dân); Điểu
152
(tội bát
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân);
- Điều 165

khoản 2 và 3 (tôi đầu cơ); Điều 172, khoản 2 và 3
(tội chiếm đoạt tem, phiếu, tội làm hoặc lưu hành tem, phiếu, giấy tờ
giả dùng vào việc phân phối;
- Điều 245,khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam);
2. Người không tố giác tội phạm nếu có hành động ngăn chận
người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được
miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt,
% ■ • X «
L IA Giai đoạn từ khỉ ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 cho

đến nay
Bộ luật hình sự nãm 1985 được ban hành trong những năm của cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp, mặc dù đã phản ánh được nhu cầu bức xúc của
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thời kỳ đó, nhưng

một mức độ nhất
định vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của cơ chế đó, Vì vậy, một số quy định
trong Bộ luật này không phù hợp cho việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong
nển kinh tế thị trường,định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về kỹ thuật lập pháp hình sự, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những
hạn chế nhất định như bố cục một số chương, điều chưa hợp lý, nhiềụ tội
danh được quy định quá chung chung; một số hành vi phạm tội với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nhưng lại được quy định trong
một điều luật với cùng một chế tài; khung hình phạt trong nhiều điều luật
quá rộng, dễ dẫn đến tiêu cực… Hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự năm
1985 là qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật đã không còn là một chỉnh thể
thống nhất.
16
Trong đường lối chủ động hội nhập kinh lế quốc tế và khu vực, nhất là
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng ta đã
đề ra, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 là một đòi hỏi khách
quan của hoạt động lập pháp hình sự. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 21-12-1999,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6,
đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự nãm 1999
) ,
thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985* Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực
từ ngày 1-7-2000.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội không tố giác tội phạm được quy
định tại Điều 314* So với quy định tương ứng tại Điều 147 Bộ luật hình sự
năm 1985,tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 đã có

những nội dung được sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ nhất
,bổ sung khoản mới (khoản 2) nhằm thu hẹp phạm vi trách
nhiệm hình sự của ông, bà, cha, mẹ, con cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc
chồng của người có hành vi không tố giác, khi biết người thân của mình
phạm tội. Quy định này được bổ sung trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền
thống nhân văn trong pháp luật của ông cha la. Trong Bộ luật Hồng Đức đã
quy định việc không trừng phạt phạt (trừ tội mưu phản, đại nghịch hay là mẹ
đích, mẹ kế mà giết cha, cha mẹ nuôi giết con đẻ) đối với việc không tố giác
tội phạm giữa những người thân thích. Đây là sự ghi nhận mối quan hệ tình
cảm gia đình sâu nặng vốn là một trong những nét đặc trưng của truyền
thống vãn hóa Á Đông.
Theo quy định mới được bổ sung, thì người không tố giác là ông, bà,
cha, em

con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh
quốc gia (quy định tại các điều từ 78 đến Điều 91 Bộ luật) hoặc các tội khác là
tội phạm đặc biẹl nghiêm trọng được liệt kê tại khoản 1 Điều 313 (chứ không
phải mọi tội phạm được quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự nám 1999).
Đ A ! H O C Q u O C G í/ a h a n 6 i
l^ Ư N G I ỉ M Ồ N G Ĩ Ỉ N TH Ư V /Ệ N
Thứ hai,
bổ sung vào cấu thành lội phạm hành vi "đang
được
thực hiện
mà không lố giác” cho đầy đủ, bởi lẽ Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định
hành vi "dă được thực hiện mà không tố giácn, chưa quy định hành vi nêu trên.
Thứ ba’
không liệt kê các điều» khoản của Bộ luật hình sự về các tội mà

