ĐỀ TÀI
"Các tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình - một
số khía cạnh pháp lý hình sự
và tội phạm học"
1
Luận văn gồm 110 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 mục..................................................10
Chương 2 TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN
CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH...................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................164
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là mơi
trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình
tốt, thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình trong cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta
đã thiết lập chế độ hơn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn
nhân gia đình phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hơn nhân
và gia đình (HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện rất
rõ trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp
năm 1992 đã ghi nhận:
Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hơn nhân và gia đình.
Hơn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những
công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ơng bà, cha
3
mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các
con.
Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ và
tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng như
BLHS năm 1999 đều đã quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ,
góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ những tàn tích của chế độ
HN&GĐ phong kiến, lạc hậu.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng,
diễn biến phức tạp; tình trạng suy thối về chính trị, đạo đức, lối sống,
kể cả trong lĩnh vực HN&GĐ. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ khơng có xu hướng gia tăng, nhưng tính chất và mức độ ngày
càng nghiêm trọng, gây dư luận xấu trong xã hội.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ và hơn nhân
gia đình cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm
cho xã hội khơng cao, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống gia
đình; trên thực tế, các tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý
bằng các chế tài hình sự cịn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc, đòi hỏi
khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt
lý luận như: khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, ý nghĩa của
việc quy định các tội phạm này trong pháp luật hình sự... Trong khi đó,
4
xung quanh những vấn đề này, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm chế độ hơn nhân và
gia đình - một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học", mang
tính cấp thiết, khơng những về lý luận, mà cịn là địi hỏi của thực tiễn
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy cảm
cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên
cứu. ThS. Bùi Anh Dũng đã có cơng trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm
quyền tự do dân chủ của công dân, các tội xâm phạm chế độ hơn nhân
và gia đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; ThS. Trịnh Tiến Việt đã có các
cơng trình: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng các quy định tại
chương các tội xâm phạm chế độ hơn nhân và gia đình trong Bộ luật
hình sự 1999", Tạp chí khoa học Pháp lý, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, số 1/2003, "Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội
ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có
cơng ni dưỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số
9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sự
mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập chương XV - Các tội xâm phạm chế
5
độ hơn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có cơng trình: "Tìm
hiểu các tội xâm phạm chế độ hơn nhân và gia đình và các tội đối với
người chưa thành niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác giả Phan Đăng
Thanh và Trương Thị Hịa có cơng trình: Pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000...
Các cơng trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nhóm
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách tồn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dưới góc
độ pháp lý hình sự và tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng,
chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, đề xuất những giải pháp mang
tính hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng, chống nhóm tội
phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
6
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các
tội xâm phạm chế độ HN&GĐ; phân tích các quy định của pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới về loại tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá tình hình, ngun nhân và điều kiện các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ, thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm
này; dự báo tình tội phạm này trong những năm tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ dưới góc độ pháp
lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, thời gian từ năm 1997 đến năm
2004.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
7
dựng Nhà nước và pháp luật, những thành tựu của các khoa học: triết
học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học...
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, các báo cáo tổng kết, số liệu thống
kê của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống,
phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lơgíc, kết hợp với các phương pháp
khác như so sánh, điều tra xã hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là cơng trình chun khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tồn diện,
có hệ thống về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Có thể xem những nội
dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm
này trong pháp luật hình sự hiện hành.
8
- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra
những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ
và giải pháp được đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ ở
Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các
kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho
tàng lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như vào cuộc đấu tranh
phịng, chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công
tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án.
9
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 110 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 mục.
10
Chương 1 CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG
QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HƠN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lý cho đến trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945
Hôn nhân là một vấn đề hệ trọng đối với con người, gia đình là nền tảng
của xã hội. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến, HN&GĐ luôn luôn là lĩnh
vực được Nhà nước rất quan tâm điều chỉnh bằng pháp luật.
Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nước ta - Bộ Hình thư, được
ban hành năm 1042 dưới thời Lý Thái Tơng, vấn đề HN&GĐ chiếm giữ
một vị trí quan trọng và được quy định trong nhiều điều luật. Nét đặc
trưng chủ yếu của các quy định này là quyền uy tập trung trong tay người
chồng, mà mọi thành viên có bổn phận phục tùng; người chồng được
phép bỏ vợ trong trường hợp người vợ phạm một trong các tội "thất xuất",
còn người vợ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc nếu ruồng bỏ chồng; con cái
11
khơng làm trịn đạo hiếu sẽ bị trừng phạt. Trách nhiệm giáo dục con cái
tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ, nếu lơ là trách nhiệm thì chính cha mẹ
cũng bị trừng phạt [28, tr. 59].
Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống và
quan trọng nhất của triều đại nhà Lê, mười tội ác (thập ác) đã được quy
định tại Điều 3, trong đó có tới bốn tội liên quan đến HN&GĐ, đó là các
tội:
4. Ác nghịch, là đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ, bác chú, thím, cơ,
anh, chị em, ơng bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng...
7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo,
ni nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn
mặc như thường; nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà không cử ai (tang
lễ); nói dối là ơng bà, cha mẹ chết.
8. Bất mục, là giết hay đem bán những người trong họ phải để tang 3
tháng trở lên, đánh đập hoặc tố cáo chồng, cùng những họ hàng từ tiểu
công trở lên...
9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại nhiệm,
giết thầy học; nghe thấy tin chồng chết mà không cử ai, lại vui chơi ăn
mặc như thường, cùng là tái giá [36, tr. 36-37].
12
Ngồi ra, trong Quốc triều hình luật cịn có hẳn một chương hộ hơn (hơn
nhân gia đình) gồm 58 điều luật, trong đó có một số điều quy định những
trường hợp bị cấm kết hôn, nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là là
các trường hợp: đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng
hoặc cưới vợ, khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy
chồng... Ví dụ: Điều 317 quy định: "Người nào đang có tang cha mẹ
hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cưới vợ thì xử tội đồ, người khác
biết mà vẫn cứ kết hơn thì xử biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải
chia lìa" [36, tr. 122]. Bộ luật này cịn có một số quy định thể hiện tư
tưởng phong kiến coi khinh nghề hát xướng như quy định tại Điều 323:
"Các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ,
đều xử phạt 70 trượng, biếm ba tư; con cháu các quan viên mà lấy những
phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trượng; về đều phải ly dị" [36, tr. 123].
Dưới thời thực dân Pháp xâm lược nước ta, Việt Nam vẫn là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, chính quyền thực dân và giai cấp địa chủ
phong kiến vẫn duy trì chế độ hôn nhân phong kiến đã tồn tại từ nhiều
thế kỷ, thừa nhận sự cưỡng ép kết hôn của cha mẹ đối với con cái, bảo
vệ chế độ nhiều vợ (đa thê), duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và
nữ trong gia đình. Điều thứ 128 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc Kỳ
quy định: "Người vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng mà phạm tội thơng
gian, xét ra quả thực, phải phạt giam từ ba tháng đến hai năm và phạt
bạc từ bốn mươi đồng đến bốn trăm đồng, người gian phu bị phạt cũng
thế" [55, tr. 21]. Điều thứ 135 của Bộ luật còn quy định:
13
Người vợ hay vợ lẽ hiện đương có chồng, chưa tuyên cáo sự ly hôn, mà
đi lấy chồng khác, phải phạt giam từ một năm đến năm năm và phạt bạc
từ năm đồng đến hai trăm đồng.
Người có vợ chưa tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy vợ khác, phải phạt
giam từ ba tháng đến một năm và phạt bạc từ hai đồng đến một trăm
đồng [55, tr. 22].
Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy định những tội
phạm và hình phạt thích ứng để bảo vệ chế độ một chồng nhiều vợ. Theo
Bộ luật này, bị coi là phạm tội thông gian khi một người đàn bà đã có
chồng rồi mà cịn ân tình với một người đàn ơng khác, cịn đối với đàn
ơng có vợ thì hành vi ngoại tình khơng coi là tội phạm [38, tr. 202].
1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công
cho đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng, chính quyền nhân dân non
trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất
nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến
tranh và thiên tai tàn phá. ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tưởng Giới
Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng
dã tâm của chúng là giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền
nhân dân để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Ở miền
14
Nam, quân đội Pháp được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gịn,
rồi sau đó đánh rộng ra các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó là
diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định
giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu" [18, tr. 468]. Vì vậy, từ khi
Cách mạng tháng Tám thành công cho đến năm 1954 là thời điểm ký
Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là
Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến.