nếu không tố giác thì phải chịu trách nhiệm hình sự, mà chỉ viện đẫn Điều 313
Bộ luật hình sự cho điểu luật được ngắn gọn.
Thứ tư’
tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 nãm (trong
Bộ luật hình sự năm 1985,quy định đến một nãm) và giữ nguyên mức phạt tù
đối với tội này.
TỘI KHỎNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM TRONG BỘ LUẬT HĨNH s ự
NẢM 1999
L2,L Kháỉ niệm tội không
tố
giác
tội
phạm
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm tội không tố giác tội phạm, trước hết
cần làm rõ khái niệm không tố giác tội phạm.
Bộ lưậl hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự nãm 1999 của nước la
quy định ba dạng hành vi liên quan đến tội phạm là che giấu tội phạm (Điều
21),không tố giác tội phạm (Điều 22) và chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đo
người khác phạm tội mà có (Điều 250). Trong cả hai bộ luật này, các nhà lập
pháp không sử dụng cụm từ "liên quan đến tội phạm",nhưng đểu có quy
định về hành vi cố ý liên quan đến tội phạm do người khác thực hiện; người
thực hiện hành vi liên quan đến tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình
•sự cùng với người đó,bởi lẽ hành vi này không phải ỉà hành vi thực hành, tổ
chức, xúi giục, giúp sức, vì vậy chỉ có thể cấu thành lội phạm độc lập với
tội phạm đo người khác thực hiện trong những trường hợp được Bộ luật quy
định [42

tr, 199-200].
Không tố giác tội phạm được quy định tại Điéu 22 Bộ luật hình sự
năm 1999:

18
1. Người nào biếl rõ tội phạm đang được chu án bị, đang được
thực hiện hoặc đă được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phụni trong những
trường hợp quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.
2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh
chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an
ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại Điều 313 của Bộ luật này,
Tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 314:
1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định
tại Điều 313 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang được thực hiện
hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt cảnh cáo,cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2.
Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh
chị em ruột, vợ hoặc chổng của người phạm tội chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc
gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại
khoản 1 điều này.
3. Người không tố giác nếu đã có hành động can ngãn người
phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miền
1 » « » • ♦ • I. ♦ ■
trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.
Để có thể hiểu rõ điéu 314, cần tìm hiểu tiếp Điều 313 Bộ luật hình sự
năm 1999:
1, Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong
các tội phạm quy định tại các điều sau đây, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến nãm nãm:

19
- Các điều từ Điều 78 đến Điéu 91 về các tội xâm phạm an
ninh quốc gia;
- Điều 93 (tội giết người); Điều 111,các khoản 2,3 và 4 (lội
hiếp dâm); Điều 112 (tội hiếp dâm trẻ em); Điểu 114 (tội cưỡng dâm
trê em); Điều 116,các khoản 2 và 3 (tội dâm ô đối với trẻ em); Điểu
119,khoản 2 (tội mua bán phụ nữ);
- Điều 120 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em);
- Điều 133 (tội cướp tài sản); Điều 134 (tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản); Điều 138,các khoản 2,3 và 4 (tội trộm cáp tài
sản); Điều 139, các khoản 2,3 và 4 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản);
Điều 140,các khoản 2,3 và 4 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản); Điều 143,các khoản 2, 3 và 4 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản);
- Điểu 153,các khoản 3 và 4 (tội buồn lậu); Điểu 154,khoản
3 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiển tệ qua biên giới); Điều
155,các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,buôn bán
hàng cấm); Điều 156,các khoản 2 và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng
giả); Điểu 157 (tội sản xuất, buồn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 158,các khoản 2
và 3 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng đổ chăn nuôi,
phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật
nuôi); Điều 160,các khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều 165,các khoản 2
và 3 (tội cố ý làm trái quy định cùa Nhà nước về quản iý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng); Điều 166,các khoản 3 và 4 (tội lập quỹ trái
phép); Điều 179,các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tố chức tín dụng); Điều 180 (lội làm, tàng
trữ, vận chuyển,lưu hành tiền giả, ngân phiếu giá, công trái giả);
Điều 181 (tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy
tờ có giá giả khác); Điều 189, các khoản 2 và 3 (tội hủy hoại rừng);

20
- Điểu 193 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điéu 194 (tội
tàng trữ, vận chuyển,mua bán trái phcp hoặc chiếm đoạt chấl ma
túy); Điểu 195 (tội tàng trử, vận chuyển mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt tiền chất dùng cho việc sản xuất trái phép chất ma túy);
Điểu 196,khoản 2 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép
chất ma túy); Điều 197 (tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy);
Điều 198 (tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy); Điều
200 (tội cưỡng bức, ìôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma
túy); Điều 201,các khoản 2,3 và 4 (tội vi phạm quy định về quản
lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác);
- Điều 206

các khoản 2,3 và 4 (tội tổ chức đua xe trái phép);
Điều 221 (tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy); Điều 230 (tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 231 (tội phá hủy
công trình, phương tiện quan trọng vể an ninh quốc gia); Điểu 232,các
khoản 2,3 và 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ); Điều 236,các khoản 2, 3 và 4
(tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất phóng xạ); Điều 238,các khoản 2,3 và 4 (tội sản
xuất, làng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất
cháy, chấl độc);
- Điều 256,các khoản 2 và 3 (tội mua đâm người chưa thành niên);
- Điều 278,các khoản 2,3 và 4 (tội tham ô tài); Điều 279,
các khoản 2,3 và 4 (tội nhận hối lộ); Điều 280,các khoản 2,3 và 4
(tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản); Điều 281, các
khoản 2 và 3 (tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành

công vụ); Điều 282,các khoản 2 và 3 (tội lạm quyền trong khi thi
21
hành cồng vụ); Điều 283,các khoản 2, 3 và 4 (tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi); Điều 284

các khoản 2,3 và 4 (tội giả mạo trong công lác); Điều 289, các
khoản 2, 3 và 4 (tội làm môi giới hối lộ);
- Điều 311 khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi
đang bị dăn giải, đang bị xét xử);
- Các điều từ Điều 341 đến Điều 344 về các tội phá hoại hòa
bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
2. Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyển hạn
cản trở việc phát hiện tội phạm hoặc có nhung hành vi khác bao che
người phạm tội, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Từ những quy định trên cho thấy:
Thứ nhất,
khổng tố giác tội phạm là hành vi của một người, tuy không
hứa hẹn trước và không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, nhưng biết rõ
tội phạm do người khác đang được chuẩn bị,đang được thực hiện hoặc đã
đưực thực hiện nhưng không thông báo về tội phạm và người phạm tội cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án,
ủy ban nhân dân các cấp để kịp thời ngăn chặn, phát hiện, xử ỉý tội phạm và
người phạm tội,
Thứ hai,
không phải mọi hành vi không tố giác tội phạm đều phải chịu
trách nhiệm hình sự, mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong những irường
hợp quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.
Thứ ba,
người không tố giác là ông, bà, cha, em, con, cháu, anh chị em
ruộl, vợ hoặc chồng của người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc

không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia (quy định tại các điều lừ 78
đến Điều 91 Bộ luật) hoặc các tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
được liệt kẽ tại khoản 1 Điều 313 (chứ không phải mọi tội phạm được quy
định tại Điều 313 Bộ luật hình sự năm 1999).
22
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm không lố giác lội phạm
như sau:
kỉìỏnịị tố giác tội phạm là hành vi của một người,tuy khỏng hứa hẹn

tì.ước và klỉồng tham gia vào việc thực hiện tội phạm,nhiOìỊị biết ro ỉội phạm

do "gười khúc dcmg được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực

hiện nhưnịị không thông báo về tội phạm và người phạm tộị CỈÌO cơ quan nhả

nước có thẩm quyền như cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa ánt ủ y ban

nhân dán các cấp để kịp thời ngăn chận, phát hiện, xử ỉỷ tộ i phạm và người

phạm tội.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm tội không tố giác tội phạm
Trước hết, cần khẳng định, tội không tố giác tội phạm phái thỏa mãn
đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo PGSTSKH Lê Cảm, phải thể hiện
ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của Ĩ
1
Ó là: a) bình diện khách quan:
tội phạm

à hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là
hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình điện chu quan: tội phạm là hành vi do

người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách có lỗi [17

tr_ 105].
Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học chưa đưa ra khái
niệm tội không tố giác tội phạm, nhưng đã đưa ra khái niệm các tội xâm phạm
hoại động lư pháp.
Các tác giả của
Giáo trình luật hình sự Việt Nam
cho rang: ”Các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của
các Cơ quan điểu tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi
cùa Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dârT [27

tr, 405],
Trên cơ sở phân tích các khái niệm trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm
tội không lố giác tội phạm như sau: /(}/'
không tố giác tội phạm lá hành vi nguy

hiểm CỈÌO xă hội, trái pháp hiậỉ hình sự của người có năng lực trách nhiệm
ỉùììh sự và đủ tuổi chịu tráclỉ nhiệm hình sự, tuv không tham }ịia vào việc thực

hiện tội phạm, nhưng biếỉ rõ Ịộ i phạm do người khác đúììịị íỉược clỉỉiẩn b ị’
23

×