Trong hồn cảnh khó khăn đó, Nhà nước ta vẫn rất quan tâm xây dựng chế
độ HN&GĐ mới tiến bộ, từng bước xóa bỏ những quy định khắt khe của
chế độ thực dân, phong kiến đối với phụ nữ (Sắc lệnh số 97/SL ngày 1205-1950). Tuy nhiên, do phải tập trung quy định các tội phạm liên quan
đến sự an nguy của chính quyền nhân dân như các tội phản bội Tổ quốc,
tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô..., cho nên, trong giai đoạn này, Nhà nước
ta chưa có quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hồn tồn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và
bọn tay sai thống trị. Từ khi Luật HN&GĐ được ban hành năm 1959, đời
sống HN&GĐ đã có những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, những hành
vi vi phạm pháp luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ nghiêm
trọng, Trước tình hình đó, TANDTC đã có Thơng tư số 332-NCPL ngày
04-04-1966 hướng dẫn về xử lý hình sự đối với 8 hành vi vi phạm
nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ, đó là các hành vi: tảo hôn, cưỡng ép
15
kết hôn, cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ, yêu sách của cải trong việc
cưới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, thông gian, đánh đập hoặc ngược đãi
vợ, đánh đập hoặc ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ. Đây là văn bản pháp
lý đầu tiên hướng dẫn xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm
trọng pháp luật HN&GĐ kể từ khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Thông tư số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đã đề cập về từng hành vi vi
phạm như sau:
Thứ nhất, đối với hành vi tảo hôn, Thông tư nêu rõ:
Đối với nạn tảo hôn chủ yếu là giáo dục; cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm
trọng như: đã được chính quyền, đồn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản
mà vẫn cố ý vi phạm; hoặc đã gây ảnh hưởng chính trị xấu thì có thể phạt
cảnh cáo hoặc phạt tù treo hay tù giam. Đối tượng xử phạt có thể là cha
mẹ của đơi trai gái, người có trách nhiệm nuôi dưỡng (nếu trai hoặc gái
chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự), hoặc cả đơi bên trai gái (nếu họ đã
đến tuổi chịu TNHS: 15 tuổi [42, tr. 465].
Thứ hai, đối với hành vi cưỡng ép kết hôn, Thông tư nêu rõ:
Đối với hành động cưỡng ép kết hôn, vi phạm quyền tự do kết hôn, chủ
yếu là giáo dục, cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng, có thể phạt cảnh
cáo, tù treo hay tù giam.
16
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo tảo hơn; đã được chính
quyền, đồn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm;
có kèm theo đánh đập tàn nhẫn; đã gây ảnh hưởng chính trị xấu; rõ ràng
là nạn nhân vì bị cưỡng ép kết hôn mà sự sát [42, tr. 467].
Thứ ba, đối với hành vi cản trở hôn nhân tiến bộ, Thông tư hướng dẫn:
Đối với hành động cản trở hôn nhân tự do, tiến bộ, chủ yếu là giáo dục,
cá biệt nếu có tình tiết nghiêm trọng có thể phạt cảnh cáo, tù treo, hay tù
giam nếu rõ ràng là nạn nhân vì bị cản trở hơn nhân tự do và tiến bộ mà
tự sát, cần phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo cưỡng ép kết hơn; đã được
chính quyền, đồn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi
phạm; có kèm theo lăng nhục thậm tệ, nhục hình tần nhẫn; đã gây ảnh
hưởng chính trị xấu [42, tr. 468].
Thứ tư, đối với hành vi yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, tức là sự
đòi hỏi về tiền, vàng, quần áo, gạo, thịt, rượu... trong việc cưới hỏi của
nhà gái đối với nhà trai với ý nghĩa là điều kiện để được kết hơn, Thơng
tư hướng dẫn: "Về mặt hình sự, nếu việc yêu sách của cải trong việc
cưới hỏi gắn liền với tảo hôn, hoặc cưỡng ép kết hôn, hoặc cản trở hơn
nhân tự do và tiến bộ thì cần chú ý kết hợp xem xét, đánh giá trong
những trường hợp phải xử lý nạn tảo hôn, cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở
hôn nhân tự do và tiến bộ" [42, tr. 469].
17
Thứ năm, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông tư hướng dẫn:
Đối với người lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày ban hành Luật
HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê bình, để ngăn ngừa và chấm dứt.
Cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị xử phạt cảnh cáo hoặc
tù treo hay tù giam về tội "lấy nhiều vợ" (hoặc tội lấy vợ lẽ). Nếu bị cáo
đã bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo mà vẫn không chịu cắt đứt với người
vợ lẽ thì phải phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đã được giáo dục, giải thích mà
vẫn cố tình vi phạm; đã được Tịa án tun bố cuộc kết hơn là bất hợp
pháp mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng; hành vi có tính chất lừa
dối cơ quan, đồn thể, lừa dối vợ trước hoặc vợ sau; gây ảnh hưởng, tác
hại xấu, dư luận phản đối [42, tr. 470].
Thứ sáu, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan hệ tình dục bất
chính giữa một bên đang có vợ hoặc có chồng với người khác (dù là
người này đã có hoặc chưa có vợ, có chồng), Thơng tư nêu rõ:
Trong tình hình xã hội miền Bắc nước ta hiện nay, không thể coi thông
gian là một khuyết điểm về sinh hoạt cá nhân, mà khi có những tình tiết
nghiêm trọng nhất định phải coi thơng gian là một tội phạm đã xâm
phạm đến quan hệ HN&GĐ được pháp luật bảo vệ, đến thuần phong mỹ
tục và đến trật tự xã hội.
18
Đường lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội thông gian là: biện pháp
ngăn chặn tệ nạn này chủ yếu vẫn giáo dục. Các cơ quan, đoàn thể cần
tăng cường công tác giáo dục quần chúng về đạo đức, xã hội mới, chống
những tư tưởng và nếp sống sa đọa, đồi bại, trụy lạc do xã hội cũ để lại.
Trong một số ít trường hợp cần thiết, có thể dùng biện pháp tư pháp để
làm chỗ dựa cho cơng tác giáo dục nói trên. Những trường hợp cần thiết
đó là:
- Thơng gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những người vì nhiệm vụ
cơng tác mà phải thốt ly gia đình, tại những địa phương xảy ra nhiều vụ
thông gian, làm ảnh hưởng đến tinh thần cơng tác của người chồng.
- Thơng gian có tính chất nghiêm trọng như: thông gian một cách trắng
trợn hoặc kéo dài; do thông gian mà phá hoại hạnh phúc của nhiều gia
đình; bất chấp sự giáo dục của cơ quan, đồn thể hoặc sự phản đối của
gia đình người chồng, của người vợ, của kẻ ngoại tình và bị quần chúng
cơng phẫn địi hỏi phải trừng phạt.
- Do thơng gian mà dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như gây ra án
mạng, tham ô lớn, đào ngũ, đào nhiệm hoặc những hành động phạm
pháp nghiêm trọng khác [42, tr. 471].
Thứ bảy, đối với hành vi đánh đập hoặc ngược đãi vợ, tức là những hành
động của người chồng không đối xử bình đẳng, dân chủ với người vợ,
19
xâm hại đến sức khỏe, nhân cách, quyền tự do của người vợ, Thông tư
hướng dẫn:
Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thường xuyên quan điểm bình đẳng
và dân chủ trong quan hệ vợ chồng nhưng cần xử lý về hình sự để hỗ trợ
cho cơng tác giáo dục trong một số trường hợp cần thiết như:
- Đối với những hành động đánh đập nghiêm trọng như làm chết người,
gây thương tích nặng hoặc thương tật lâu ngày, dẫn đến tự sát, do bọn
can phạm bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung ác hoặc dùng thủ
đoạn thâm độc gây ra, cần phải nghiêm trị tùy tình tiết cụ thể.
- Đối với những hành động ngược đãi chưa gây tác hại nghiêm trọng của
những người chậm tiến thì chủ yếu là giáo dục, hoặc cảnh cáo. Trường
hợp có tác hại nhất định và có bị quần chúng căm phẫn, có thể xử phạt
cảnh cáo hoặc án treo hay tù giam khi thấy thật cần thiết [42, tr. 473].
Thứ tám, đối với hành vi đánh đập, ngược đãi con, ngược đãi bố mẹ,
Thông tư hướng dẫn:
Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp của Nhà nước chúng ta địi
hỏi con cái phải "kính u, săn sóc, ni dưỡng cha mẹ". Tuy nhiên,
thỉnh thoảng còn xảy ra trường hợp con cái ngược đãi, hắt hủi, không
nuôi dưỡng bố mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối xử vô đạo đức của con cái
đã làm cho bố mẹ tự sát. Trong những trường hợp nghiêm trọng trên,
20
cần đưa ra xét xử điển hình một vài vụ để giáo dục chung, đồng thời bắt
con cái phải nuôi dưỡng bố mẹ già yếu [42, tr. 474].
Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông tư số 332-NCPL ngày
04-04-1966 của TANDTC đã quán triệt tốt phương châm, đường lối
chung đối với việc xử lý về hình sự các hành vi vi phạm nghiêm trọng
pháp luật HN&GĐ là: kiên trì giáo dục, thuyết phục tuân thủ pháp luật là
chủ yếu, kết hợp biện pháp trừng trị đối với những trường hợp vi phạm
nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ.
1.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời cho đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, V của Đảng,
nhân dân ta đã giành được những thành tựu quan trọng trên một số lĩnh
vực, cải biến được một phần cơ cấu của nền kinh tế - xã hội, tạo ra
những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó
khăn và khuyết điểm như chủ quan duy ý chí, duy trì q lâu mơ hình
kinh tế quan liêu, bao cấp nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là
ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành khơng thể
hiện được tồn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Vì vậy, việc ban hành BLHS là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp
21
thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đáp ứng yêu cầu
đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hịa XHCN
Việt Nam khóa VII, đã thơng qua BLHS, có hiệu lực thi hành từ ngày 11-1986 (sau đây gọi tắt là BLHS 1985).
BLHS 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự
Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo
được tình hình tội phạm trong thời gian tới.
Trong Bộ luật này, đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý các tội phạm
xâm phạm chế độ hơn nhân gia đình nhằm vào những biểu hiện nghiêm
trọng nhất của các tàn tích của chế độ hơn nhân nhân gia đình phong
kiến, lạc hậu như: cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ,
vi phạm chế độ một vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn luân, ngược đãi
nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Với quan niệm
rằng, gia đình là thiết chế xã hội có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo
vệ quyền lợi của con cái, nhất là con chưa thành niên và việc đó quan hệ
mật thiết với việc bảo đảm hạnh phúc gia đình, nhà làm luật đã quy định
các tội xâm phạm chế độ hơn nhân gia đình và các tội phạm đối với
người chưa thành niên vào Chương V của BLHS 1985, từ Điều 143 đến
Điều 149 và Điều 150 quy định hình phạt bổ sung.
22
BLHS 1985 đã quy định tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều
144), tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 145), tội loạn luân (Điều
146), tội ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con
cái (Điều 147). Tư tưởng chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định về
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục và
thuyết phục tuân thủ pháp luật, kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp
trừng trị đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào
khách thể bị xâm phạm, có thể chia các tội phạm này thành hai nhóm
trong đó nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân bao gồm: tội cưỡng
ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, tội vi phạm chế độ
một vợ, một chồng, tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn, tội loạn ln và
nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình bao gồm: tội ngược đãi nghiêm
trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái.
Việc BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đánh dấu
sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta.
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong
BLHS 1985, cho thấy đặc điểm chung của các tội phạm thuộc nhóm tội
này như sau:
Thứ nhất, các hành vi khách quan cấu thành các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ thường phải có các tình tiết nghiêm trọng như dùng các thủ đoạn
23
thô bạo, xảo quyệt như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách
bằng của cải.
Thứ hai, đối tượng được bảo vệ chủ yếu là người cao tuổi, phụ nữ và
con cái mà quyền lợi của họ bị các hành vi ảnh hưởng của tàn dư tư
tưởng phong kiến trọng nam, khinh nữ và gia trưởng xâm phạm.
Thứ ba, mức hình phạt được quy định đối với các tội này khơng cao:
mức hình phạt tối đa đối với hầu hết các tội phạm này là ba năm tù, duy
nhất tội loạn ln có mức hình phạt cao nhất là năm năm tù. Như vậy,
theo quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS 1985, nhóm các tội xâm phạm
chế độ HN&GĐ đều được coi là những tội phạm ít nghiêm trọng.
1.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 cho đến nay
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu
quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và bạn bè quốc
tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích
cực, mặt trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề
tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Trong tình hình
đó, BLHS 1985, dù đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần, nhưng còn nhiều
24
điểm bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, nhằm
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi tồn diện
BLHS 1985 là một đòi hỏi khách quan của hoạt động lập pháp hình sự.
Để phục vụ được yêu cầu đề ra, ngày 21-12-1999, Quốc hội nước Cộng
hịa XHCN Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua BLHS (sau
đây gọi tắt là BLHS 1999), thay thế cho BLHS 1985. BLHS 1999 có hiệu
lực thi hành từ ngày 1-7-2000.
Về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, BLHS 1999 có những điểm mới
cơ bản như sau:
Thứ nhất, Chương XV của BLHS 1999 quy định về các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân gia đình được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung
Chương V của BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ hơn nhân
gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên. Điểm mới đầu
tiên dễ nhận thấy là BLHS 1999, đã có điều chỉnh phạm vi của chương
này theo hướng thu hẹp lại chỉ còn các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ còn
các tội phạm đối với người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em được điều
chuyển sang các chương thích hợp khác.
Như vậy, Chương XV của BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm chế
độ hơn nhân gia đình chỉ cịn lại gồm 7 điều (từ Điều 146 đến Điều 152).
25